So sánh năng suất lao động theo sức mua tương đương (PPP) của Việt Nam năm 2023, Việt Nam chỉ bằng 11% so với năng suất lao động của Singapore, bằng 57% so với năng suất của người Trung Quốc.
GDP/người của người Việt đạt 125 triệu đồng/người/năm
Chính phủ vừa có báo cáo gửi Quốc hội về đánh giá tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/2021/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
Thừa uỷ quyền của Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng báo cáo Quốc hội. Theo đó, quy mô GDP từ 346 tỷ USD năm 2020, xếp thứ 37 trên thế giới, dự kiến tăng lên trên 510 tỷ USD năm 2025, gấp 1,48 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN.
 
GDP bình quân đầu người gấp 1,4 lần, tăng từ 3.552 USD (88,8 triệu đồng/người/năm) lên khoảng 5.000 USD (125 triệu đồng/người/năm).
Thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người tăng từ 3.400 USD năm 2020 lên 4.490 USD năm 2024, tiệm cận mức thu nhập trung bình cao; đến năm 2025 đạt khoảng 4.700 USD, bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình cao.
Theo Chính phủ, chất lượng tăng trưởng có chuyển biến tích cực, đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47%. Nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao sự chủ động, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành, kết quả và triển vọng phát triển của kinh tế Việt Nam.
Trong đó, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài được kiểm soát tốt, thấp hơn nhiều so với mức trần, ngưỡng được Quốc hội phê duyệt.
 
Các điểm tích cực nhự mặt bằng giá cả hàng hóa cơ bản ổn định, lạm phát hằng năm được kiểm soát ở mức phù hợp trong phạm vi mục tiêu đề ra, hỗ trợ cho tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2021 tăng 1,84%; năm 2022 tăng 3,15%; năm 2023 tăng 3,25%; năm 2024 tăng 3,63%; ước năm 2025 tăng khoảng 4,0%. 
Quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa không ngừng tăng lên và đạt kỷ lục khoảng 850 tỷ USD năm 2025, thuộc nhóm 20 quốc gia dẫn đầu thế giới.
Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nhập khẩu hàng hóa được kiểm soát tốt; nhập khẩu của nhóm hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết yếu luôn chiếm khoảng 90%.
Thị trường xuất khẩu gia tăng, không chỉ tăng cường ở các thị trường truyền thống mà còn khai thác được các thị trường mới, tiềm năng và đặc biệt tận dụng hiệu quả các FTA thế hệ mới. 
Chính phủ khẳng định các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành đồng bộ, linh hoạt và phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, cung ứng đủ, kịp thời vốn cho quá trình phục hồi và phát triển KTXH. 
Đặc biệt, xử lý linh hoạt, kịp thời, hiệu quả sự cố Ngân hàng SCB, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo thanh khoản và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp, chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí, chuyển đổi số mạnh mẽ để giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Nhờ đó, mặt bằng lãi suất cho vay có xu hướng giảm.
Năng suất lao động vẫn khoảng cách lớn so với khu vực
Tuy nhiên, Chính phủ cũng nêu hàng loạt hạn chế, yếu kém của nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh: Ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, chất lượng tăng trưởng cải thiện còn chậm, cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu chưa có nhiều thay đổi đáng kể. 
Áp lực điều hành vĩ mô còn lớn trong bối môi trường vĩ mô toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất định gia tăng, nhất là chính sách thuế quan của Mỹ, cùng với triển vọng điều hành chính sách tiền tệ khó dự báo của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới. Chất lượng, hiệu quả, năng lực tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. 
Tốc độ tăng GDP bình quân (6,3%/năm) vẫn ở dưới mức tiềm năng, chưa đạt mục tiêu đề ra là 6,5-7,0%/năm. Một số chỉ tiêu về chất lượng tăng trưởng chưa đạt được. Năng suất lao động có sự cải thiện nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều nước trong khu vực, chậm được cải thiện. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân 5 năm ước đạt 5,24%/năm, thấp hơn mục tiêu đề ra (6,5%/năm). 
Chính phủ nhấn mạnh, năng suất lao động theo PPP (2021) của Việt Nam năm 2023 chỉ bằng 11,2% mức năng suất của Singapore; 27% của Hàn Quốc; 28,6% của Nhật Bản; 36,2% của Malaysia; 64,6% của Thái Lan; 57,3% của Trung Quốc; 84,8% của Indonesia và bằng 104,9% của Philippines.
Thị trường tài chính, tiền tệ còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; điều hành lãi suất, tỷ giá thường xuyên đối mặt với áp lực trong bối cảnh môi trường vĩ mô toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất định gia tăng, nhất là chính sách thuế quan của Mỹ, cùng với triển vọng điều hành chính sách tiền tệ khó dự báo của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới.. 
Thị trường chứng khoán chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho doanh nghiệp. Huy động các nguồn lực từ doanh nghiệp, người dân, quốc tế trong phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức; thiếu hụt nguồn cung ở một số phân khúc. Giá vàng còn biến động, chênh lệch giữa giá vàng thế giới và trong nước còn cao. 
Nền tảng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa vững chắc, năng lực tự chủ công nghệ chậm cải thiện. Công nghiệp chủ yếu phát triển theo chiều rộng, khâu sản xuất gia công, lắp ráp, chế biến thô vẫn chiếm tỷ trọng lớn, giá trị gia tăng còn thấp, chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. 
Các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn phát triển chậm; chưa làm chủ được công nghệ nguồn trong công nghiệp cơ khí chế tạo; đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị còn hạn chế. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. 
Trong khi đó, doanh nghiệp phát triển chậm, còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước chủ yếu có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, tạo ra giá trị gia tăng thấp, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế. Thiếu các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân trong nước quy mô lớn có khả năng dẫn dắt và tạo lập, phát triển mạng lưới sản xuất, cung ứng
Vietbf @ Sưu tầm