Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì là một trong những danh thần tiêu biểu của triều Lê trung hưng, người đã góp phần quan trọng trong việc ổn định chính trị, giữ vững quốc thể và thể hiện tài ngoại giao xuất sắc của Đại Việt thời bấy giờ. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là tấm gương về lòng trung quân, yêu nước, thương dân, cũng như bản lĩnh của một trí thức luôn đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
Nguyễn Duy Thì sinh ra ở xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng, nay thuộc xã Yên Lãng, TP Hà Nội. Ông nổi tiếng thông minh, học rộng, sớm đỗ đạt. Năm 1598, khi mới 27 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ dưới triều vua Lê Thế Tông. Đó là thời điểm đất nước còn nhiều biến động, triều đình họ Lê tuy phục hưng nhưng quyền lực thực tế nằm trong tay họ Trịnh. Bằng tài năng và học vấn của mình, Nguyễn Duy Thì nhanh chóng được trọng dụng, được thăng làm Cấp sự trung và năm 1606, được giao trọng trách sang sứ nhà Minh – một nhiệm vụ không chỉ quan trọng về ngoại giao mà còn thể hiện vị thế của Đại Việt trên trường quốc tế.
Chuyến đi sứ năm 1606 đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp của ông. Khi được yết kiến Hoàng đế nhà Minh Chu Do Hiệu (Thiên Khải Đế), Nguyễn Duy Thì đã thể hiện trí tuệ xuất chúng và bản lĩnh ngoại giao khôn khéo. Hoàng đế Minh muốn thử tài sứ thần Đại Việt nên ra câu hỏi hóc búa: “Nếu vua, thầy và cha cùng đi một chuyến đò, gặp bão đắm thuyền, thì cứu ai trước?”. Đây là câu hỏi hiểm, vì theo đạo lý Nho giáo, vua – thầy – cha đều là bậc trên, nếu cứu một mà không cứu kịp hai người kia thì có thể bị xem là bất trung, bất hiếu hoặc bất nghĩa. Nguyễn Duy Thì bình tĩnh đáp: “Thưa, gần người nào thì cứu người ấy trước, và sẽ cứu cả ba”. Câu trả lời vừa hợp đạo lý, vừa hợp tình, thể hiện tư duy linh hoạt, khiến hoàng đế nhà Minh vô cùng khâm phục.

Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì. Ảnh: Chat GPT.
Không dừng lại ở đó, nhà vua lại hỏi: “Thức ăn gì ngon nhất? Vật gì quý nhất trên đời?” Nguyễn Duy Thì ứng đối: “Muối là thứ ngon nhất, vì thiếu muối thì món gì cũng nhạt nhẽo. Quý nhất là sĩ phu, vì có họ thì nước mới thanh bình, phồn thịnh”. Câu trả lời giản dị nhưng sâu sắc, vừa thể hiện tầm nhìn nhân sinh, vừa khéo léo tôn vinh đạo lý, đề cao tri thức – điều mà các triều đại phong kiến đều coi trọng. Hoàng đế nhà Minh vô cùng cảm phục, đặc biệt trọng đãi đoàn sứ Đại Việt, qua đó thể hiện sự nể trọng quốc gia phương Nam.
Sau chuyến đi ấy, Nguyễn Duy Thì trở về nước được phong làm Thiêm ngự sử, tước Phương tuyền bá, rồi tiếp tục thăng tiến trong triều. Ông không chỉ là nhà ngoại giao xuất sắc mà còn là người có tư tưởng chính trị sâu sắc, thấu hiểu đạo trị nước. Khi trong nước xuất hiện nhiều điềm tai dị khiến dân chúng lo lắng, ông dâng khải lên chúa Trịnh Tùng, khuyên nhà chúa thi hành chính sách nhân đức, yên dân để hợp lòng trời. Ông viết: “Dân là gốc của nước, đạo trị nước chỉ là yên dân mà thôi... Người giỏi trị nước, yêu dân như cha mẹ yêu con, thấy họ đói rét thì thương, thấy họ lao khổ thì xót, cấm hà khắc bạo ngược, ngăn thuế khóa bừa bãi, để cho dân được thỏa sống mà không còn tiếng sầu hận oán than”.
