Kalynh Ngô/Người Việt
“Dạ, cô đang có điện thoại từ tiểu bang khác. Chị có thể ngồi chờ được không?” cô nhân viên lễ phép nói.
Chờ? Nhưng chờ ở đâu? Tôi nhìn quanh và tự hỏi. Không có một cái ghế nào cả. Và chờ bao lâu? Cô nhân viên không nghe thấy tôi trả lời, hỏi lại với ánh mắt hơi ngại ngần: “Hay một lát chị quay lại?”

Tiệm bánh Ðông Hưng Viên. (Hình: Kalynh Ngô/Người Việt)
Một lát là bao lâu? Không có thời gian gì cả? Mặc dù rất hiểu thời gian của một người làm kinh doanh là như thế nào, nhưng tôi vẫn không giấu được cảm giác khó chịu khi nghĩ “mình đã rất đúng giờ.”
“Em có thể hỏi giúp là bao lâu chị có thể quay lại được?” tôi cố gắng nhẹ giọng.
Sau tiếng “dạ” nhỏ, cô nhân viên quay vào trong. Lúc này, tôi thầm nghĩ, “Không đúng giờ gì cả.”
“Dạ, cô nói khoảng 30 phút,” vẫn với những câu giao tiếp rất lịch sự, cô nhân cho tôi biết thời gian chính xác cuộc hẹn được dời lại.
Tôi gửi lời cám ơn và tìm một chỗ nào gần đó...có thể ngồi được. Và chờ! Và thầm nghĩ “mình sẽ đến trễ hơn 30 phút một chút.”
Thế nhưng, tôi thấy mình bắt đầu có cảm giác tò mò về người phụ nữ này. Ba tháng ngắn ngủi ở Little Saigon không đủ để tôi “biết” về một người mà có lẽ khi nói tên, thì ai cũng phải biết. Nhưng, cái tò mò của tôi không phải về sự nổi tiếng đã có, mà là “phải người có cá tính lắm mới có phản ứng ‘tiếp khách’ như thế.”
Tôi quay lại đúng 3 giờ 30 phút. Không trễ, không sớm một giây.
Vẫn là cô nhân viên lịch sự, lễ phép đó quay vào nhắn lời giùm tôi. Lần này, tôi cảm giác mình hơi “hồi hộp.”
“Sao đây, ai tìm? Về việc gì?” một giọng nói trầm, chậm rãi vang lên.
Trời ạ, đây là một cuộc hẹn đã được biết trước về lý do, thế mà câu đầu tiên tôi được chào đón là một câu như vậy.
Tôi nhìn người phụ nữ vừa bước ra khỏi khu vực làm việc vừa cất câu hỏi. Và tôi biết ngay nếu mình bỏ về 30 phút trước thì tôi sẽ ân hận vô cùng. Một người phụ nữ nhỏ người, gương mặt chữ điền, ánh mắt rất cương nghị mà tôi có cảm giác như có cả một dòng chảy lịch sử trong ấy. Cái đứa khó chịu trong tôi tự nhiên biến mất ngay lập tức. Tôi nhìn thẳng người phụ nữ ấy, giới thiệu nhanh về mình và nhắc lại lý do cuộc hẹn.
“Ði vào đây.” Rất ngắn gọn!
Tôi ngoan ngoãn đi theo, tự nói trong lòng “sẽ không dễ dàng chút nào.”
“Ngồi đi.” Cũng chỉ hai chữ thôi!
Tôi lại ngoan ngoãn ngồi xuống.
Có vẻ như bà cố gắng làm cho xong nốt phần việc của mình. Tôi ngồi chờ mà hoàn toàn không còn sự khó chịu nữa. Tôi nhìn quanh, mỗi người ở đây nhịp nhàng thực hiện phần việc của mình. Họ làm trong sự im lặng và rất nhanh, gọn. Nơi làm việc sạch sẽ, thơm nồng những vị ngọt.
Còn người tôi đang ngồi chờ thì vẫn chậm rãi, từ tốn thực hiện thao tác chuyên môn của mình. Nếu đây là một cuộc thi thì tôi như một thí sinh đang thực hiện phần thi kiên nhẫn của mình.
“Rồi, bắt đầu làm việc,” sau 10 phút ngồi chờ thì tôi đã được bà tiếp chuyện.
