Từng có một thời, nhiều phụ nữ Á Đông lớn lên mà chưa bao giờ được gọi đúng tên ḿnh. Từ lúc chào đời đến khi lấy chồng, danh tính của họ dần bị che khuất bởi những cách xưng hô tưởng chừng rất quen. Đó là một lát cắt lặng lẽ của bất b́nh đẳng giới trong ngôn ngữ đời sống.
Ở xă hội nông thôn Việt Nam và nhiều quốc gia Á Đông trước kia, việc chào đời của một bé gái hiếm khi được chào đón với sự háo hức trọn vẹn. Khi con trai ra đời, cái tên thường được lựa chọn kỹ lưỡng, gửi gắm mong mỏi về tương lai, học hành, sự nghiệp. Ngược lại, với nhiều bé gái, tên gọi chỉ mang tính tạm bợ, thuận miệng, thậm chí chẳng cần mang ư nghĩa nào.
Những cách gọi như “con Hai”, “con Ba”, “A Tứ”, “Tiểu Ngũ” hay những cái tên giản tiện, dễ nhớ, dễ gọi xuất hiện dày đặc trong kư ức làng quê. Chúng không phản ánh cá tính, không thể hiện kỳ vọng, cũng không được xem là điều quan trọng cần đầu tư. Tên gọi khi ấy chỉ là một kư hiệu để phân biệt, không hơn.
Ẩn sau sự giản lược ấy là một quan niệm lạnh lùng: con gái rồi cũng sẽ rời khỏi gia đ́nh, sẽ “theo người ta”, nên không cần gắn bó sâu sắc bằng một danh tính đầy đủ. Chính từ đó, nhiều bé gái lớn lên trong cảm giác ḿnh chỉ là phần phụ, là sự hiện diện mờ nhạt, có cũng được mà không có cũng chẳng sao.
Tuổi thơ của họ trôi qua với những tiếng gọi quen thuộc nhưng xa lạ, bởi đó không phải là tên, mà chỉ là một cách xưng hô tạm thời. Danh tính cá nhân chưa kịp h́nh thành đă bị làm cho nhạt nḥa.

Những cách gọi quen thuộc từng khiến nhiều phụ nữ trở thành “người không tên” trong chính gia đ́nh và cộng đồng.
Khi hôn nhân trở thành điểm kết của danh tính
Nếu thời thơ ấu là giai đoạn tên gọi mơ hồ, th́ hôn nhân lại là lúc danh tính của người phụ nữ gần như bị xóa bỏ hoàn toàn. Sau khi về nhà chồng, nhiều người không c̣n được gọi bằng tên khai sinh, mà gắn với họ chồng hoặc vai tṛ mới trong gia đ́nh.
Trong bối cảnh Á Đông, việc gọi phụ nữ bằng họ của chồng từng được xem là điều hiển nhiên. Cách gọi này hàm ư người phụ nữ đă thuộc về ḍng họ khác, trở thành một phần của gia tộc nhà chồng hơn là một cá thể độc lập. Tên riêng – thứ gắn liền với sự tồn tại cá nhân – dần bị đẩy ra ngoài lề.
Trong đời sống thường nhật, sự biến mất ấy c̣n rơ ràng hơn. Người phụ nữ trở thành “vợ anh A”, rồi khi có con, lại được gọi là “mẹ thằng B”. Những cách xưng hô ấy nghe qua tưởng như thân mật, gần gũi, nhưng lâu dần khiến tên thật của họ hoàn toàn biến mất khỏi giao tiếp xă hội. Ít ai c̣n nhớ, hoặc c̣n cần nhớ, họ tên ǵ, từng mang ư nghĩa ra sao.
Một đời người trôi qua với những vai tṛ chồng chéo, nhưng danh tính cá nhân th́ chưa từng được gọi đúng. Đến khi tuổi già, họ vẫn tồn tại trong kư ức của người khác bằng mối quan hệ với ai đó, chứ không phải bằng chính cái tên của ḿnh.
Sự vô h́nh kéo dài qua nhiều thế hệ
Hệ quả của việc “khinh rẻ tên gọi” không chỉ dừng lại ở ngôn ngữ. Khi không được gọi tên, người phụ nữ dễ bị xem như một phần chức năng của gia đ́nh: người sinh nở, người chăm sóc, người quán xuyến. Sự hiện diện của họ trở nên quen thuộc đến mức bị coi là đương nhiên, không cần được ghi nhận.
Trong các gia phả xưa, điều này thể hiện rất rơ. Tên tuổi của phụ nữ thường bị lược bỏ, hoặc chỉ xuất hiện với vài chữ ngắn ngủi gắn kèm tên chồng. Lịch sử gia đ́nh v́ thế trở nên khuyết thiếu, khi cả một nửa ḍng chảy kư ức bị làm cho vô h́nh. Con cháu đời sau có thể biết rất rơ về ông, về cụ, nhưng lại mơ hồ về bà, về những người phụ nữ đă gánh vác phần lớn đời sống gia đ́nh.
Sự vô h́nh ấy không ồn ào, không gây tranh căi, nhưng âm thầm ăn sâu vào nhận thức xă hội. Nó khiến nhiều thế hệ phụ nữ quen với việc đứng sau, quen với việc không được gọi tên, và dần coi đó là điều b́nh thường. Ḷng tự trọng, cảm giác về giá trị bản thân cũng từ đó mà bị bào ṃn.
Khi tên gọi được trả về đúng vị trí của nó
Xă hội hiện đại đang chứng kiến những thay đổi rơ rệt trong cách nh́n nhận về danh tính và b́nh đẳng giới. Ngày nay, mỗi đứa trẻ, dù là trai hay gái, đều được khai sinh với họ tên đầy đủ, được pháp luật bảo vệ như một quyền cơ bản. Việc đặt tên cho con gái không c̣n là chuyện qua loa, mà trở thành cách cha mẹ gửi gắm yêu thương, kỳ vọng và sự tôn trọng.
Trong đời sống xă hội, việc gọi phụ nữ bằng chính tên của họ dần trở nên phổ biến và được xem là điều tự nhiên. Tên gọi không c̣n bị che lấp bởi vai tṛ làm vợ, làm mẹ, mà được thừa nhận như dấu ấn cá nhân không thể thay thế.
Sự thay đổi ấy không chỉ mang ư nghĩa h́nh thức. Khi một người được gọi đúng tên, họ được nh́n nhận như một cá thể độc lập, có câu chuyện riêng, có giá trị riêng. Đó là bước khởi đầu quan trọng để phụ nữ được hiện diện đầy đủ hơn trong lịch sử gia đ́nh và trong đời sống xă hội.
Kết bài
Nh́n lại quá khứ “khinh rẻ tên gọi” của phụ nữ là nh́n lại một mảnh ghép buồn trong lịch sử văn hóa Á Đông. Việc ấy không nhằm phán xét hay phủ nhận những ǵ đă qua, mà để hiểu rằng một cái tên không chỉ là cách xưng hô, mà là bản sắc, là quyền được tồn tại trọn vẹn.
Khi xă hội học được cách trân trọng tên gọi của phụ nữ, đó cũng là lúc xă hội ấy học được cách tôn trọng con người. Và khi mỗi người phụ nữ được gọi đúng tên ḿnh, họ không c̣n là “con số”, “vai tṛ” hay “phần phụ”, mà là một cá thể đầy đủ, xứng đáng được ghi nhớ và được lắng nghe.
VietBF@sưu tập