Chi Lăng – Xương Giang trở thành tử địa chôn vùi đạo quân Liễu Thăng – Mộc Thạnh. Trong ṿng một tháng, nghĩa quân Lam Sơn đă làm nên chiến thắng hiển hách, đập tan mộng xâm lược Đại Việt, buộc nhà Minh phải rút quân và thừa nhận nền độc lập dân tộc.”
Chi Lăng – Xương Giang - Trận quyết chiến định mệnh
Đây là những thắng lợi oanh liệt của trận Chi Lăng-Xương Giang mà Đại thần Nguyễn Trăi đă ghi lại trong bài “B́nh Ngô đại cáo”. Đó cũng là chiến thắng có ư nghĩa quyết định, kết thúc thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do người anh hùng dân tộc Lê Lợi lănh đạo hồi đầu thế kỷ XV.
Chi Lăng (Lạng Sơn) là một cửa ải xung yếu nhất trên con đường từ Pha Lũy đến Đông Quan, cách Pha Lũy khoảng 60km. Đó là một thung lũng nhỏ, dài khoảng 4 km, rộng gần 1 km. Dọc hai bên thung lũng là những núi đá dựng đứng. Giữa những thung lũng có 5 ngọn núi và những cánh đồng lầy lội.
Do có vị trí và địa h́nh hiểm yếu, Chi Lăng là nơi diễn ra những chiến công của dân tộc ta trong các cuộc kháng chiến chống Tống, chống Nguyên trước đây, mà nổi bật là chiến công của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Trận Chi Lăng - Xương Giang là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 8/10 đến ngày 3/11/1427 giữa lực lượng khởi nghĩa Lam Sơn của nhà Lê và đạo quân viện binh nhà Minh. Nghĩa quân Lam Sơn đă giành được chiến thắng quyết định.

Lược đồ trận Chi Lăng - Xương Giang, tháng 10/1427.
Cuối năm 1426, khi triều đ́nh nhà Minh nhận được cấp báo của Vương Thông xin viện binh ở Đại Việt, địch chỉ c̣n giữ được một số thành Đông Quan (Hà Nội), Điêu Diên (thị trấn Gia Lâm), Xương Giang (thị xă Bắc Giang), Chí Linh (Phả Lại), Cổ Lộng (Ư Yên- Nam Định), Thị Cầu (Bắc Ninh), Tây Đô (Thanh Hóa). Số quân trong các thành đó vẫn c̣n khá đông, đông nhất là thành Đông Quan với 5 vạn tên, nhưng đều đă bị ta bao vây, địch không dám ra phản kích và hết sức lo lắng, bị động. Sở chỉ huy của Lê Lợi, Nguyễn Trăi đă tiến ra Bồ Đề (Gia Lâm). Lực lượng nghĩa quân đông, khí thế mạnh mẽ, hăng hái, sẵn sàng bước vào cuộc tổng tiến công.
Tháng 10/1427, giặc Minh quyết định điều một đạo viện binh lớn tiến vào nước ta theo 2 ngả: Cánh quân do Liễu Thăng trực tiếp chỉ huy gồm 10 vạn quân, 2 vạn ngựa tiến theo ngả Quảng Tây vào Lạng Sơn, cánh thứ hai gồm 5 vạn quân do Mộc Thạnh chỉ huy tiến theo ngả Vân Nam vào Lào Cai. Theo kế hoạch, hai cánh quân này sẽ hợp vây tiêu diệt lực lượng chủ lực của quân Lam Sơn đóng ở Đông bắc thành Đông Quan, nhằm giải tỏa Đông Quan, tạo bàn đạp tiến về phía Nam.

Ải Chi Lăng, Lạng Sơn.
Trước t́nh thế cùng một lúc phải đối phó với 2 khối quân lớn sắp tiến vào nước ta, cộng với hơn 10 vạn quân của Vương Thông c̣n đang đóng ở thành Đông Quan và các thành khác, th́ Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn đứng trước ba câu hỏi lớn: Một là, diệt quân địch ở Đông Quan trước, hay diệt quân viện trước? Hai là, cùng lúc diệt quân viện ở cả hai hướng; nếu diệt một hướng th́ chọn hướng nào? Ba là, cách triển khai kế hoạch đánh địch ra sao?
Để trả lời được những câu hỏi đó, Bộ chỉ huy nghĩa quân đă căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng, sức mạnh chiến đấu, căn cứ vào mức độ nguy hiểm của từng đối tượng và yêu cầu chiến thuật, nên Bộ chỉ huy nghĩa quân, đứng đầu là Lê Lợi đă quyết định vận dụng lối đánh “vây thành diệt viện, với thuyết quân sự “đánh thành là hạ sách… đợi quân cứu viện tới, khi viện binh bị phá th́ thành tất phải hàng”.
Ta chủ trương tập trung chủ lực tiêu diệt cánh quân Liễu Thăng, c̣n cánh quân Mộc Thạch ta kiềm chế, ngăn chặn bằng lực lượng thứ yếu để tạo điều kiện tiêu diệt ở bước tiếp theo, đồng thời dùng một lực lượng tiếp tục vây hăm Vương Thông, không cho chúng hợp quân với các cánh viện binh.

