“Tấm chăn hạnh phúc” và tấm chăn đời rách nát
Nam Cao viết trong Sống mòn: “Hạnh phúc là một tấm chăn hẹp, người này ấm thì người kia lạnh”. Còn tấm chăn hạnh phúc của gia đình mình thì không chỉ hẹp, mà còn mỏng manh, chi chít những lỗ thủng, những vết nhăn, đến mức cuối cùng chẳng ai được ấm cả.
Bố mình – con quan, học trường Bưởi, hiểu biết, xuất chúng, giỏi năm bảy ngoại ngữ. Mẹ mình – con thầy hiệu trưởng ở huyện Đại Từ, nơi ông bà ngoại từng bỏ căn nhà 225 mét vuông ở số 100 Yên Phụ, Hà Nội để đi theo kháng chiến. Còn mình, sinh viên Đại học Sư phạm I Hà Nội, vừa ngồi giảng đường đã liên tiếp nhận giải thưởng “Vui cười”, “Tự bạch”, “Diễn đàn vẻ đẹp tuổi trẻ”… Em mình – một chiến sĩ quân đội nhân dân. Từng ấy con người, từng ấy “lý lịch đỏ”, rốt cuộc lại trở thành những nạn nhân điển hình của chế độ cộng sản.
Khi tấm chăn đời đã quá hẹp, lại chi chít vết rách, mới 13 tuổi, trong lúc “nhanh bước nhanh nhi đồng theo cờ đỏ sao vàng”, mình đã phải tự dệt cho mình một tấm chăn khác – tấm chăn thơ. Và những mảnh đầu tiên, tất nhiên, là dành cho mẹ.
Mẹ tôi – người đàn bà bị bóc lột đến trắng mắt
Cho tới tận bây giờ, khi “xe đời ga cuối đã chờ”, lần mò chống gậy khưa vào trời đêm, mình vẫn tin khó có ai trong cuộc đổi đời này bị bóc lột đến trắng mắt, trắng tay như mẹ mình. Cả cuộc đời mẹ, từ bình minh đến hoàng hôn, chỉ toàn… “bí tính”.
Mới 16 tuổi, mình đã chứng kiến cảnh ông nội – bố đẻ của mẹ – bị chính học sinh và phụ huynh xộc vào nhà bắt, trói, lôi đi. Ông bị quy là “Quốc dân đảng”, “địa chủ bóc lột”, bị chuẩn bị đem ra đấu tố. Để giữ lại chút phẩm giá cuối cùng, ông chọn cách rạch bụng tự tử. Dù một người bạn y tá người Pháp cố gắng sơ cứu, nhét đoạn ruột lòi ra trở lại ổ bụng, khâu, tiêm, băng bó… ông vẫn nhất quyết không sống thêm để đứng trước sân đình nghe đội cải cách vu khống, dựng tội, và bị chôn sấp “cho nòi địa chủ khỏi nảy nòi”.
Dì Quyên – em ruột của mẹ – bị cả đội dân quân giằng chiếc áo mới trên người, bắt phải cởi ngay trước mặt lũ khốn với lý do: “Áo này do bóc lột dân nghèo mà có”. Bà ngoại – mẹ đẻ của mẹ – bị giam trong chuồng lợn nhà dân, bị bỏ đói đến mức chỉ ngửi mùi cám lợn cũng thèm rỏ dãi.
Không cha, không mẹ, không nhà, chín anh chị em bị xé toạc, tha phương cầu thực khắp nơi. Mẹ, chưa đầy 17 tuổi, phải vào thanh niên xung phong, vác tà vẹt đường sắt Hà Nội – Ninh Bình. Đói, rét, gầy rộc, có ba bộ quần áo đồng đội nhường cho cũng bị cán bộ “quản lý” bắt chia lại, “nhường cho tập thể”. Bảy tám năm đi hết công trình này tới công trình kia, đến khi về Bộ Thủy lợi sinh mình, mẹ lại bị… nghỉ không lương vì “chưa đủ tiêu chuẩn hai năm công tác”.
Tuổi thơ tôi trong nền “văn minh hố xí”
Năm 1973, cả nhà năm người sống trong khu tập thể của Viện, vẻn vẹn 10,5 mét vuông. Chỉ có một chiếc giường ọp ẹp và một tấm phản sót lại từ 1945, sau khi gia sản ông bà nội bị tịch thu. Đêm ngủ chen chúc, nhưng chính trong cái cảnh chen chúc ấy, mình mới thấy rõ nhất tấm lưng mẹ còng xuống vì cuộc đời.
