Từ bóng cờ tam tài trở lại Đông Dương
Lịch sử Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không bắt đầu bằng những sư đoàn, quân đoàn oai hùng, mà khởi đi từ một giai đoạn rất tối tăm của dân tộc. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi tiếng súng vừa im trên chiến trường châu Âu, quân đội viễn chinh Pháp lại lục tục kéo về Đông Dương. Dưới danh nghĩa “giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở xuống”, người Pháp núp bóng quân Anh, mang theo tham vọng dựng lại nền đô hộ cũ trên ba xứ Việt – Miên – Lào. Từ Paris, De Gaulle cử đô đốc Thierry d’Argenlieu làm Cao ủy Đông Dương, Leclerc làm tư lệnh viễn chinh; cả một bộ máy thực dân cũ trấn chỉnh lại, tiếp tục áp đặt “mẫu quốc văn minh” lên một dân tộc đang khát độc lập.

Nhưng nước Việt khi ấy không c̣n là nước Việt của đầu thế kỷ. Súng ống có thể thua kém, tổ chức c̣n rời rạc, nhưng tinh thần chống ngoại xâm th́ bốc lửa. Ở miền Nam là các lực lượng Việt Minh, Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên; ở miền Trung và miền Bắc là Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt… Tất cả, dù khác nhau về chủ trương, đều không muốn trở lại kiếp thuộc địa. Họ chiến đấu, rồi lần lượt bị dồn vào bưng biền, lên rừng, rút về kháng chiến trường kỳ. Trong vùng tạm chiếm, một bộ phận dân chúng buộc phải cộng tác với Pháp để sinh sống, nhưng trong đáy ḷng, mơ ước lớn nhất vẫn là một ngày nào đó, đất nước có được một chính quyền quốc gia và một đạo quân quốc gia đúng nghĩa.
Vệ Binh Quốc Gia và buổi phôi thai của một quân lực
Trong bối cảnh ấy, người Pháp bắt đầu tuyển mộ lính bản xứ, ban đầu dưới cái tên “Thân binh Đông Dương”, dần dần h́nh thành các “lực lượng phụ lực” do sĩ quan Pháp chỉ huy. Không phải ai cầm súng cho Pháp cũng là Việt gian; nhiều người là phần tử quốc gia thật sự, muốn dựa vào sức mạnh quân sự Pháp để chống lại mối nguy cộng sản đang lớn dần trong hàng ngũ Việt Minh.

Năm 1948, giải pháp Bảo Đại ra đời, mở đầu cho nỗ lực gom các lực lượng quốc gia lại dưới một mái nhà để chống Việt Minh – lúc này đă ngả hẳn về phe cộng sản quốc tế. Hiệp ước Élysée kư ngày 8-3-1949 giữa Quốc trưởng Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol chính thức công nhận quốc gia Việt Nam có chủ quyền, có quân đội và ngoại giao riêng. Ngày 13-4-1949, theo nghị định quốc pḥng, Vệ Binh Quốc Gia được thành lập – tiền thân của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.

Ba tiểu đoàn bộ binh đầu tiên – BVN 18, 2, 3 – ra đời ngày 1-10-1949. Các lực lượng quân sự địa phương như Cộng Ḥa Vệ Binh ở Nam, Bảo Vệ Quân (sau là Việt Binh Đoàn) ở Trung, Bảo Chính Đoàn ở Bắc… lần lượt được thuyên chuyển, sáp nhập. Đến cuối năm 1949, quân số Quân Đội Quốc Gia đă lên 45.000 người – con số c̣n khiêm tốn nhưng mang ư nghĩa: lần đầu tiên sau gần trăm năm, người Việt bắt đầu có lại một đạo quân đứng tên ḿnh.
Từ Quân Đội Quốc Gia đến Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
Bước sang thập niên 1950, trước áp lực chiến trường ngày càng lớn, chính phủ quốc gia phải gấp rút xây dựng quân đội. Ngày 11-5-1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập Quân Đội Quốc Gia với lập trường chống cộng rơ rệt, nâng quân số lên 60.000 người. Viện trợ Mỹ bắt đầu chảy thẳng vào các đơn vị Việt Nam theo chương tŕnh MDAP, không c̣n đi ṿng qua tay Pháp. Các quân trường lớn lần lượt mọc lên: Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, Sĩ Quan Thủ Đức, Sĩ Quan Nam Định; những trung tâm tân binh như Quang Trung, Phú Bài, Quảng Yên bắt đầu nuốt vào hàng ngàn thanh niên mỗi đợt.

