Trong sử sách Trung Hoa, Lưu Nghiễm được miêu tả như một vị quân chủ có tài mưu lược, biết khai thác lợi thế kinh tế của vùng Lĩnh Nam và từng xây dựng một chính quyền khá ổn định. Nhưng đằng sau vẻ ngoài ấy là chân dung một bạo quân bệnh hoạn, tàn ác, dâm dật và tham lam tột độ – một kẻ đă đưa Nam Hán từ đỉnh cao quyền lực rơi vào suy vong và chịu nhục nhă trong trận Bạch Đằng năm 938.
Lưu Nghiễm (889 – 942), thường được biết tới với tên gọi Lưu Nham hay Lưu Cung, là người sáng lập ra nước Nam Hán – một trong Thập quốc ở miền Nam Trung Hoa thời Ngũ Đại Thập Quốc.
Sinh ra trong một gia đ́nh quyền quư, Lưu Nghiễm vốn là con của Lưu Tri Khiêm – Tiết độ sứ Phong châu. Mẹ ông, Đoàn thị, bị chính thất Vi thị sát hại sau khi vụ việc bị phát hiện, nhưng Lưu Nghiễm được tha chết và được nuôi dưỡng như con đẻ. Tuổi trẻ của ông sớm gắn liền với chiến trường, cưỡi ngựa, bắn cung và từng lập công dưới trướng người anh cùng cha khác mẹ Lưu Ẩn. Khi Lưu Ẩn mất năm 911, Lưu Nghiễm tiếp quản Thanh Hải quân, dần dần mở rộng thế lực khắp Lĩnh Nam và đến năm 917 tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là “Đại Việt”, rồi đổi thành “Hán” – tức Nam Hán.
Ngay từ những năm đầu trị v́, Lưu Nghiễm đă bộc lộ tính cách ngạo mạn, tự cao và bất chấp lễ nghi. Ông không ngần ngại gọi hoàng đế Trung Nguyên là “Lạc Châu thứ sử”, công khai chối bỏ quyền uy của triều đ́nh Trung nguyên khi nói: “Trung Quốc phân tranh, ai là Thiên tử? Sao ta phải đi thuyền hàng vạn lư để tôn thờ ngụy đ́nh?”. Từ đó, Nam Hán dần trở thành một vương quốc biệt lập, đầy tham vọng xưng bá phương Nam.
Nam Hán Cao Tổ Lưu Nghiễm. Ảnh minh hoạ.
Tuy nhiên, càng nắm quyền lực lâu, Lưu Nghiễm càng bộc lộ bản chất của một hôn quân. Thích xa hoa và đắm ch́m trong hưởng lạc, ông xây dựng cung điện bằng vàng, bạc, ngọc trai và ngọc bích. Điện Chiêu Dương của ông có mái dát vàng, nền trải bạc, c̣n các đường dẫn nước trong cung th́ rải đầy ngọc trai để phản chiếu ánh sáng lấp lánh. Những công tŕnh xa xỉ như điện Nam Huân được tu sửa liên tục, tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền của và nhân lực. Trong khi đó, dân chúng khổ cực, phải cống nạp của cải để phục vụ sở thích bệnh hoạn của nhà vua.
Sự dâm dật của Lưu Nghiễm cũng là điều khiến sử gia đời sau phải ghê tởm. Ông đắm ḿnh trong tửu sắc, tuyển chọn vô số mỹ nữ vào hậu cung, tổ chức yến tiệc thâu đêm suốt sáng. Các sử liệu mô tả hậu cung Nam Hán có hàng trăm cung nữ bị giam lỏng để “hầu hạ” nhà vua theo lệnh triệu bất cứ lúc nào. Trong những năm cuối đời, khi sức khỏe suy yếu v́ bệnh tật, Lưu Nghiễm càng trở nên hoang dâm vô độ, coi phụ nữ chỉ là công cụ để thỏa măn dục vọng và để “hấp thu sinh khí” nhằm kéo dài tuổi thọ theo lời đồn của thuật sĩ.
Bên cạnh sự dâm loạn và xa hoa, Lưu Nghiễm c̣n nổi tiếng bởi tính tàn bạo và thú vui bệnh hoạn với máu người. Ông đặc biệt ưa thích các màn tra tấn và hành h́nh man rợ. H́nh phạt trong triều đ́nh Nam Hán dưới thời ông kinh khủng tới mức nhiều người gọi triều đ́nh là “địa ngục nhân gian”: cắt mũi (quán tị), cắt lưỡi (cát thiệt), chặt tay chân (chi giải), mổ bụng phụ nữ mang thai (khô dịch), trói người vào cột sắt nung đỏ (pháo chích), hay nấu người trong vạc nước sôi (phanh chưng). Lưu Nghiễm c̣n phát minh ra “thủy ngục” – ném phạm nhân xuống nước rồi thả rắn độc để chúng bị cắn đến chết.
Đặc biệt, ông thường trực tiếp ra lệnh đưa phạm nhân vào cung để tận mắt chứng kiến cảnh hành h́nh nhằm “giải trí”. Có lần, để mua vui cho ḿnh, Lưu Nghiễm ra lệnh thả một phạm nhân vào nồi nước sôi, sau đó vớt ra phơi nắng rồi phết muối và rượu lên da thịt đang rữa nát, khiến người đó chết từ từ trong đau đớn. Sự tàn ác của ông khiến dân chúng Nam Hán vừa căm hận vừa sợ hăi, các quan lại trung thần như Đồng b́nh chương sự Dương Đỗng Tiềm từng can gián cũng bị gạt sang một bên.
