Trước 1975, Cần Thơ là tỉnh lỵ của Phong Dinh, vừa mang dáng dấp một đô thị miền Tây đang lớn, vừa giữ nguyên nhịp sống sông nước. Con người nhớ về Cần Thơ thời ấy bằng những tiếng động rất đặc trưng: tiếng chuông nhà thờ, tiếng rao hàng, tiếng máy ghe rù ŕ dọc bến Ninh Kiều, thi thoảng chen lẫn c̣i xe lam và chuông xe đạp. Những bức ảnh xưa c̣n lưu lại: đường phố rợp bóng cây, xích lô chầm chậm, áo dài trắng đi học, chợ búa tấp nập, và đâu đó tấm bảng “Ṭa Hành Chánh” chữ đúc rơ ràng trên nền tường vôi sáng.
Phố và người
Cần Thơ khi ấy không ầm ào như Sài G̣n nhưng rất sinh khí. Trên các trục phố rợp cây, xích lô là phương tiện “chủ lực”; người đạp chỉ cần cúi lưng là có thể đưa khách băng qua những con đường thoáng đăng. Xe đạp nối nhau, xe lam chạy bon bon, c̣n xe máy của những tiểu thương khá giả hay viên chức trẻ chỉ điểm xuyết. Bóng áo dài nữ sinh đi từng nhóm trên vỉa hè lát gạch, mũ vành nhỏ nghiêng che nắng—một nét nền nă rất “Tây Đô”.

Các công sở đặt rải rác quanh trung tâm; nổi bật là Ṭa Hành Chánh tỉnh—một kiến trúc hiện đại thời cộng ḥa, mặt tiền phẳng phiu, chữ nổi sắc nét. Bên cạnh là bệnh viện, bưu điện, rạp chiếu bóng, những tiệm chụp ảnh, tiệm tạp hóa của người Hoa, người Việt chen nhau sinh sống. Đô thị miền sông nước nên phố không biệt lập: chỉ vài trăm mét là chạm bến bờ.

Ninh Kiều – chợ nổi – nhịp mưu sinh trên sông
Bến Ninh Kiều là trái tim. Sáng sớm, sương c̣n mỏng, chợ đă rộn: ghe trái cây từ các rạch nhỏ nườm nượp, dây neo lách cách, tiếng rao “vú sữa Vĩnh Kim, bưởi Phong Điền, dừa Bến Tre…” nghe đến dễ thèm. Xa hơn là chợ nổi Cái Răng, Phong Điền: ghe thương hồ căng sào treo mẫu hàng—bí, dưa, khóm—nh́n sào là biết bán ǵ, khỏi cần căi nhau. Đàn ông thả chài, vợ ngồi mũi ghe tính tiền, con nít ngủ gục trên đống xoài, cái nghèo cái vui lẫn vào nhau như vị mặn của nước sông.

Những bức ảnh c̣n ghi cảnh thả lưới giữa ḍng: thân người gồng lên, tấm chài x̣e như một bông sen đỏ, phía sau là hàng rào gạch và những vườn chuối xanh ấm.
Cả một nền kinh tế sông nước đă nuôi lớn Cần Thơ như thế—bằng gạo, trái cây, cá tôm và sự khéo léo của dân thương hồ.

Chùa, miễu, nhà thờ – bức tranh đa sắc của tín ngưỡng

Đời sống tinh thần của Cần Thơ trước 1975 hiện rơ trên những mái ngói cổ kính. Miễu hội quán người Hoa ở khu chợ bờ sông, cổng sơn đỏ, nóc đắp rồng phượng men xanh; nhà chùa mái thấp, rêu phong; nhà thờ xây theo lối Tây phương giản dị. Sự chung sống ấy hiền ḥa và thực tế—ai làm ăn nấy, nhưng hễ có việc chùa, lễ hội hay đám rước là cả khu phố rộn ràng.
Trong kư ức nhiều người là h́nh ảnh các sơ nụ cười hiền hậu dẫn trẻ mồ côi đi thành hàng; những cơ sở bác ái tôn giáo lặng lẽ cưu mang phận nghèo, dạy trẻ biết chữ, băng bó vết thương chiến cuộc mà chẳng cần nói nhiều.

