Thuở bé tôi vẫn nh́n về phía núi Vọng Phu để ḷng bồi hồi thương cho hai bóng người hóa đá. Bà tôi cũng kể rằng vùng núi ấy có kẻ ngậm ngãi t́m trầm, đi lạc trong rừng mấy mươi năm, khi t́m về được quê nhà th́ đă hóa thành con vượn không c̣n nói được tiếng người.
Thỉnh thoảng, ở chợ Ninh Ḥa tôi rất sợ khi nh́n thấy có một vài người da đen thui, tóc quăn tít, đàn ông mặc khố, đàn bà địu con trên lưng. Chắc họ từ núi Vọng Phu xuống, Có người nói họ là người Thượng ở Buôn Sim. Buôn Sim chỉ cách thị trấn Ninh Ḥa khoảng 14 km theo hướng quốc lộ 21. Người dân quê tôi không gần gũi với vùng đất này bởi khí hậu nơi ấy vô cùng khắc nghiệt. Nằm trong ḷng chảo của nhiều rặng núi, buôn Sim là một vùng khô cằn, sỏi đá, đêm quá lạnh, ngày quá nóng.
Sau hiệp định Genève vài năm, Buôn Sim bỗng biến thành một quân trường khổng lồ gồm ba trung tâm huấn luyện Pháo Binh, Biệt Động, Lam Sơn. Và cái tên Dục Mỹ ra đời.
Khác với thời chống Pháp mà người lính là những “Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá”, các quân nhân miền Nam được huấn luyện và trang bị rất quy cũ với các doanh trại khang trang, bề thế. Với số lượng quân nhân trong ba trung tâm huấn luyện kèm theo gia đ́nh của sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, thị trấn Dục Mỹ mọc lên giữa bốn bề núi non, tuy nhỏ bé nhưng vô cùng nhộn nhịp.
Cũng giống như những thị trấn mới toanh trong phim cowboy miền viễn tây, Dục Mỹ là nơi quy tụ của quá nhiều người tứ xứ về đây mang theo các giọng nói vùng miền. Người có máu làm ăn cũng vội vàng t́m về đất hứa. Chợ Dục Mỹ cung cấp đủ để nấu được các món ăn đặc trưng kiểu Sài G̣n, Bắc, Huế...
“Vợ Lính” thong dong chẳng cần làm việc, chỉ lo cơm nước và nuôi con…
Những chuyến xe lam như con thoi nối liền Ninh Ḥa - Dục Mỹ. Người dân Ninh Ḥa bây giờ hướng về thị trấn mới như một thị trường hấp dẫn, nơi họ có thể làm giàu nhờ nghề cung cấp thực phẩm. Nhà thờ và nhà chùa đă được xây. Các xe schoolbus được chế biến từ xe GMC của ba quân trường chở con quân nhân xuống Ninh Ḥa học ở các trường trung học. Những cô cậu học tṛ đă từng ngồi trên những chiếc GMC cải tiến này, nay đă trên dưới sáu mươi và tôi tin rằng dầu ở chân trời góc bễ nào họ không bao giờ quên những chuyến xe chở học sinh kỳ lạ nhưng đầy ắp niềm vui một thuở.
Chủ nhật, con phố Dục Mỹ “Đi dăm phút trở về chốn cũ” có bóng dáng của những Thiếu Úy, Trung Úy trẻ trung, quân phục thẳng nếp, thong thả dạo gót rồi ghé vào một tiệm sách có cô bán hàng xinh xinh.
Bên con suối Dục Mỹ vài quán cà phê ra đời có tiếng nhạc ḥa trong tiếng ầm ào thác đổ. Người lính miền Nam thuở ấy vẫn c̣n mang vẻ thư sinh lăng mạn. Ra trận, thay v́ nh́n tới trước “nhắm thẳng quân thù mà bắn”, họ quay nh́n lại phía sau “Người đi khu chiến, thương người hậu phương”.