Chính quyền Nam Hán dưới thời Lưu Nghiễm v́ thế không chỉ bị lũng đoạn bởi bạo lực và sợ hăi mà c̣n rơi vào tay hoạn quan – tầng lớp mà ông tin tưởng hơn giới sĩ nhân. Ông cho rằng các văn thần chỉ lo vun vén cho con cháu nên quay sang trọng dụng hoạn quan, khiến hoạn quan Nam Hán lộng hành chưa từng có.
Không chỉ tàn ác với dân và quan, Lưu Nghiễm c̣n là một nhà vua mù quáng và mê tín. Ông nhiều lần đổi tên v́ tin vào sấm truyền, từng đổi tên thành “Cung” v́ thấy “rồng trắng” bay trong cung, rồi lại đổi thành “Nghiễm” sau khi nghe lời một nhà sư người Hồ rằng “diệt Lưu thị giả Cung dă” – họ Lưu sẽ bị diệt nếu mang chữ “Cung”. Ông cũng thường xuyên tin lời thuật sĩ, như năm 922 từng bỏ kinh đô để “tránh tai họa”, suưt bị phục kích bởi quân nước Mân. Chính sự mê tín và dao động đó khiến triều chính nhiều phen hỗn loạn.
Trong đối ngoại, dù từng có thời kỳ ổn định, Lưu Nghiễm lại không ngừng gây chiến tranh xâm lược. Năm 924, ông đem quân đánh nước Mân nhưng thất bại. Năm 928, ông dùng mưu kế thủy chiến để đánh bại quân Sở, nhưng lại sa lầy trong xung đột liên miên. Năm 930, Lưu Nghiễm xua quân đánh Tĩnh Hải quân, bắt Khúc Thừa Mỹ và đặt Giao Châu dưới quyền cai trị của Nam Hán. Nhưng ông chỉ giữ được một năm: năm 931, Dương Đ́nh Nghệ – một tướng người Việt – đă nổi dậy, chiếm lại Tĩnh Hải quân.
Thất bại đó khiến Lưu Nghiễm căm hận và nung nấu ư đồ tái chiếm Tĩnh Hải quân. Khi Dương Đ́nh Nghệ bị Kiều Công Tiễn sát hại năm 937, ông coi đó là cơ hội “ngàn năm có một” để nuốt trọn vùng đất này. Bất chấp lời can gián của Sùng văn sứ Tiêu Ích rằng “Ngô Quyền là người kiệt hiệt, không thể khinh suất”, ông vẫn nóng vội phái hoàng tử Lưu Hoằng Tháo dẫn thủy quân tiến vào Giao Châu theo đường sông Bạch Đằng, c̣n bản thân đóng quân ở Hải Môn chờ tiếp ứng.
Sự kiêu ngạo, chủ quan và bệnh hoạn của ông đă phải trả giá đắt. Trên sông Bạch Đằng cuối năm 938, Ngô Quyền đă bố trí băi cọc ngầm bịt sắt nhọn dưới ḷng sông. Khi thủy triều lên, băi cọc bị che khuất, quân Nam Hán tưởng dễ dàng tiêu diệt quân Đại Việt nên hăng hái truy đuổi. Đến khi thủy triều xuống, toàn bộ chiến hạm Nam Hán mắc cạn, bị cọc đâm thủng và trở thành bia đỡ đạn. Ngô Quyền tung quân phản công dữ dội, giết chết Lưu Hoằng Tháo cùng hơn một nửa quân Nam Hán.
Tin dữ khiến Lưu Nghiễm đang chờ tiếp ứng ở Hải Môn rơi vào hoảng loạn. Ông phải “thương khóc thu nhặt quân c̣n lại mà rút lui”, từ bỏ hẳn giấc mộng chiếm lại Tĩnh Hải quân. Chiến thắng Bạch Đằng đă chấm dứt hoàn toàn mộng xâm lược Đại Việt của Nam Hán, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho người Việt sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. C̣n với Nam Hán, đó là bước ngoặt khiến quốc gia này bước vào thời kỳ suy yếu kéo dài.
Những năm cuối đời, Lưu Nghiễm vẫn không từ bỏ những thói quen bệnh hoạn: tiếp tục xa xỉ, tiếp tục giết người để giải trí, tiếp tục nghi kỵ và tin dùng hoạn quan. Ông qua đời năm 942 ở tuổi 54, để lại một triều đại rệu ră và một vết nhơ lịch sử không thể gột rửa. Người đời sau nhớ đến ông không phải với tư cách một vị hoàng đế sáng nghiệp, mà là h́nh mẫu của một bạo chúa dâm ô, tàn bạo và kiêu ngạo – kẻ đă khiến Nam Hán phải gánh chịu thất bại nhục nhă nhất trong lịch sử trước Ngô Quyền và dân tộc Việt.
Triều đại Nam Hán vẫn tồn tại sau khi Lưu Nghiễm chết, nhưng không bao giờ c̣n đủ sức vươn ra phương Nam nữa. Và chính từ sai lầm của ông – sai lầm của một bạo quân vừa độc ác vừa ngu muội – mà dân tộc Việt Nam giành lại được độc lập, mở đầu cho thời kỳ tự chủ kéo dài suốt nhiều thế kỷ sau đó.
Vietbf @ Sưu tầm