Những lời khuyên ấy không chỉ là đạo trị quốc mà còn thể hiện tư tưởng nhân văn, coi dân là gốc – một quan điểm vượt thời đại. Chính vì thế, Trịnh Tùng hết lời khen ngợi và làm theo, nhờ đó đất nước yên ổn, lòng dân được an. Từ đây, Nguyễn Duy Thì càng được trọng dụng, được thăng dần lên các chức vụ quan trọng như Đô ngự sử, Tả thị lang bộ Lễ, rồi Thượng thư bộ Công, Tham tụng, Tế tửu Quốc Tử Giám, Thượng thư bộ Lại – những chức vụ tương đương Tể tướng, giúp chúa Trịnh điều hành cả triều chính.
Trong giai đoạn đầy biến động, khi vua Lê Kính Tông mưu phản cùng Trịnh Xuân chống lại Trịnh Tùng, Nguyễn Duy Thì cùng Nguyễn Danh Thế và Lê Bật Tứ đã khuyên Trịnh Tùng làm việc phế lập để giữ yên quốc gia. Tuy việc này mang tính chính trị phức tạp, nhưng xét về đại cục, ông đã giúp triều đình tránh được nội loạn kéo dài, giữ vững ngôi báu và duy trì sự ổn định của đất nước.
Không chỉ là một đại thần chính trị và ngoại giao, Nguyễn Duy Thì còn là một vị tướng có tài thao lược, từng thân chinh dẹp loạn Mạc Kính Khoan – tàn dư của nhà Mạc, góp phần củng cố thế lực họ Lê – Trịnh. Ông được phong tước Tuyền quận công, rồi gia phong Thái phó, được mở phủ riêng, gọi là phủ Bỉnh Quân – một vinh dự mà ít người đương thời có được.
Suốt 50 năm làm quan, Nguyễn Duy Thì luôn giữ mình thanh liêm, trung chính, hết lòng vì nước, vì dân. Nhà sử học Phan Huy Chú đã xếp ông vào hàng 38 vị phù tá có công lao và tài đức của nhà Lê trung hưng. Cống hiến của ông không chỉ ở chính trị, ngoại giao hay quân sự, mà còn ở lĩnh vực giáo dục. Là Tế tửu Quốc Tử Giám, ông coi trọng việc đào tạo nhân tài, bồi dưỡng sĩ tử, xem việc học là gốc của trị quốc.
Nhìn lại tư tưởng và hành trạng của Nguyễn Duy Thì, có thể thấy ông là người sớm nhận ra rằng “trời với dân cùng một lẽ, lòng dân vui thích tức là được ý trời rồi”. Chính vì thấu hiểu điều đó, ông đã dốc lòng phụng sự triều đình, nhưng luôn đặt dân làm trọng. Câu nói “Dân là gốc của nước” của ông không chỉ là lời khuyên cho chúa Trịnh Tùng thuở ấy, mà còn là thông điệp gửi lại cho muôn đời sau – rằng một quốc gia muốn bền vững thì phải yên dân, trọng dân, vì dân.
Nguyễn Duy Thì là mẫu mực của bậc trí thức thời phong kiến – uyên thâm trong học vấn, cứng cỏi trong đạo nghĩa, khôn khéo trong ứng xử và tận tụy trong phụng sự quốc gia. Sự nghiệp của ông là minh chứng cho tinh thần “trung quân ái quốc”, cho trí tuệ và nhân cách của kẻ sĩ Đại Việt. Hơn bốn thế kỷ đã qua, lời dạy của ông vẫn vẹn nguyên giá trị: “Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì dưới thuận lòng người, trên hợp ý trời… trong nước thái bình, cơ nghiệp muôn năm của nước nhà cũng do đó mà bền vững lâu dài”.
Vietbf @ Sưu tầm