Biến cố 1975 như một cơn động đất dữ dội làm sụp đổ hoàn toàn trung tâm huấn luyện. Toàn bộ cư dân gồm quân nhân từ ba trung tâm huấn luyện cùng gia đ́nh họ đều chạy khỏi Dục Mỹ, tan tác hăi hùng như mănh vỡ của một trái phá…
Thị trấn bỗng chốc như bị thần đèn mang đi đâu mất. Dục Mỹ trở lại là buôn sim hoang vắng thuở nào. Cũng c̣n một số người ở lại v́ họ không biết đi đâu về đâu và họ trở thành dân của một vùng kinh tế mới mang tên Ninh Sim. Và người dân Ninh Sim đă phải làm ǵ để tồn tại khi 100% mang trên đầu bản án lư lịch xấu, con cái chắc chắn không được vào đại học, người thân không biết c̣n sống hay đă chết trong các trại cải tao ?
Nếu người Ninh Ḥa khi ấy kiếm sống bằng cách bám vào bến xe đ̣ và ga xe lửa với các chuyến đi buôn lậu gạo, đường, thuốc lá, đạp xe ba gát, làm phu khuân vác… th́ người dân Ninh Sim Dục Mỹ kiếm sống bằng cách bám vào núi rừng. Họ lên núi đào khoai mài, cắt tranh, lấy đót. Họ “ngậm ngăi t́m trầm” và có người đă mất xác trong rừng sâu núi thẳm. Họ chặt củi, hái trái rừng, trồng khoai ḿ, trồng mía. Họ t́m cách sống trong im lặng, chịu đựng mặc cho loa phường ngày ngày vang lên giọng tự hào “chiến thắng giặc Mỹ để toàn dân xây dựng thiên đường Xă Hội Chủ nghĩa”.
Và tượng đá bồng con trên non cao kia chắc đă nhiều lần rơi lệ thương cho cảnh con người bức hại con người.
Năm ngoái, anh Phạm Văn Nhàn trở về Ninh Ḥa, rủ vợ chồng tôi đi thăm lại Dục Mỹ, nơi anh có thời gian rất lâu là sĩ quan của quân trường Lam Sơn. Xe ghé lại núi Đeo, nơi vẫn c̣n tháp huấn luyện của quân trường Biệt Động nằm bên Khu Mưu Sinh. Khu Mưu Sinh được dựng bên một ḍng suối đă biến mất nhưng ngôi tháp vẫn c̣n. Anh Nhàn muốn chụp một tấm h́nh có người lính già trở về thăm ngọn đồi kỷ niệm.
Qua khỏi Dục Mỹ chúng tôi nh́n thấy những đồng mía bạt ngàn, những đàn ḅ gầy ốm đang gặm cỏ trên những cánh đống nắng cháy. Đến khoảng cây số 17 anh Nhàn cho dừng xe.
- H́nh như trung tâm Lam Sơn hồi trước ở đây mà sao tui không c̣n nh́n thấy ǵ hết ?
Rồi anh ghé vào hỏi thăm một cô hàng nước :
- Cô ơi trung tâm Lam Sơn ở đâu hả cô ?
Cô hàng nước mỉm cười, chỉ tay xuống đất :
- Dạ ở ngay đây này !
Anh Nhàn nh́n quanh. Chẳng c̣n ǵ là dấu vết của một địa danh lừng lẫy ! Anh bước thêm vài bước, chẳng thấy phố, thấy người chỉ thấy toàn mía là mía.
Dù sao Dục Mỹ cũng là tên rất quen thuộc với thanh niên miền Nam trước 75. Dục Mỹ c̣n gợi nhớ qua bản nhạc "Giờ này anh ở đâu ?".
Ừ, giờ này họ ở đâu ???
Hơn mười năm tồn tại, Dục Mỹ của ba quân trường bây giờ chỉ là cát bụi thời gian !
Huyền Chiêu
|
|