Cứ ba giờ sáng, mình lại nghe tiếng nan giường cọt kẹt. Mẹ lặng lẽ bật dậy, đi đôi ủng rách, đeo đôi găng tay cao su cũ, đội nón mê, bịt khẩu trang kín bưng để ra dọn vệ sinh khu tập thể. Khu vệ sinh ấy chỉ là một dãy hố xí chạy dài, mỗi hố là một thùng phuy hoặc bể nước, bên cạnh là một sọt to đựng “giấy chùi” – từ giấy báo đến vỏ xi măng cứng quèo, chứ chưa hề có giấy vệ sinh.
Việc của mẹ là kéo nước từ máy bơm công cộng đổ đầy bể, đốt hết giấy trong sọt, hốt tro đổ đi, cọ rửa từng hố phân. Nhưng do nước ít, do ý thức nhiều người kém, lại do cả một nền “văn minh tập thể” được dựng lên trên sự tiện lợi cho cán bộ và sự nhục nhã cho người dọn dẹp, hố xí lúc nào cũng tràn ngập phân, tiểu, giấy bẩn. Nhiều người – dù là cán bộ công nhân viên – vẫn cứ vô tư “xổ bừa” vào bất cứ đâu: từ nền đất đến sọt giấy, thậm chí trèo cả lên thành bể nước.
Tất cả những thứ bẩn thỉu ấy, mẹ phải một mình gánh lấy. Mỗi lần nghe tiếng nan giường kêu, mình lại trằn trọc không ngủ nổi, vừa thương mẹ, vừa sợ tiếng thở dài não nuột của bố và tiếng khóc ngằn ngặt của đứa em út kém mình gần chín tuổi. Rồi sáng ra, mẹ trở về, mặt vàng vọt, người hôi hám vì mùi hố xí, vội vàng rửa qua rồi thay bộ quần áo duy nhất để đi làm với cái bụng trống rỗng.
Chính từ những đêm ấy, mình học cách căm ghét chế độ, căm ghét cái thứ “văn minh hố xí tập thể” do Đảng Cộng sản dựng lên. Cũng chính từ sự căm ghét đó, mình trở thành cái gai trong mắt Đảng, bị bắt nóng, bắt nguội, suýt bị nấu chín trong chảo dầu sôi lửa bỏng nếu không có ba triệu người Việt hải ngoại kịp thời lên tiếng can thiệp.
Tấm chăn thơ đầu tiên – lời bù đắp gửi cho mẹ
Năm 13 tuổi, mảnh chăn thơ đầu tiên mình dệt ra đời, còn vụng về, chưa chau chuốt, nhưng đến hôm nay vẫn sống động trong trí nhớ. Đó là những câu chữ run rẩy muốn bù đắp phần nào nỗi đau mẹ gánh:
“Con muốn bù đắp cho mẹ phần nào
Những nỗi đau thương đời mẹ đã trải
Cuộc đời mẹ những tháng ngày khổ ải
Từ tuổi tròn trăng bị Đảng đuổi khỏi nhà…”
Tuổi thơ mình không đồ chơi, không bánh kẹo, chỉ có tiếng thở dài, cãi vã, âu lo bên mâm cơm đạm bạc. Mình lớn lên giữa bệnh tật, thấp khớp hành hạ, có những năm cả bàn chân sưng vù, không đứng, không nằm, không ngồi được. Mẹ phải bế mình đi bộ 14 cây số từ nơi sơ tán về Hà Nội để kịp khám bệnh, rồi suốt một thời gian dài, sáng cõng mình tới trường, trưa chạy về cơ quan, giờ giải lao đứng nép ngoài cửa lớp ngó vào chỉ sợ mình chạy nhảy, chiều lại lật đật quay về, cõng con qua những vũng lầy, bờ mương.
Ngồi trên lưng mẹ, ôm chặt cổ mẹ, mình đã từng ngây thơ hỏi:
“Mẹ sinh con để làm chi,
Vô duyên có dễ tới khi bạc đầu…”
Nhưng chính những câu hỏi đau đớn ấy, những đêm trắng, những mùi hố xí bám vào áo mẹ, đã dệt nên tấm chăn thơ – thứ duy nhất đủ sức giữ cho tâm hồn mình khỏi giá lạnh khi đời sống vật chất và tinh thần bị xé rách bởi chế độ.
Từ tấm chăn thơ đến người bất đồng chính kiến
Suốt 51 năm rúc mình trong tấm chăn thơ, mình đã dệt biết bao mảng màu ngang dọc: từ những bài thơ đầu tiên viết về mẹ, đến những dòng dành cho tuổi trăng tròn, những ngày sinh viên Sư phạm, những năm làm “giáo bản, giáo làng”, rồi làm phóng viên báo Đảng, báo mạng… Thơ đến với mình tự nhiên như hơi thở, dù “cuộc đời khốn khó giơ nanh vuốt”, xé toạc tấm chăn đơn sơ vốn đã không đủ ấm cho bốn người trong gia đình.
