Gần đây, t́nh trạng lạm dụng chương tŕnh thị thực H1B và tác động tiêu cực của nó đối với người lao động Mỹ đă trở thành tiêu điểm, đặc biệt là khi các kỹ sư máy tính và công nhân công nghệ thông tin Mỹ bị thay thế bởi những nhân viên văn pḥng giá rẻ đến từ Ấn Độ.
Tuy nhiên, một chương tŕnh khác, thị thực L-1 , cũng đang được các nhà tuyển dụng và công ty khai thác để có được nguồn lao động giá rẻ từ Ấn Độ, nhưng lại không được biết đến nhiều hoặc viết rộng răi.
Thị thực L-1 cho phép các công ty đa quốc gia điều chuyển nhân viên từ văn pḥng nước ngoài đến hoạt động tại Hoa Kỳ. Có hai loại: L-1A dành cho giám đốc điều hành và quản lư, và L-1B dành cho nhân viên có kiến thức chuyên môn.
Không giống như thị thực H-1B, thị thực L-1A không có giới hạn hàng năm và không yêu cầu về mức lương, khiến chúng thậm chí c̣n hấp dẫn hơn đối với các nhà tuyển dụng muốn nhập khẩu lao động nước ngoài giá rẻ.
Công dân Ấn Độ đă chiếm ưu thế trong việc cấp thị thực L-1 trong nhiều thập kỷ, tăng từ 4,5 phần trăm vào năm 1997 lên 43,8 phần trăm vào năm 2006 và đạt 80,8 phần trăm vào năm 2011.
V́ chương tŕnh L-1 không có giới hạn về số lượng, yêu cầu về mức lương hoặc bảo vệ lao động nên các công ty đă sử dụng chương tŕnh này để bỏ qua các quy định nghiêm ngặt hơn của chương tŕnh H-1B, chương tŕnh này chỉ giới hạn ở 85.000 lượt phê duyệt mỗi năm và yêu cầu xác minh mức lương và nghề nghiệp chuyên môn.
Chương tŕnh L-1A cho phép các công ty chuyển những người được gọi là giám đốc điều hành hoặc quản lư vào Hoa Kỳ mà không cần chứng minh họ thực sự thực hiện nhiệm vụ quản lư và nhiều công ty đă sử dụng kẽ hở này để thay thế công nhân Mỹ bằng lao động nước ngoài có chi phí thấp hơn .
Các công ty CNTT đă nhiều lần khai báo sai chức danh công việc để đủ điều kiện cấp thị thực L-1A cho người lao động, lợi dụng điều khoản "quản lư chức năng" cấp phép ngay cả khi nhân viên không quản lư cấp dưới.
USCIS đă phát hiện khoảng 1.800 trường hợp gian lận thị thực L, bao gồm khoảng 200 trường hợp mà người nhận L-1A không phải là người quản lư, nhưng các cuộc điều tra vẫn c̣n hạn chế v́ các nhà tuyển dụng cho rằng USCIS không có thẩm quyền pháp lư để tiến hành kiểm tra việc tuân thủ tại nơi làm việc .
Kết quả là, t́nh trạng lạm dụng tràn lan vẫn tiếp diễn mà không được kiểm soát. Các công ty đă trả lương thấp cho lao động nước ngoài và đẩy lao động Mỹ ra khỏi vị trí, và Ủy ban Kinh tế và Xă hội (EEOC) phát hiện ra rằng lao động Ấn Độ tại TCS thường xuyên bị trả lương thấp hơn so với các đồng nghiệp người Mỹ.
TCS là ví dụ nổi bật nhất, đảm bảo 6.682 phê duyệt L-1A từ năm 2020 đến năm 2023, so với chỉ 1.289 của Infosys, đơn vị nhận được nhiều phê duyệt thứ hai.
Những người tố giác cáo buộc rằng TCS đă làm giả vị trí công việc và làm giả biểu đồ tổ chức để có được thị thực L-1A, trong đó một nhân viên mô tả biểu đồ này là "hệ thống phân cấp giả tạo".
EEOC được cho là đă t́m thấy bằng chứng ủng hộ cáo buộc rằng TCS thường xuyên làm giả tài liệu để hỗ trợ cho đơn xin thị thực L-1.
Từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 9 năm 2023, TCS một lần nữa nhận được 6.682 phê duyệt L-1A trong khi tuyển dụng khoảng 31.000 công nhân tại Hoa Kỳ và phân loại chưa đến 600 người là giám đốc điều hành hoặc quản lư, tuy nhiên chỉ riêng trong năm 2022, công ty đă đảm bảo được 1.969 thị thực L-1A mới hoặc được gia hạn.
Ba người tố giác đă mô tả cách TCS lạm dụng thị thực L-1A để lách luật H-1B. Một người được chỉ thị thay đổi sơ đồ tổ chức của công ty một ngày trước lễ nhậm chức của Tổng thống Trump để làm cho TCS có vẻ như có nhiều quản lư hơn thực tế.
Một người khác, Vinod Govindharajan , cho biết TCS đă gian lận để đảm bảo L-1A của ḿnh bằng cách khai man rằng ông là người quản lư mặc dù không có cấp dưới và ông chỉ được trả một nửa số tiền mà các đồng nghiệp người Mỹ của ông kiếm được.
