Đêm tháng tám, tính theo âm lịch thì đã là tháng 7, tháng mưa ngâu, ngày 7 tháng 7 Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau trên cầu Kiều Thước, ngày của những giọt nước mắt rơi sau những ngày họ xa cách nhau. Đã 20 giờ, Mỵ nằm trên chiếc giường đôi lắng nghe từng giọt mưa gõ tí tách, lộp bộp xuống rặng chuối sau nhà. Nàng hé cánh cửa sổ nhìn ra sau vườn, tiếng mưa trộn lẫn tiếng côn trùng ra rả hợp thành cái âm thanh hỗn độn, não nề. Thi thoảng vẳng lại tiếng sấm ầm ì từ một phía trời nào đó rền rĩ xa xăm, những tia chớp xé rách màn đêm, lóe nên những vệt sáng xuyên cửa sổ sóng soãi xuống nền nhà ẩm thấp.
Mỵ xoay người kéo chiếc gối kê lại dưới đầu, đã mấy hôm cô bị cảm, cơn ho khan kéo dài và chứng đau đầu đã làm cho Mỵ thấy lười ngại việc nhà hơn. Gian kề bên, bà Lý mẹ cô có lẽ đã ngủ, đứa con gái 4 tuổi của Mỵ vẫn ngủ với bà ngoại, được bà chiều chuộng nên xem ra con bé quí ngoại lắm. Buổi chiều lúc ăn cơm bà lại nhắc chuyện của Mỵ với Tân, mặc dù biết con gái bà không vui, nhưng bà cứ kệ.
Mỵ lớn lên trong vòng tay của mẹ, đứa con gái một của bà Lý. Từ bé Mỵ đã là một đứa trẻ còm nhom, quặt quẹo ốm ho, nó thật là khó nuôi, bà Lý thường tâm sự với hàng xóm như vậy. Ông Thang vốn là người mãi tận Nam Định, ông đến làm thợ đóng đồ cho người dân ở vùng quê này nhiều năm. Thế rồi cái duyên đã đem đến một mái ấm cho bà Lý. Họ ăn ở với nhau chừng mươi năm, thế là ông Thang đổ bệnh rồi mất.
Việc nuôi nấng đứa con gái duy nhất của gia đình họ được dồn lên đôi vai của bà Lý. Người ta vẫn phải thừa nhận một điều rằng: bà Lý giỏi giang nhất làng đấy. Duy chỉ có mỗi điều mà bà chỉ đạt điểm khá thôi, đó là tính bà bốp chát, ít khi mềm mỏng. Bà luôn chu đáo và quan tâm giúp người kho gặp khó khăn, thảo thơm chia sẻ mà ai đã từng gần gũi bà mới biết. Gặp điều không phải đạo, bà thẳng thừng phê phán có khi làm mất mặt người có lỗi. Bà Lý thường được mọi người coi đó là cái gương để răn dạy con cháu.
Nhà Mỵ cách nhà Tân một dòng sông, hai làng cùng chung một dòng nước tưới tiêu cho mùa vụ. Em ở bên này, Anh ở bên kia bờ sông, ngày xưa đã có đôi lần anh hẹn hò muốn đưa Mỵ về làm dâu bên ấy. Lòng Mỵ cứ canh cánh mãi cái điều mà anh đã thủ thỉ những lần gặp nhau. Anh nắm lấy đôi tay bé nhỏ của em, anh nhìn vào mắt em lâu lắm, trong ánh mắt ấy em cảm nhận được sự yêu thương, một sự bao dung, một tình thương mà em có thể gửi gắm. Những ngày anh sang bên này sông thăm mẹ và em, anh cứ ngồi lặng lẽ, chỉ khi mẹ hỏi, anh mới dè dặt trả lời. Sao anh không nói gì đi với mẹ, mẹ của em rồi cũng sẽ là mẹ của anh, nếu anh thương em bằng cả tấm lòng của mình. Em nhát lắm, mẹ vẫn bảo vậy mà. Có lần anh cầm tay em, rồi bất chợt anh ôm, em sợ quá, gỡ vội tay anh..rồi vùng chạy...làm trái tim em rộn nhịp, nhột lắm, em thở dốc...