Thế nhưng, chính vì yêu thơ, yêu sự thật, mà mình buộc phải rời khỏi tấm chăn thơ để bước ra viết báo, viết đơn, lên tiếng cho dân oan mất đất, mất nhà, sống cảnh màn trời chiếu đất. Mình lên án Đảng Cộng sản và Hồ Chí Minh – một lãnh tụ lưu manh được một chế độ lưu manh tôn thờ – vì cảm thấy đó là trách nhiệm công dân, trách nhiệm của một người đã nếm đủ nhục nhằn dưới chế độ ấy.
Dù không có tiền in riêng một tập thơ, mình vẫn được nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm chọn những bài rải rác đăng báo để đưa vào Nghìn câu thơ tài hoa, bên cạnh những tên tuổi từ Lý Thường Kiệt, Á Nam Trần Tuấn Khải cho tới thế kỷ 21. Đó là niềm an ủi lớn, trước khi công an ập vào nhà, “trưng thu” mọi thứ: bản thảo, máy tính, điện thoại, xe máy… biến ngôi nhà ngoại ô thành hang đá trơ trọi bốn bức tường. Nếu không nhờ cộng đồng hải ngoại chia sẻ, có lẽ cả nhà bốn người đã chết rũ trong “chính sách bao vây kinh tế” dành cho những ai dám đối đầu với Đảng.
Tấm chăn đời mới trên đất Mỹ
Từ ngày sang Mỹ tị nạn, thoát khỏi góc tối cuối cùng do bọn lãnh đạo “đầu trộm đuôi cướp” dựng nên, tấm chăn đời của gia đình mình đã đủ rộng, đủ dài, đủ ấm. Trái ngược hoàn toàn với Nam Cao, hạnh phúc bây giờ không còn là “tấm chăn hẹp, người này ấm thì người kia lạnh” nữa, mà là tấm chăn mà tất cả đều có thể cùng đắp.
Hai đứa con – không còn phải chui rúc trong căn phòng 10,5 mét vuông, không phải ngửi mùi hố xí tập thể – đã trưởng thành, vươn lên một cách vượt bậc. Chúng định cư ở San Francisco và New York, bay xa hơn hẳn thế hệ của mẹ, đúng như quy luật: đà bay của thế hệ sau bao giờ cũng rộng và dài hơn.
Còn mình, dù tấm chăn đời đã ấm, vẫn không vứt bỏ tấm chăn thơ. Ngược lại, thỉnh thoảng lại vùi đầu vào đó, vẫn thấy ấm áp và thanh thản vô cùng. Thay vì câu hỏi ngây thơ năm nào trên lưng mẹ: “Mẹ sinh con để làm chi?”, bây giờ mình đã có câu trả lời nghiêm túc:
Tôi là ai? Và vì sao tôi phải viết
Tôi là ai ư? Tôi là đứa con mà tổ tiên gửi lại để hàn gắn những nỗi oan khuất, khát vọng của cả hai phía nội ngoại: ông bà, bố mẹ, các bác, các chú, cô dì, anh chị em họ và cả anh em ruột thịt – những người Bắc kỳ di cư 1945, 1954, và cả những người ở lại, mắc kẹt trong guồng máy cộng sản từ 1930 đến nay mà vẫn không thoát được tai ương.
Có người chết vì suy dinh dưỡng trong thời “tự túc lương thực”, có người chết trong trại cải tạo: “Toàn thân ta tả tơi, đói lả / Gắng sức mình nuôi cán bộ trại giam…”. Có người làm mồi cho cá mập trên Biển Đông, có người rơi vào hố thẳm đường cùng trong đáy cống của ngôi nhà xã hội chủ nghĩa sau “ba mươi thứ tang” năm 1975.
Tôi viết, vì nếu không viết, tất cả những phận người ấy sẽ chìm nghỉm như bọt nước. Tôi viết, vì đó là cách duy nhất để giữ cho tấm chăn thơ – tấm chăn duy nhất mà chế độ này không tịch thu được – còn đủ sợi đủ màu mà che chở cho ký ức, cho lương tri, cho khát vọng được sống như một con người đúng nghĩa.
Và tôi viết, vì trong sâu thẳm, tôi vẫn tin: một ngày nào đó, sẽ có thêm nhiều tấm chăn đời bớt rách, nhiều đứa trẻ thôi phải ngửi mùi hố xí tập thể để lớn lên, và thơ sẽ không còn phải làm nhiệm vụ giữ ấm cho những linh hồn bị rét buốt giữa một xã hội giả dối mang tên “thiên đường xã hội chủ nghĩa” nữa.