Từ năm 1951, Bộ Quốc Pḥng và Bộ Tổng Tham Mưu chính thức thành h́nh; lệnh tổng động viên được ban hành, nâng quân số lên 110.000 người, rồi 148.000 người vào cuối 1952. Sáu binh đoàn cơ động, các binh chủng Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh… lần lượt ra đời. Dù vẫn nằm trong khung liên hiệp Pháp, một cấu trúc quân lực Việt Nam đă được dựng lên, với sĩ quan Việt chỉ huy đơn vị Việt, nắm quyền điều động trên chính quê hương ḿnh.

Sau hiệp định Genève 1954, các đơn vị phía Bắc vĩ tuyến 17 di chuyển vào Nam, cùng với hàng trăm ngàn người di cư. Lực lượng vũ trang giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên được sáp nhập hoặc giải giới, tạo nên một quân lực thống nhất. Và ngày 26-10-1955, khi nền Đệ Nhất Cộng Ḥa chính thức khai sinh với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, Quân Đội Quốc Gia được đổi tên thành Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – đạo quân của một nước Việt Nam Cộng Ḥa độc lập, có lănh thổ, có hiến pháp, có chính nghĩa chống lại cuộc xâm lăng từ miền Bắc cộng sản.
Hiện đại hóa và “Việt hóa cuộc chiến”
Từ đầu thập niên 1960, chiến tranh bước sang một trang mới. Miền Bắc xua từng trung đoàn, rồi sư đoàn chính quy vượt đường ṃn Hồ Chí Minh, mang theo chiến xa, đại pháo, pḥng không. Trước t́nh h́nh đó, QLVNCH buộc phải hiện đại hóa. Viện trợ Mỹ đổ vào ồ ạt: vũ khí cá nhân M16, trung liên M60, chiến xa M41, M48, thiết vận xa M113, pháo 105 ly, 155 ly, 175 ly, máy truyền tin, radar… Cùng với đó là hàng loạt sĩ quan được gửi sang Mỹ, Thái Lan, Philippines tu nghiệp.

Khi phong trào phản chiến dâng cao ở Mỹ, chính quyền Nixon chủ trương rút quân, nhưng không thể rời Đông Dương trong tư thế của kẻ thua trận. Từ đó, chiến lược “Việt hóa chiến tranh” ra đời: từng bước trao lại trách nhiệm chiến trường cho QLVNCH, trong khi quân Mỹ rút dần. Thay v́ nói “bỏ Mỹ hóa”, người ta gọi là “Việt hóa” – vừa giữ được thể diện, vừa đẩy gánh nặng xương máu về phía người lính miền Nam.

Trong khuôn khổ chương tŕnh CRIMP, đến năm 1972, Mỹ đă chuyển giao cho QLVNCH hơn 800.000 vũ khí cá nhân, khoảng 2.000 chiến xa và đại bác, 44.000 máy truyền tin, cùng hàng trăm phi cơ, chiến hạm. Quân số dưới cờ tăng từ 700.000 lên hơn một triệu. Về mặt thiết bị, QLVNCH trở thành một trong những đạo quân được trang bị tối tân nhất Đông Nam Á – nhưng phải gánh trên vai cả một cuộc chiến mà siêu cường muốn thoát ra.
Ba quân chủng: Hải – Lục – Không và những bóng áo trận
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa được tổ chức thành ba quân chủng: Lục Quân, Không Quân và Hải Quân. Lục Quân là ṇng cốt, với khoảng 450.000 quân, 13 sư đoàn bộ binh, hai sư đoàn tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến), 45 tiểu đoàn Biệt Động Quân, 58 tiểu đoàn Pháo Binh, 19 thiết đoàn Kỵ Binh, cùng lực lượng Địa Phương Quân – Nghĩa Quân hơn nửa triệu người giữ an ninh thôn ấp.