Nhà trường, sinh viên và khát vọng học hỏi
Từ thập niên 1960, Cần Thơ bắt đầu có các trường trung học nổi tiếng ở miền Tây, rồi một trường đại học non trẻ xuất hiện, gieo khát vọng tri thức cho cả vùng đồng bằng. Sách vở, báo quốc ngữ, tạp chí văn nghệ theo sông mà về; quán cà phê nhỏ quanh bến bờ tối tối có tiếng ghi-ta, mấy chàng sinh viên đọc thơ, bàn chuyện quốc gia đại sự, mơ ngày lập nghiệp.
Chiến tranh đi ngang – đời sống vẫn tiếp tục
Chiến tranh không chừa ai, nhưng Cần Thơ có cái điềm tĩnh của vùng đất sông rạch. Ở ngoại ô là trại lính, căn cứ không quân B́nh Thủy; trong thành phố có lính VNCH và các phái đoàn dân sự nước ngoài qua lại. Trên thân chiếc Jeep hoặc trước cổng vài cơ sở hiện diện những phù hiệu bắt tay, biểu trưng của các chương tŕnh viện trợ thời ấy. Tuy vậy, nhịp sống phố phường vẫn giữ thăng bằng: quán hủ tiếu mở cửa mỗi sáng, chợ đông chiều mưa, rạp hát thay bảng phim mới vào cuối tuần.

Nghề và nếp sống
Một buổi trưa nắng, bạn có thể gặp đôi vợ chồng đẩy xe thồ chở gỗ đi qua phố, người chồng gân guốc, người vợ áo bà ba đen và nón lá—bức tranh lao động chân chất của miền Tây. Bên kia đường, một bà cụ gánh hàng rong, khung xe đạp treo cái túi vải sọc – chiếc “balo” của thời ấy. Trẻ con ngồi vắt vẻo sau yên xe mẹ, tay ôm chặt lưng – cả tuổi thơ bám theo tiếng lục cục của bánh xe trên đường lát đá.

Người Cần Thơ ưa vui mà mộc mạc. Kèo nhậu ở bến sông có thể bắt đầu bằng dĩa khô cá sặc nướng, chấm mắm me, vài cọng rau đắng đất; hoặc một tô hủ tiếu gơ nóng hổi, thêm tách cà phê vợt thơm nức. Mùa nước nổi, cá linh non về, bông điên điển nở, chén canh chua chan đầy vừa mặn vừa ngọt—như tính người nơi đây.
Đô thị đang lớn
Cần Thơ trước 1975 là một đô thị đang lớn chứ chưa kịp “đô thị hóa” triệt để. Phố xá sạch sẽ, vỉa hè rộng, cây xanh nhiều; nhưng chỉ cần đi vài dăy nhà là chạm vào ruộng vườn, rạch nhỏ. Sự chuyển động ấy thể hiện ngay trong kiến trúc: giữa dăy phố tường vôi, đột nhiên vút lên một ṭa công sở hiện đại; cạnh mái ngói âm dương lại là căn nhà tân thời với cửa sổ rộng. Tất cả giao thoa, vừa b́nh dị vừa mới mẻ.

Kư ức c̣n lại
Nh́n lại những tấm h́nh cũ—xích lô trên con đường rợp bóng, bến Ninh Kiều nhộn nhịp, mái miễu lộng sắc men, “Ṭa Hành Chánh” chữ trắng, trẻ con nắm tay các sơ, cậu bé nghịch ngồi trong chiếc xe nhà binh—ta thấy một Cần Thơ giàu sinh lực. Đó không chỉ là hoài niệm; đó là chứng tích về một đô thị miền Tây đă đi qua chiến tranh mà vẫn giữ được nét hào sảng, sáng sủa.

Cần Thơ trước 1975 v́ thế không chỉ là địa danh; đó là một phong cách sống: thong thả mà chịu khó, mở ḷng mà đằm thắm. Bến sông vẫn ở đó, những con đường vẫn rợp cây; và trong mỗi người xa xứ, câu ḥ “Cần Thơ gạo trắng nước trong” c̣n ngân dài như một lời tự giới thiệu: hiền ḥa, mến khách, và không bao giờ đánh mất ḿnh giữa những đổi thay.