Thế rồi, một đêm chúng mình gặp nhau. Anh cầu hôn em, anh muốn cưới em làm vợ, " về với anh đi em, về làm vợ anh nhé". Em sợ, sợ lắm vì mới bước qua tuổi 18, em trả lời rằng: Em chưa muốn, em còn mẹ nữa. Em lấy chồng rồi, mẹ ở với ai.
Bẵng đi một thời gian anh không trở lại. Anh đi đâu? Em thấy bồn chồn, thấy lòng mình thiếu vắng, trống trơn....em đã yêu anh và nhớ anh. Mỵ buồn lắm, lòng dạ nôn nao. Mỵ nhắn tin sang bên ấy tìm anh, người ta nói anh đã nhập ngũ rồi đi biên giới phía bắc, vội lắm chắc anh không kịp báo tin.
Ba tháng chờ đợi, rồi anh cũng đã gửi thư về cho em. Lạ chưa, trong thư anh chỉ hỏi thăm qua loa về sức khỏe, thư anh tìm mãi không thấy một lời yêu, chẳng thấy một câu hẹn hò, em hụt hẫng...
Một thời gian sau, người ta mở một con đường đi qua làng, thế là một cây cầu lớn được xây bắc qua con sông giữa làng của Mỵ và làng bên anh. Đội thi công đường và cầu lập lán trại ăn ở chung với dân làng. Thế rồi Tám, một chàng kĩ sư cầu đường đã xuất hiện trong đời sống của mẹ con cô. Tám sinh ra ở miền quê Quảng Bình, chàng kĩ sư trẻ phải lòng một cô gái miền quê bắc bộ, họ đã nên duyên, bà Lý đã thêm một người con mà bà đã từng mong mỏi. Tám không đưa Mỵ về quê, bà Lý thuận lòng dành ngôi nhà cho con gái của bà và người con rể mà bà rất quí.
Thế rồi, con đường và cây cầu bắc qua dòng sông cũng đã xong vào mùa đông. Tám lại mê mải cùng những đồng nghiệp hối hả đến một miền đất mới. Hơn một năm rồi, Tám không về, chàng ta cũng chẳng thông tin và gửi tiền về nuôi con. Bà Lý không thể lí giải được tại sao con gái mình lại gặp mối duyên hẩm hưu đến vậy. Mỵ đã lặn lội về quê chồng tận mãi Quảng Bình, và thật trớ trêu: Tám đã có vợ và 2 đứa con ở quê nhà. Cô đã bị lừa dối, một cú lừa tình đến khốn nạn trong biết bao những cú lừa tình.
" Anh, khi gửi cho anh những tâm tư này, thực tình cũng chỉ là để nguôi ngoai bớt đi những thầm mong nhớ vụng về anh. Cho đến tận lúc này em vẫn còn rất mơ hồ về tình yêu của anh dành cho người con gái mà trước anh đã ngỏ lời, người đó là em. Khi anh ngỏ lời yêu thương muốn cưới em về làm vợ, và em đã khéo từ chối với lý do rằng: em mới qua 18, em không muốn xa mẹ, nếu em lấy chồng thì mẹ ở với ai.
Anh! Rõ là anh chưa hiểu được em. Khi người con gái "nói không là có, và khi nói có sẽ là không". Lâu rồi không nhận được tin anh, có thể là cuộc sống chiến đấu nơi miền biên viễn nhiều gian khổ, hy sinh. Có thể anh đã tin rằng em chưa nhận lời cầu hôn của anh, có thể anh đã buông bỏ một mối tình đầu non dại. Anh, Em sẽ không buồn đâu, nếu anh hững hờ và không còn yêu em nữa, em cũng không nghĩ rằng anh đã có một tình yêu mới, nếu thật sự là anh đã có thì em chúc mừng cho anh.
