Khi tuyên giáo lao vào “giải oan” cho thủy điện
Mấy ngày nay, giữa cảnh nước cuốn mái nhà, xác người trôi sông, dân kêu trời vì lũ xả đập, một chiến dịch rất quen thuộc lập tức được khởi động: tuyên giáo và dư luận viên CSVN ào ào lên mạng “giải oan” cho thủy điện, đổ hết tội cho… mưa và địa hình. Trên trang Tifosi, người ta viết như chém đinh chặt sắt rằng lũ lụt không phải do thủy điện xả lũ, mà do địa lý – địa hình Bình Định, Phú Yên. Không những thế, còn khẳng định “nếu không có thủy điện, nước lũ còn lớn, khủng khiếp hơn, chảy mạnh hơn, sức công phá còn mạnh hơn”. Kịch bản cũ lại được lôi ra: mưa lớn, lưu lượng nước đổ về hồ cao, hồ chứa chỉ “tiếp nhận và điều tiết”, không sinh ra thêm giọt nước nào, “chửi thủy điện là thiếu kiến thức, hàm hồ, dắt mũi dư luận”… Nghe qua tưởng rất khoa học, nhưng thật ra chỉ là một bài tập đánh tráo khái niệm được viết lại cho hợp thời.
“Thủy điện không sinh nước” – câu đúng dùng để nói dối
Đúng, thủy điện không sinh ra thêm nước. Nhưng vấn đề không nằm ở chuyện “sinh nước”, mà nằm ở cách nó giữ và xả nước. Một dòng lũ tự nhiên chảy theo sông suối, gặp rừng, gặp ruộng, gặp vùng trũng, tự nó đã bị hãm lại, tỏa đều, thời gian lên xuống tương đối “có báo trước”. Còn hồ chứa thì gom hàng triệu mét khối nước vào một chỗ, rồi trong một thời điểm nào đó buộc phải xả tập trung xuống hạ du. Cùng một lượng nước, nhưng cách nó được “bơm” ra khác nhau hoàn toàn. Ai từng rửa xe đều hiểu: cùng lượng nước, nhưng vòi nước thường và máy phun cao áp khác nhau một trời một vực. Nước không tăng, nhưng áp suất và tốc độ phun biến nó thành lưỡi dao. Thủy điện cũng vậy: khi xả cưỡng bức 10.000–16.000m³/s trong thời gian ngắn, cột nước đổ xuống hạ lưu như một bức tường. Dòng lũ tự nhiên không “giật ngược” và dâng nhanh khủng khiếp như thế. Nói “thủy điện chỉ tiếp nhận và phân phối nước, không làm lũ nặng hơn” là cố tình bỏ qua yếu tố thời gian, áp lực, và cách dòng chảy bị cưỡng bức – những thứ quyết định sống chết của hạ du.
Phá rừng – xây đập: cắt bọt biển, dựng bức tường nước
Để xây một đập thủy điện, người ta phải xẻ núi, mở đường, lập công trường, và quan trọng nhất: phá rừng. Rừng nguyên sinh vốn là “miếng bọt biển” khổng lồ, hút nước, giữ nước, trả nước từ tốn cho sông suối sau mưa. Khi mưa trút xuống một vùng rừng dày, phần lớn bị giữ lại trên tán lá, trong đất, trong rễ cây, rồi từ từ thấm và chảy ra. Trang Hành tinh Titanic nói rất đúng: rừng nguyên sinh giống như khi bạn xịt vòi nước vào miếng bọt biển – nó hấp thụ trước, chỉ khi đầy mới rỉ nước ra ngoài. Còn bây giờ, bọt biển bị cắt nát, thay bằng bê tông, hồ chứa, đường công vụ. Mưa xuống, nước trôi tuột từ sườn núi trọc xuống hồ, hồ nhanh đầy, rồi “đúng quy trình” là mở cửa xả. Tự nhiên vốn đã khắc nghiệt, con người lại xóa đi lớp đệm cuối cùng giữa mây và đất, rồi đổ lỗi cho trời mưa “quá sức chịu đựng”. Câu chuyện “xả lũ đúng quy trình” nghe mãi thành nhàm, vì chính cái quy trình ấy – từ khâu phá rừng, quy hoạch hồ, đến vận hành – đã sai ngay từ đầu.