Người tố giác thứ ba, Bedatanu Banerjee , tuyên bố rằng công ty thường xuyên tạo ra hệ thống phân cấp giả mạo và khuyến khích nhân viên bổ sung sơ yếu lư lịch theo những cách không phù hợp.
Infosys có hồ sơ vi phạm riêng, phải trả khoản tiền dàn xếp dân sự trị giá 34 triệu đô la v́ gian lận thị thực có hệ thống liên quan đến việc sử dụng sai mục đích H-1B và B-1.
Các công ty khác, chẳng hạn như Larsen & Toubro, đă phải đối mặt với các vụ kiện cáo buộc họ lách hạn ngạch H-1B bằng cách nộp đơn xin thị thực kinh doanh với lư do giả mạo và gửi thông tin gian lận để xin thị thực L-1B.
Phản ứng của chính phủ rất chậm.
Thượng nghị sĩ Chuck Grassley lưu ư rằng báo cáo của Tổng thanh tra năm 2006 cho thấy chương tŕnh L-1 dễ bị lạm dụng v́ người xét xử thường không thể xác minh liệu những người nộp đơn xin thị thực L-1A có thực sự đảm nhiệm các vai tṛ quản lư hay không.
USCIS đă phát hiện khoảng 200 trường hợp gian lận L-1A, tuy nhiên khả năng tiến hành kiểm tra thực tế của cơ quan này lại bị hạn chế và cơ quan này đă nhiều lần bị các nhà tuyển dụng chặn lại v́ cho rằng cơ quan này không có thẩm quyền pháp lư để kiểm tra việc tuân thủ tại nơi làm việc.
Bất chấp những trường hợp gian lận thực sự và mất đi cơ hội cho người lao động Mỹ, Quốc hội vẫn chưa thực hiện bất kỳ thay đổi nào đối với chương tŕnh thị thực L kể từ năm 2003. Các vụ kiện của người tố giác đă bị bác bỏ và Bộ Tư pháp từ chối can thiệp, với lư do không đủ căn cứ để hành động.
Vào ngày 29 tháng 9 năm 2025, Thượng nghị sĩ Grassley và Durbin đă giới thiệu Đạo luật Cải cách Thị thực H-1B và L-1 năm 2025, đạo luật này sẽ áp đặt các nghĩa vụ nghiêm ngặt hơn đối với người sử dụng lao động, thắt chặt điều kiện đủ điều kiện cho cả hai loại thị thực, hạn chế một số mục đích sử dụng thị thực du lịch công tác B-1 và trao cho Bộ An ninh Nội địa và Bộ Lao động quyền thực thi mở rộng.
Theo dự luật, người lao động theo diện L-1 làm việc tại Hoa Kỳ trong hơn một năm sẽ phải được trả lương không thấp hơn mức lương phổ biến, mức lương trung b́nh hoặc mức lương kỹ năng cấp độ hai, và các công ty sẽ bị cấm phân công người lao động theo diện L-1 đến các địa điểm của bên thứ ba trong hơn một năm trừ khi họ xin được miễn trừ và chứng minh rằng không có công nhân Mỹ nào bị thay thế.
Các đơn xin cấp thị thực L-1 của văn pḥng mới sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn, yêu cầu phải có kế hoạch kinh doanh kèm theo yêu cầu ban đầu và bằng chứng tuân thủ khi xin gia hạn.
Đối với đơn xin thị thực L-1B, dự luật đưa ra định nghĩa hẹp hơn về kiến thức chuyên môn, yêu cầu người sử dụng lao động phải chứng minh rằng kiến thức đó thực sự độc đáo và không có sẵn trên thị trường lao động Hoa Kỳ.
Đạo luật này cũng trao cho DHS thẩm quyền tiến hành kiểm toán L-1 hàng năm và áp dụng h́nh phạt đối với hành vi không tuân thủ, đồng thời bao gồm sự hợp tác với Bộ trưởng Ngoại giao để xác minh tính hợp pháp của công ty nước ngoài tài trợ cho việc chuyển nhượng.
Dự luật này sẽ cấm các công ty có hơn năm mươi nhân viên, trong đó ít nhất một nửa là nhân viên theo thị thực H-1B hoặc L-1, tuyển dụng thêm nhân viên theo thị thực H-1B và cấm rơ ràng việc thay thế nhân viên người Mỹ bằng bất kỳ loại thị thực nào.
Trong khi Chính quyền Trump đă tập trung mạnh vào việc thắt chặt các quy định về H-1B, bao gồm cả khoản phí H-1B 100.000 đô la được đưa ra vào tháng 9 năm 2025, th́ họ vẫn chưa áp đặt các hạn chế mới đối với chương tŕnh L-1.
Dự luật Grassley-Durbin có thể ảnh hưởng đến cuộc thảo luận khi chính quyền thúc đẩy các kế hoạch rộng hơn nhằm tăng cường giám sát và thực thi. Việc liệu dự luật này có được kư thành luật hay không vẫn c̣n phải chờ xem.