Anh, nếu chúng mình không đến được với nhau thì âu cũng là duyên phận, cuộc đời đâu đoán được phía trước mà anh. Em vẫn gửi tình yêu của em về bên ấy. Rồi hôm nay em lại gửi về trên ấy cho anh".
Mỵ viết xong lá thư cho Tân. Nàng gấp lại một cách phẳng phiu rồi cho vào bì thư.Mỵ sẽ qua bên ấy, xin lại địa chỉ rồi gửi cho anh.
Hai năm sau....
Tân trở về, người lính trẻ mang trên mình vết thương chiến tranh, đôi nạng gỗ đã trở thành người bạn gắn vào cuộc đời người thương binh trẻ.
Một buổi sáng như thường ngày, cũng như bao buổi sáng của làng quê. Khi mà mọi người đã lục tục kéo nhau ra đồng, tiếng trẻ con ríu rít tung tăng đến lớp học. Lớp mẫu giáo, các lớp tiểu học đã được người ta xây ngay ở đầu làng, thật là tiện ích cho trẻ nhỏ và bố mẹ chúng đón đưa.
Một người thương binh mặc bộ đồ của người lính đã cũ, người khách đó tìm đến nhà bà Lý. Anh chính là chàng trai đã đến nhà bà những năm xưa, cả nhà bà đón anh như vừa mừng vừa tủi.
Tân ngồi lặng lẽ, vẫn vẻ ngày xưa khi bà hỏi đến đâu anh trả lời đến đấy.
- Con có định về với Mỵ không con. Bà Lý gặng hỏi Tân. Chàng trai đỏ mặt lúng túng, vòng vo một lúc rồi chàng thành thật với bà. Tân đến để bày tỏ tình yêu và xin phép bà cho Tân được kết hôn cùng Mỵ.
Mỵ dù đã yêu Tân từ xưa nhưng nàng vẫn còn lúng túng đến vụng về khi đón anh, không hiểu được rằng nàng mừng vui hay buồn tủi mà thấy như mắc cỡ.
Gần trưa, bà Lý bảo Mỵ bắt một con gà bà nuôi, cô con gái giúp mẹ, thế là mâm cơm chẳng mấy chốc đã xong. Bà Lý trang trọng đặt mâm cơm lên ban thờ chồng bà, rồi bà lặng lẽ thắp những nén nhang rồi đứng trước ban thờ chồng bà nghen ngào:
- Ông Thang ơi! Hôm nay tôi làm mâm cơm, tôi thắp nén nhang mời gọi ông về với vợ con và với cháu, xin ông thụ hưởng cơm rượu, tiền vàng tôi và con cháu phúng tiến đến ông.
Ông ơi! Con gái của ông và tôi gặp phải phận mỏng, duyên hèn. Một đời dở dang nuôi con mỗi phận. Nay có thằng Tân ngày xưa yêu nó, giờ nó lại muốn về lại với con Mỵ. Tôi tha thiết khẩn cầu ông hãy thương lấy đôi lứa chúng nó, cho phép chúng nó về với nhau ông nhá.
Bà Lý lấy chiếc khăn bà bỏ trong túi áo, vội vàng lau những giọt lệ đã chảy dài xuống má. Bà cố dấu những giọt nước mắt vào trong.
Tân và Mỵ đôi trẻ dường như họ đã chứng kiến việc bà Lý khóc, vâng, đó là những giọt nước mắt đau xót của người mẹ, một đời đau đáu vì con, vì cháu. Tân quàng tay ôm lấy Mỵ, đôi mắt của họ cũng đỏ hoe, họ đã cảm nhận được hơi ấm của những ngày hạnh phúc đã đến.
VietBF©sưu tập
|
|