“Ðừng kêu tôi là chị. Tôi biết bên ngoài có nhiều người dù lớn tuổi nhưng thích được gọi là chị. Dẹp đi. Ðó không phải tôi. Người Việt mình là phải có tôn ti trật tự,” bà bắt đầu như thế.
Tôi mỉm cười, “Vậy con gọi là 'cô,' và con xưng 'con.'” Tôi thầm cảm ơn 10 phút “thêm giờ” đó, vì tôi thấy mình đã lấy lại được sự tự tin.
Không khí cuộc nói chuyện có vẻ như “dễ thở” hơn sau khi cả hai có được cách xưng hô hợp lý theo đúng “tôn ti trật tự.”
Ngay lúc này, tôi biết những câu hỏi quen thuộc theo dạng học bài sẽ là con dao cắt đứt cuộc nói chuyện ngay lập tức. Mà chính tôi cũng không có ý định như thế.
Tôi biết người phụ nữ ngồi đối diện mình là cả một bí ẩn phía sau bức tường thành vững chắc.
Không sai, bà nói ngay, “Tôi cũng không biết nói về vấn đề gì. Vì tất cả đã quá nhàm chán. Tôi không thích sự sáo rỗng. Nếu không tìm được điều gì hay, thì dừng lại. Nếu mình làm một điều gì đó, mình phải có sự đam mê. Mình phải say mê nó, sống với nó, thì mình mới làm tốt làm hay được.”
Trời ạ, tôi cảm thấy mình bị “thôi miên” hoàn toàn vì sự “răn đe” này. Tôi nhìn thẳng vào người phụ nữ chưa hề nở một nụ cười với mình ngay từ lúc đầu đến giờ và hỏi: “Vậy trong 23 năm qua, niềm đam mê của cô có bị thay đổi theo thời gian không?”
“Tôi xuất thân là một nhà giáo. Nhưng tôi không thích nghề đó. Mà tôi yêu cái nghề gia truyền này của gia đình tôi. Lúc tôi theo nó, lúc tôi phụ gia đình tôi, cô chưa ra đời nữa kìa. Rồi tôi mang nó sang đây, đến bây giờ là 23 năm, một khoảng thời gian không ngắn, 1/4 đời người mà đâu có ít ỏi gì. Nếu tôi không đủ đam mê thì tôi và nó đâu sống được đến bây giờ. Nó là nghệ thuật. Mà nghệ thuật thì phải vị nhân sinh,” ánh mắt bà sáng bừng lên khi nói đến câu cuối cùng.
Tôi hỏi bà tại sao không phải là “nghệ thuật vị nghệ thuật” mà là “nghệ thuật vị nhân sinh?”
Rất nhanh, bà hỏi lại tôi, “Xứ Mỹ này có dễ sống không? Mình không làm, mình có nhà ở không? Có xe đi không? Người mà không làm gì hết, chỉ ngồi không sáng tác, để người khác nuôi mình, mà nếu may mắn mới có người nuôi nha. Ðó có phải là cuộc sống thực tế không?”
“Không,” tôi cũng trả lời ngay.
“Nhưng cái cô đang cầm trên tay chính là nghệ thuật đó. Và điều con muốn biết là nghệ thuật đó đã 'vị nhân sinh' như thế nào suốt 23 năm qua?” Tôi thật sự không còn thấy khoảng cách trong cuộc nói chuyện này nữa. Mà đây là buổi hàn huyên giữa hai thế hệ.
Tôi đã nhìn thấy nụ cười trên gương mặt cương nghị đó. Bà mỉm cười, nhìn “cái nghệ thuật” của mình đang cầm trên tay, nâng niu nó, và nói, “Nghệ thuật là tôi làm với tất cả trái tim của mình. Vị nhân sinh là tôi uyển chuyển theo sự thay đổi của thời gian và sở thích của con người nhưng luôn giữ lại phẩm chất truyền thống của nó.”
Tôi hiểu điều bà nói. Xã hội, con người sẽ thay đổi theo thời gian. Ðó là quy luật tồn tại. Ðơn giản, cái đẹp ngày xưa không thể là tiêu chuẩn cho cái đẹp ngày nay.
Cũng như bà ví dụ về nghệ thuật cải lương hoặc hát bội cổ truyền. Bà đồng ý đó là gia tài của dân tộc phải được giữ gìn. Nhưng để phổ biến nó và bắt người ta phải thưởng thức ở thời đại này thì có phần hơi “lạc hậu.”