Không phải hồ nào cũng cắt lũ – đa số chỉ “dẫn lũ” nhanh hơn
Một ngụy biện nữa là gom tất cả thủy điện vào chung một giỏ. Thực tế, chỉ những hồ lớn, đa nhiệm – vừa phát điện, vừa chống lũ, có dung tích phòng lũ đủ lớn như Hòa Bình, Sơn La – mới thực sự có khả năng tích nước, giam bớt một phần lũ. Còn đa số thủy điện miền Trung là hồ nhỏ, sông ngắn, dốc, xây kiểu bậc thang hoặc run-of-river (chạy dòng). Những hồ này gần như không có “dung tích phòng lũ”, mưa xuống là đầy, đầy là buộc phải xả, nếu không thì vỡ đập. Về bản chất, chúng không “cắt lũ” mà chỉ “dẫn lũ”: gom nước lại để xả mạnh hơn, nhanh hơn, dồn lực tấn công xuống hạ du. Khi hồ lại bị bồi lắng, dung tích hữu ích càng ít, khả năng đón lũ càng yếu, chuyện xả gấp, xả sốc càng xảy ra như cơm bữa. Nói “thủy điện giúp giảm lũ” mà không phân biệt loại hồ, dung tích, địa hình là cách cố tình trộn lẫn trắng đen để né trách nhiệm.
Lũ bậc thang, lũ chồng lũ và “tận thu dòng chảy”
Hầu hết hệ thống sông miền Trung đều ngắn và dốc, lại bị “băm nát” bởi một chuỗi thủy điện dày đặc. Mỗi khi mưa lớn, đập trên đầy nước buộc phải xả, đập dưới – vốn đã căng – lại phải xả theo. Dòng nước từ độ cao lớn đổ xuống liên tiếp tạo ra một chuỗi sóng lũ kiểu domino – Hành tinh Titanic gọi đúng tên: “lũ chồng lũ”. Đường nước từ cửa xả tới khu dân cư vốn đã ngắn, nay lại bị cộng hưởng bởi nhiều đợt xả nối nhau, nên hạ du phải chịu một cú “sốc nước”: dâng nhanh, chảy xiết, cuốn phăng tất cả. Đây là kết quả của tư duy “tận thu dòng chảy”: thấy chỗ nào sông suối là cố nhét một dự án, miễn có công suất, có điện để bán, còn lũ thì… tính sau. Những dòng sông từng là mạch sống của cả vùng bị biến thành chuỗi hồ chứa, đoạn ngắn đoạn dài, bị chia cắt khỏi quy luật tự nhiên vốn có. Luật của tiền trên giấy đã đè lên luật của nước ngoài thực địa.
Đổ tội cho mưa là bao che cho cả hệ thống tàn phá
Đúng, mưa lớn là điều kiện cần của lũ. Nhưng để lũ trở thành thảm họa, người ta phải góp thêm: phá rừng, phong kín bề mặt bằng bê tông, xây đập tràn lan không tính toán, xả lũ thiếu cảnh báo, quy hoạch ngược lại với lịch sử khí hậu. Khi tuyên giáo nói “thủy điện không làm lũ nặng hơn, đừng đổ tội cho nó”, họ đang lặng lẽ xóa sạch cả chuỗi nhân quả “phá rừng – xây đập – xả lũ – lũ chồng lũ” mà chính nhà nước đã duyệt, đã ký, đã hưởng lợi. Tệ hại hơn, họ còn nhân danh “kiến thức khoa học” để chụp mũ người dân lên tiếng là “thiếu hiểu biết, hàm hồ, dắt mũi dư luận”. Thực tế thì ngược lại: chính những bài viết đánh tráo khái niệm, cố tình lờ đi phân loại hồ, địa hình, hiệu ứng domino mới là đang dắt mũi dư luận. Đổ hết tội cho trời mưa là cách tiện nhất để vô hiệu hóa mọi truy vấn về trách nhiệm – từ khâu quy hoạch, cấp phép, giám sát, đến vận hành. Bao che cho công thức “phá rừng – xây đập – xả lũ” không chỉ là thiếu kiến thức, mà là đồng lõa với tội ác. Khốn nạn nhất là vừa đứng về phía kẻ gây tai họa, vừa lên giọng chính nghĩa mắng dân là “hàm hồ”. Nước đang cuốn trôi mái nhà, nhưng chính những dòng chữ ngụy biện như thế mới là thứ đang cuốn trôi dần niềm tin ít ỏi còn sót lại trong lòng người dân.