Binh chủng Thiết Giáp, xuất thân từ những chiến xa M24 Chaffee nhỏ bé, dần phát triển với M41, rồi M48, cùng các M113 gắn thêm hỏa lực biến thành “thiết xa chiến đấu”. Những trận đụng độ xe tăng từ Hạ Lào 1971 đến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 đă ghi lại nhiều chiến công: có trận M41 của ta hạ T54 và PT76 của đối phương mà không mất một chiếc nào. Pháo Binh, từ những pháo đội biệt lập, lớn mạnh thành 58 tiểu đoàn, là “thần hộ mệnh” của bao đồn bót giữa rừng sâu biên giới – dù về cuối cuộc chiến, hỏa lực bị bóp nghẹt bởi thiếu đạn và tầm bắn kém hơn pháo 130 ly của đối phương.

Không Quân, ra đời năm 1951, lớn lên từ Nha Trang – “cái nôi” với những chiếc Morane “bà già” cũ kỹ. Đến cao điểm chiến tranh, Không Lực Việt Nam có khoảng 1.860 phi cơ và trực thăng, 6 sư đoàn Không Quân chiến thuật, những phi đoàn A-1, A-37, F-5, C-130, UH-1… từng ngày bay che chở các cánh quân dưới đất. Hải Quân, từ những liên đoàn tuần giang nhỏ bé, lớn dần thành một lực lượng gần 43.000 quân với khoảng 1.600 chiến hạm, chiến đỉnh, chia thành hạm đội ngoài khơi, các vùng duyên hải, vùng sông ng̣i, kiểm soát từ vĩ tuyến 17 đến vịnh Thái Lan, bảo vệ các tuyến vận chuyển trên sông, biển.

Bên cạnh những bóng áo trận là Đoàn Nữ Quân Nhân – “những đóa hoa nở trên đầu súng”. Từ Sở Xă Hội 1952, các Nữ Trợ Tá, Nữ Quân Nhân đă có mặt khắp nơi: văn pḥng, quân y viện, trại gia binh, cả trên bầu trời với những toán nữ nhảy dù biểu diễn. Họ không trực tiếp cầm súng ngoài tuyến đầu, nhưng góp phần không nhỏ để bộ máy quân đội vận hành, để người lính yên tâm chiến đấu.
Di sản của một quân lực bị bức tử
Tháng 4-1975, cùng với sự sụp đổ của miền Nam, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bị bức tử trong hỗn loạn. Súng im, cờ hạ, hàng trăm ngàn quân nhân vào trại “học tập cải tạo”, hàng triệu gia đ́nh tan tác trên đường vượt biển, vượt biên. Trên giấy tờ, đạo quân ấy không c̣n. Nhưng trong kư ức của nhiều thế hệ, QLVNCH vẫn là h́nh ảnh của những chàng trai trẻ đă bỏ dở tuổi hoa niên, khoác áo trận để chặn một làn sóng đỏ đang tràn xuống quê hương.

Không chỉ chiến đấu, QLVNCH c̣n để lại dấu ấn xây dựng: những cây cầu, con đường, phi trường, hải cảng, trường huấn luyện… do Công Binh, Quân Công Xưởng dựng lên đă góp phần đưa miền Nam từ một thuộc địa nghèo nàn thành một xă hội năng động bậc nhất Đông Nam Á thời bấy giờ. Từ một đội quân phụ thuộc viễn chinh Pháp, quân lực ấy đă đứng ngang hàng với những quân đội hiện đại trong khu vực, dù cuối cùng bị bỏ rơi và trói tay trên bàn đàm phán.

Hôm nay, những người lính QLVNCH lưu lạc khắp năm châu, không c̣n cầm súng ở tuyến đầu, nhưng cuộc chiến của họ chưa bao giờ thật sự chấm dứt. Nó tiếp tục trên mặt trận văn hóa, chính trị, kư ức: bảo vệ sự thật lịch sử, chống lại sự bôi nhọ, xuyên tạc; giữ cho h́nh ảnh người lính miền Nam không bị chôn vùi dưới lớp bụi tuyên truyền. Đối với họ, nhắc lại lịch sử Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không phải là hoài niệm “vang bóng một thời”, mà là cách nhắc ḿnh về bổn phận với quê hương – bổn phận không bao giờ được phép dứt, cho đến ngày đất nước thật sự có tự do và người Việt thôi phải cúi đầu trước bất cứ bạo quyền nào.