Cho nên, nghệ thuật, niềm đam mê của bà được giữ gìn suốt 23 năm, nhưng không cứng ngắc. Tuân theo quy luật thời gian, chiều theo sở thích của nhân sinh, bà thay đổi nó để người thưởng lãm không bị nhàm chán và quay lưng.
Ðây là người phụ nữ thực tế nhưng rất truyền thống. Tôi tin điều đó khi bà nói rằng, “Tiếng Việt là một gia tài vô giá của người Việt.” Bà nhận định cái giá trị của tiếng Việt là một lợi thế cho tuổi trẻ, là thế mạnh cho tương lai của họ, nhất là những ai sinh ra và lớn lên ở xứ người.
Một quan điểm rất dân tộc.
Tôi nhìn thẳng người phụ nữ đối diện, tôi cảm thấy như có một sức mạnh vô hình đang ẩn sâu phía trong đôi mắt đó. Tôi rất muốn biết sức mạnh từ đâu, nghị lực từ đâu mà bà đã nuôi dưỡng và vun đắp cái “nghệ thuật vị nhân sinh” ấy trong 23 năm không thất bại.
“Sống trên đời, mất tiền, không có nghĩa gì cả, có thể tìm lại được. Mất tình yêu, sức khỏe, mất ít thôi. Nhưng nếu mất đam mê, sẽ mất tất cả,” bà nói.
À, thì ra sức mạnh ấy chính là niềm đam mê. Tôi hỏi, “Cô đã có bao giờ thất bại?”
“Nếu thất bại thì làm sao tôi và sự nghiệp của tôi tồn tại đến hôm nay?” bà hỏi ngược lại tôi.
Tôi vẫn bảo vệ suy nghĩ của mình bằng cách cho rằng “thất bại nhưng nếu mình quyết tâm thì mình vẫn đứng lên được.”
“Nếu theo ý đó thì cô dùng từ sai rồi. Gian truân, vất vả, khó khăn, bầm giập, chứ không phải thất bại. Cái nghề của tôi rất cực nhưng tôi luôn tâm niệm phải duy trì nghề nghiệp của gia đình, dù cực khổ đến đâu,” bà ‘phản biện’ lại quan điểm của tôi như thế.
Bây giờ thì tôi tin một giáo viên dạy toán sẽ nói chuyện hay và hợp lý như thế nào. Bà từng là một giáo viên dạy toán.
Tôi tự hỏi 23 năm qua, thành công của người phụ nữ này ngoài đam mê, thì còn gì nữa? Tài năng chăng? Chắc chắn rồi. Không tài năng thì làm sao có con số thời gian 23 năm? Kinh nghiệm chăng? Bà đã nói rằng bà bắt đầu nghiệp này từ lúc tôi chưa ra đời, như thế cho đến nay, kinh nghiệm chắc chắn dày theo thời gian. Vậy thì cái gì?
“Trong 23 năm qua, bà nuôi dưỡng nghệ thuật vị nhân sinh của mình bằng cách nào?” tôi hỏi mà cảm thấy như mình đang hỏi chính lòng mình.
“Bằng kỷ cương, luật lệ của riêng mình. Suốt 23 năm, tôi không một ngày nào xa rời cái kỷ cương đó. Tôi không xem mình là chủ. Cuối mỗi một ngày, tôi đều tổng hợp lại những gì sẽ làm ngày mai để chuẩn bị trước,” bà nhìn tôi và trả lời ngay.
Bây giờ thì tôi hoàn toàn bị người phụ nữ đối diện thuyết phục. Ở bà, tôi nhìn thấy sự cương nghị, quyết đoán của một người làm chủ, và cả sự uyển chuyển, nhẹ nhàng của người phụ nữ sống trọn mình với niềm đam mê. Niềm đam mê cái nghề của gia đình, và là cái nghiệp của bà. Niềm đam mê làm bánh Trung Thu.
Trong suốt câu chuyện, bà nâng niu chiếc bánh trên tay, thỉnh thoảng lại ngửi nó như muốn ôm hết cái ngọt ngào của chiếc bánh vào trong hơi thở.
Chiếc bánh Trung Thu mà 23 năm qua là niềm vui cho người xa quê trong mỗi dịp trăng rằm Tháng Tám.
Niềm đam mê đó, bà đã gọi là nghệ thuật vị nhân sinh.
Ðó là bà Loan Hoàng, người nối nghiệp thương hiệu Ðông Hưng Viên.