Bất ngờ đón cả vợ con sang Pháp định cư mà không mất một xu nào. Tôi vượt biên đến Indonesia vào giữa năm 1985. Cuối năm ấy tôi được đi định cư tại Pháp. Một trong những công việc đầu tiên tôi làm là nộp đơn xin bảo lãnh cho vợ và con gái lúc ấy còn ở Việt Nam. Tất cả những người tôi quen biết ở Pháp đều nói tôi phải chờ đợi ít nhất bốn hay năm năm mới được đoàn tụ. Nghĩ đến thời gian dài đằng đẵng ấy, dĩ nhiên tôi rất buồn, nhưng không có chọn lựa nào khác. Phải chấp nhận thôi.

Sau khi nộp đơn được khoảng 10 tháng, tôi được Bộ Ngoại giao Pháp gọi lên để bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Tiếp tôi là một người đàn ông trung niên, mặt mày khá lạnh lùng. Ông ra dấu cho tôi ngồi trên chiếc ghế đối diện. Nhưng không bắt tay hay cười chào. Câu đầu tiên ông hỏi tôi là có còn ý định bảo lãnh cho vợ con nữa không. Tôi khẳng định dứt khoát: “Dĩ nhiên là còn. Tôi rất nôn nóng muốn gặp lại vợ và con tôi.” Tiếp, ông hỏi về công ăn việc làm của tôi. Tôi đáp là tôi đang tìm việc và đã được một chỗ hứa nhận. Thật ra, nói như vậy là không chính xác. Lúc ấy tôi đã làm thư ký toà soạn cho tạp chí Quê Mẹ ở Paris được hai, ba tuần. Tuy nhiên, vì chưa khai báo và chưa có giấy lãnh lương nên tôi cần dè dặt. Ông hất hàm hỏi tôi một cách hờ hững: “Anh làm nghề gì?” Chẳng hiểu tại sao tôi lại buột miệng đáp: “Tôi là nhà văn.” Nói xong thấy mình vô duyên ngay tức khắc. Cho đến lúc ấy, viết lách, với tôi, chỉ là một đam mê chứ không phải là một cách mưu sinh, một ước mơ hơn là một hiện thực. Tôi chưa từng sống, dẫu chỉ một tuần, bằng tiền nhuận bút. Công việc của tôi ở Quê Mẹ, trong mấy tuần lễ đầu tiên, chủ yếu là công việc giấy tờ hành chính chứ chưa phải viết lách. Tuy nhiên, nếu không nói thế, tôi cũng chẳng biết nói cái gì khác. Ở Việt Nam, tôi học Đại học Sư phạm; ra trường, nhờ đậu thủ khoa, tôi được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Tuy nhiên, hai năm đầu tiên chủ yếu là thời gian tập sự, tôi lên lớp chỉ có ba hay bốn lần gì đó. Bởi vậy, không bao giờ tôi nghĩ tôi là thầy giáo. Sau đó, tôi đi vượt biên, bị bắt và ở tù. Đến lúc về thì mất công việc ở trường đại học. Tôi xoay ra bán thuốc tây ở chợ trời Tân Định, Sài Gòn. Công việc này kéo dài khoảng ba bốn năm. Nhưng đó là một công việc bị coi là phi pháp. Lâu lâu bị công an rượt đuổi như chạy giặc. Bởi vậy, tôi không nghĩ mình là “doanh nhân”. Mấy tháng đầu tiên khi qua Pháp, tôi làm bồi bàn trong một tiệm ăn Việt Nam. Tôi không nghĩ đó là một nghề.

Hình như người phỏng vấn tôi có vẻ ngạc nhiên trước câu trả lời của tôi. Cái nhìn của ông, tôi thấy, hơi ấm hơn một chút. Ông hỏi tôi viết gì. Tôi hào hứng kể: “Tôi viết phê bình và nghiên cứu về văn học Việt Nam.” Ông hỏi tôi có đăng ở đâu không. Tôi đáp: “Ở Việt Nam, tôi đăng bài trên các tạp chí văn học; sang Pháp, tôi đăng trên các tạp chí ở Paris và California.” Rồi ông hỏi tôi về sinh hoạt văn học Việt Nam ở hải ngoại. Tôi ú ớ. Bí. Lúc ấy tôi chỉ mới đọc được vài tờ tạp chí văn học, không hình dung được diện mạo của văn học hải ngoại như thế nào cả. Tôi chỉ trả lời chung chung. Và rất mơ hồ. Chắc người nhân viên Bộ Ngoại giao thấy rõ sự lúng túng của tôi nên không hỏi gì thêm, ông bảo tôi về nhà và chờ.
Ra về, tôi buồn rười rượi. Tôi cảm thấy cuộc phỏng vấn thất bại hoàn toàn. Tôi thấy những câu trả lời của tôi nếu không khù khờ thì cũng lãng nhách, chả đâu vào đâu cả. Tôi tiếc là đã không chuẩn bị kỹ trước. Tôi cũng hối hận về việc tự nhận là “nhà văn”. Tôi nghĩ cái chữ “nhà văn” dễ gợi cho người phỏng vấn cái ấn tượng tôi là kẻ mơ mộng, không thực tế, khó có khả năng lo cho gia đình một cách chu đáo, do đó, rất dễ trở thành một gánh nặng cho xã hội Pháp.
Thế nhưng, một điều hoàn toàn bất ngờ đã xảy ra: Hơn một tháng sau, tôi nhận được điện tín của vợ tôi báo tin đã có giấy nhập cảnh vào Pháp. Tất cả những người tôi quen biết ở Pháp đều ngạc nhiên. Họ chưa bao giờ thấy trường hợp nào có giấy nhập cảnh nhanh đến thế.

Tôi mừng vô hạn. Nhưng rồi lại lo lắng: Vợ con qua, phải thuê nhà ở. Phải lo sắm sửa giường nệm, bàn ghế, nồi niêu soong chảo, đủ thứ. Dạo ấy tiền dành dụm của tôi không nhiều. Đi làm, lương thấp, lại phải gửi tiền về Việt Nam trả nợ vượt biên và nuôi vợ con. Nên số tiền còn lại không được bao nhiêu cả. Rồi sẽ phải lo vé máy bay cho vợ và con sang Pháp. Tôi loay hoay không biết mượn tiền từ đâu. Lo đến mất ngủ.
May, một sự bất ngờ thứ hai lại xảy ra: Vợ tôi gửi điện tín báo tin Toà Tổng lãnh sự Pháp ở Sài Gòn gọi vợ tôi tới và cho hai mẹ con hai chiếc vé máy bay. Cho, cho luôn. Tôi mừng húm, trút được một phần gánh nặng về tài chính.
Khoảng một tháng sau, tháng 11 năm 1986, vợ con tôi sang Pháp. Như vậy, đúng một năm sau khi tôi đến Pháp, gia đình nhỏ của tôi được đoàn tụ. Theo những người tôi quen biết ở Pháp, đó là một thời gian nhanh kỷ lục. Tại sao việc bảo lãnh lại trôi chảy êm ái như vậy? Nghĩ lại, tôi cho là nhờ sự giúp đỡ của người nhân viên phỏng vấn tôi. Không chừng ông ấy có bụng liên tài, thương thằng nhà văn khờ khạo ở xứ người. Nên ra tay giúp.
Tất cả những sự may mắn ấy đều xuất phát từ một câu nói buột miệng chừng như bâng quơ và ngu ngơ “Tôi là nhà văn”.