Mẹ tôi và nỗi “ám ảnh” mang tên thiếu nữ Hà Nội
Mẹ tôi nể phục mấy cô gái Hà Nội lắm. Trong con mắt của một người nhà quê lặn lội ra Hà Nội làm việc vặt ngày xưa, các thiếu nữ đất kinh kỳ luôn hiện lên với dáng vẻ kín đáo, ứng xử khôn khéo, nói năng lễ độ, khuôn phép, lại còn thêu thùa, may vá, nữ công gia chánh đủ cả. Nói chung là đảm. Mỗi lần nhìn mấy cô Sài Gòn tân thời, ăn nói tự nhiên, đi đứng phóng khoáng, mẹ tôi lại thở dài: “Con gái Hà Nội đâu có thế.” Bà nói riết, nói riết… đến mức tôi bắt đầu ngờ ngợ rằng hình như trong lòng bà vẫn âm thầm mong thằng con trai Nam Kỳ của mình mai này nên lấy một cô gái Hà Nội cho nó… yên tâm.
Một thằng Sài Gòn và nỗi “ớn lạnh” Bắc Kỳ
Nhưng thế giới của tôi lại khác. Tôi sinh ra ở Sài Gòn, lớn lên ở Sài Gòn, bạn bè Sài Gòn, nên trong cái đầu đơn giản của mình, nếu có nghĩ đến chuyện yêu đương, tôi cũng chỉ tự hình dung đó phải là một cô gái Sài Gòn cho hợp… thủy thổ. Con gái Bắc di cư 54 mà tôi gặp ngày nhỏ thì “gớm” lắm: vờn qua vờn lại, làm duyên, đá lông nheo, õng ẹo vừa vừa phải phải thôi cũng đủ làm mấy cậu trai Nam Kỳ điêu đứng. Nguyễn Tất Nhiên đã từng cay đắng nhắn nhủ “Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc / Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền…”, tôi thì chẳng dám có ý kiến, bởi tác giả đã chết trong chiếc xe hơi cũ ở sân một ngôi chùa California, còn mấy cô Bắc Kỳ đọc tới mà nổi trận tam bành thì cũng tự rủa mình chứ tìm đâu ra ông nhà thơ để mà mắng. Rồi sau 1975, trên tivi Sài Gòn là hình ảnh những “chiến sĩ gái” Bắc Kỳ thứ thiệt, bước đều, mắt rực lửa căm thù, giọng nói lanh lảnh. Cảm giác đầu tiên của tôi trước hình ảnh “con gái Hà Nội của mẹ” là… ớn lạnh. Tôi trêu bà: “Đấy, con gái Hà Nội của mẹ đấy.” Bà cụ chỉ biết thở dài: “Hồi trước đâu có thế…” Bà không biết rằng thằng con mình đang cố tình đánh đồng tất cả cô gái Bắc Kỳ với cô gái Hà Nội, cho tiện tranh luận.
Thiếu nữ Hà thành qua trang sách cũ
Thực ra, ngay trong đầu tôi cũng có một hình bóng mơ hồ về con gái Hà Nội – nhưng đó là những thiếu nữ bước ra từ trang sách. Là cô Liên dịu dàng đằm thắm trong “Gánh hàng hoa”, là cô Loan tân thời mà vẫn bị lễ giáo siết chặt trong “Đoạn tuyệt”, là dáng Loan cô đơn đi dọc bờ đê Yên Phụ mà tôi “cảm thấy” được hơn là hiểu hết. Đọc “Tuấn, chàng trai nước Việt” của Nguyễn Vỹ, tôi lại gặp những nữ sinh Hà Nội lãng mạn ra rít, kín đáo lập hội “Ái Tino” mê giọng hát Tino Rossi, một chút say mê tân thời rồi cũng tan biến khi từng người lại trở về với nếp nhà, tam tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh. Lãng mạn chỉ bùng lên như đóm lửa, còn cái nền thanh lịch, khuôn phép mới là thứ bền chặt. Thế là trong tưởng tượng, con gái Hà Nội của tôi vừa có chút mơ mộng, vừa thủy chung với một hệ giá trị cũ kỹ mà đáng kính.
Lần đầu đi Hà Nội: Khâm Thiên, phố Huế và những bất ngờ
Năm 1980, lần đầu tiên tôi ra Hà Nội công tác. Anh bạn đồng nghiệp tốt nghiệp bên Đông Đức chở tôi đi khắp phố trên chiếc Simson khề khà. Nơi đầu tiên tôi muốn ghé là… Khâm Thiên. Anh bạn tròn mắt: “Làm gì còn hố bom mà thăm?” Tôi bật cười, không biết giải thích sao rằng trong đầu thằng trai Sài Gòn mới ra Bắc, Khâm Thiên không chỉ gắn với bom đạn mà còn là một thứ “phong lưu tài tử” đã từng vang bóng, dù không phải kiểu phong lưu nho nhã của Vân Hạc trong “Lều chõng” hay nỗi u uất tài tử của Cao Bá Quát giữa ca trù, rượu nồng, tiếng phách. Cái máu phóng đãng đã dẫn tôi đến Khâm Thiên chứ chẳng phải lòng hiếu kỳ với chiến tích bom rơi. Ngày ấy, phố nghèo, nhà xiêu vẹo, nhưng tôi thấy được chút dư hương của một Hà Nội khác, Hà Nội vừa tài tử vừa tàn phai. Chiều chạng vạng ở phố Huế, tôi chứng kiến một bà đi xe đạp ngược chiều bị cảnh sát ngoắc lại. Bà không năn nỉ, cũng chẳng nhận mình sai, mà cãi tay đôi ra trò, cả hai vẫn xưng “đồng chí” rất mực trang nghiêm. Tôi cười mà choáng: Hà Nội có những cảnh không nằm trong trí tưởng tượng của một người Sài Gòn như tôi.