Liễu Thăng trúng tên nghĩa quân Lam Sơn mai phục trong trận Chi Lăng- Xương Giang, 10/1427 (tranh minh họa).
Ngày 8/10, cánh quân do Liễu Thăng cầm đầu tiến vào nước ta. Quân ta do tướng Trần Lựu, Lê Bôi chỉ huy đă thực hiện kế hoạch vừa đánh vừa rút để nhử địch vào trận địa mai phục ta đă bố trí sẵn ở Chi Lăng. Ngày 10/10, Liễu Thăng đích thân dẫn đội kỵ binh vượt qua cửa ải phía Bắc, tiến đến chân núi Mă Yên.
Quanh chân núi là cánh đồng lầy lội. Lúc đó, phục binh của ta từ bốn phía xông ra lao thẳng vào đội h́nh địch, chia cắt, bao vây và dồn chúng vào cánh đồng lầy. Tên thuốc độc, đạn đá, phi tiêu, mũi lao tới tấp phóng vào quân giặc. Bị đánh bất ngờ, quân địch hoảng hốt, đội h́nh bị rối loạn. Tổng binh Liễu Thăng cố t́m cách chạy thoát, liền bị quân ta phóng lao đâm chết ở sườn núi Mă Yên.
Quân ta thừa thắng tiến công liên tục, tiêu diệt được hơn một vạn tên. Phó tướng Lương Minh vội chấn chỉnh đội ngũ, kéo quân về phía Đông Quan. Ngày 15/10, quân địch lại bị chặn đánh quyết liệt ở Cần Trạm ( Bắc Giang). Trong trận này, Lương Minh bị giết cùng với nhiều binh lính địch. Đô đốc Thôi Tụ và thượng thư Lư Khánh lên thay, cố gượng tiến về thành Xương Giang (Bắc Giang), với hy vọng sẽ phối hợp với quân trong thành, rồi liên hệ với thành Đông Quan và Chí Linh cứu văn t́nh thế.
Khi địch tiến gần đến thành Xương Giang mới biết rằng thành này đă bị quân ta hạ 10 ngày trước khi chúng kéo vào biên giới (ngày 28/9) và biến nơi đây thành một pháo đài kiên cố. Lúc này, địch buộc phải hạ trại đóng quân trên cánh đồng Xương Giang, nơi ta đă bố trí sẵn một lực lượng vây hăm từ bốn phía. Ngày 3/11, quân ta được lệnh tổng công kích.
Sau một ngày chiến đấu, ta đă giành được thắng lợi gịn giă: diệt và bắt hơn 6 vạn tên địch, bao gồm toàn bộ tướng chỉ huy của chúng. Mộc Thạnh ở phía Tây, nhận được tin thất bại của Liễu Thăng, vội vàng cho quân rút chạy. Quân ta dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Xào, Trịnh Khả đă truy kích tiêu diệt và bắt sống hơn 2 vạn tên, làm tan ră hoàn toàn cánh quân này tại biên giới. Chỉ trong ṿng một tháng, toàn bộ hai đạo viện binh địch vừa vượt qua biên giới đă bị tiêu diệt và đánh tan. Vương Thông bị vây ở thành Đông Quan phải đầu hàng và chấp nhận rút quân về nước.
Trận Chi Lăng – Xương Giang đă đi vào lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Với chiến công hiển hách này đă kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến gian khổ chống giặc Minh xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Trận chiến này đă cống hiến xuất sắc những kinh nghiệm thực tiễn về nghệ thuật quân sự của nghĩa quân Lam Sơn, măi măi là niềm tự hào to lớn cho chúng ta, măi măi là những kinh nghiệm và bài học có giá trị, giúp chúng ta có cơ sở để nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo, hiệu quả vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
VietBF@ sưu tập