Hà Nội hôm nay: giàu hơn nhưng khó gần hơn
Hà Nội bây giờ khác xưa nhiều lắm. Nhà cao tầng, cầu vượt, xe hơi chen chúc. Những cảnh cãi tay đôi với cảnh sát vì vài đồng tiền phạt chắc hiếm rồi. Nhưng đổi lại là những cảnh thanh niên thiếu nữ à la mode giẫm lên thảm hoa để chụp hình, gào thét đón thần tượng Hàn Quốc, hay những quán “bún mắng, cháo chửi” treo lơ lửng giữa phố như một thương hiệu kỳ quặc. Tôi ra Hà Nội nhiều hơn vì công việc, ăn uống với bạn bè bản xứ thì không sao, chứ hễ đi một mình là thế nào cũng bị “chặt” giá, ngay cả chai nước suối ven đường phố cổ cũng mười nghìn. Bị chặt riết thành quen, lần nào ra Hà Nội mà không bị chặt thì tôi tự coi như… trúng số. Sài Gòn dễ hội nhập, cứ sống một thời gian là thành người Sài Gòn, hoặc ít nhất cũng thấy mình thuộc về nơi này. Hà Nội thì hình như ngược lại: người ta ào ào đổ về, đem theo đủ thứ văn hóa, giành giật chiếm chỗ, đồng hóa Hà Nội bằng cách của họ. Còn người Hà Nội “thứ thiệt” thì co cụm lại, khép kín trong những con ngõ, những căn nhà cũ, lặng lẽ dạy con cái theo cách riêng để giữ lấy một thứ di sản vô hình.
Một câu “Thưa ông” giữa phố cổ và bóng dáng Hà Nội xưa
Tôi vẫn nhớ mãi một buổi sáng năm ngoái, lang thang trong ngõ nhỏ giữa khu phố cổ, khát nước ghé đại vào một tiệm tạp hóa. Bà cụ bán hàng, tóc bạc, chắc cũng ngoài bảy mươi, đưa chai nước lạnh rồi nói rất chậm: “Thưa, của ông đây, giá năm nghìn. Cám ơn ông.” Tai tôi lùng bùng, có cái gì đó vừa cũ vừa quen, giống như câu chữ bước ra từ trang sách Tự Lực Văn Đoàn. Tôi dợm bước rồi quay lại hỏi: “Thưa bà, bà là người Hà Nội?” Bà mỉm cười, ánh mắt rất hiền: “Vâng ạ, nhà tôi ở ngõ này đã ba đời rồi, từ thời ông nội tôi ra làm quan ở đây.” Chỉ một câu “thưa ông” thôi, Hà Nội xưa vụt trở về, với những gia đình trí thức học Tây, với các bà mẹ quyết không cho con bỏ học dù phải đi vay tiền hàng xóm, với những đứa trẻ được dạy từ cái “dạ”, cái “cám ơn”, đến cách ăn một quả chuối cũng phải bẻ đôi cho đúng mực. Tôi chợt hiểu lời mẹ mình năm xưa không hẳn là ảo tưởng. Con gái Hà Nội – và rộng hơn là người Hà Nội cũ – dường như được đúc từ một khuôn giáo dục gia đình rất chặt, nơi “giấy rách phải giữ lấy lề”, mực đen và bão tố không dễ gì làm rách.
Con gái Hà Nội, giọt nước dưới mặt lá
Giờ đây, mỗi lần nhớ lại mẹ, tôi lại nhớ đến câu “Con gái Hà Nội đâu có thế” của bà, như một tiếng thở dài gửi cho một thời đã mất. Hà Nội bây giờ ồn ã, nhiều lớp người chen chúc, nhiều thói quen mới lạ xấu tốt lẫn lộn. Nhưng đâu đó, trong những ngõ nhỏ hun hút, trong một tiệm tạp hóa cũ kỹ, trong giọng nói “dạ, thưa, cám ơn” của một bà già gần bảy mươi, con gái Hà Nội ngày xưa vẫn còn đó, lẩn quất như giọt nước trong veo đọng ở mặt dưới chiếc lá sau cơn mưa. Không phô trương, không dễ bắt gặp, phải có duyên mới thấy, phải chịu khó cúi xuống mới nhận ra. Có lẽ, Hà Nội đẹp nhất vào lúc sáng sớm khi hồ còn mù sương; và con gái Hà Nội xưa cũng thế – đẹp nhất khi người ta tưởng như họ biến mất, nhưng thật ra vẫn âm thầm ở đó, giữ cho mình một chút thanh lịch, một chút tự trọng, một chút nề nếp mà mẹ tôi đã từng mang theo suốt đời như một niềm tin không chịu tàn phai.