Theo sách “Đại Việt sử kư toàn thư” th́ từ khoa thi đầu tiên năm 1075 thời Lư đến khoa thi năm 1736 thời hậu Lê, nước ta có 55 vị trạng nguyên, trong đó có 4 vị là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”, trong đó có Nguyễn Nghiêu Tư.
Nguyễn Nghiêu Tư – vị Trạng nguyên nổi danh là “Trạng Lợn” – là một trong những trí thức xuất chúng của nước Đại Việt thời Lê, người đă khiến cả triều đ́nh nhà Minh phải nghiêng ḿnh nể phục bởi tài ứng đối, trí tuệ sắc bén và ḷng tự tôn dân tộc sâu sắc. Ông không chỉ là một nhà ngoại giao tài ba, mà c̣n là biểu tượng cho trí tuệ Việt Nam trong thời kỳ Nho học rực rỡ, được phong tặng danh hiệu “Lưỡng quốc Trạng nguyên”, hiếm hoi trong lịch sử.
Theo sử sách, khi được cử đi sứ sang Yên Kinh, Nguyễn Nghiêu Tư nhanh chóng trở thành đề tài thử thách của vua và triều thần nhà Minh. Vua Minh vốn nổi tiếng kiêu ngạo, xem thường sứ thần các nước phiên thuộc, bèn lập mưu thử tài. Nhà vua sai người trang hoàng điện ngự lộng lẫy, treo tấm hoành phi đề hai chữ “Kính thiên” và bày đôi sập thất bảo cao quư — vốn chỉ dành cho thiên tử — để xem sứ thần Đại Việt có dám ngồi hay không. Khi được mời vào yến tiệc, Nguyễn Nghiêu Tư cùng phó sứ thản nhiên ngồi lên sập.
Lập tức, quan nhà Minh quát hỏi:— Cớ sao sứ thần dám vô lễ như thế, không biết đây là chỗ nào sao?
Nguyễn Nghiêu Tư b́nh tĩnh đáp:— Dám thưa, biển kia đề rơ “Kính nhị nhân”, tức là “kính hai người”. Thế hẳn thiên triều muốn lấy ngôi quư này mà hậu đăi sứ thần nước xa, sao lại cho là vô lễ? Vả chăng, cổ nhân dạy: “Đăi người phương xa, cốt lấy ḷng thành thực.” Nếu triều đ́nh lấy mưu thuật làm oai, e người ngoài nghe tiếng mà nghi ḷng thành tín của thiên triều chăng?
Câu nói ấy khiến viên quan nhà Minh sững người, vội vàng cúi đầu nhận lỗi và thừa nhận: “Quả thật quư quốc có bậc nhân tài xuất chúng, thông minh đến độ biết rơ ư người chưa thốt ra.” Vua Minh nghe tấu lại càng thêm nể phục, từ đó không dám xem thường sứ thần Đại Việt.
Không chỉ giỏi ứng đối, Nguyễn Nghiêu Tư c̣n nổi tiếng với tài trí tuyệt vời trong việc “đấu trí” với sứ Trung Hoa. Một lần, sứ giả nhà Minh đến Thăng Long xin mở hội đánh cờ để thử tài vua Lê. Lo ngại đây là cuộc đấu vừa mang tính chính trị vừa là phép thử quốc thể, vua Lê triệu Nguyễn Nghiêu Tư đến hỏi kế. Trạng b́nh tĩnh thưa: “Xin bệ hạ cứ nhận lời. Hạ thần xin dâng người cao cờ.”
Đến ngày thi đấu, theo lời Trạng, bàn cờ được bày giữa sân rồng. Trạng sai người khoan thủng lọng, cho Thị lang họ Nguyễn đứng che lọng cho vua, rồi dặn: “Khi nắng rọi chỗ nào, ngài cứ đi quân vào chỗ ấy.” Nhờ thế, mỗi nước cờ vua Lê đều được chỉ dẫn khéo léo, khiến sứ thần nhà Minh bị dồn thế, không đường gỡ, cuối cùng phải chịu thua. Trận thắng ấy không chỉ là một ván cờ, mà là biểu tượng của trí tuệ Việt Nam trước cường quốc phương Bắc.
Thua keo này, sứ nhà Minh lại bày mẹo khác. Hắn cho tiện một khúc gỗ, bào nhẵn, gốc ngọn như nhau, rồi sơn đen toàn thân, đề ba chữ trắng “Hồ bất thực” (cáo chẳng ăn) và hỏi quần thần Đại Việt đoán đó là gỗ ǵ. Không ai hiểu được. Trạng Nghiêu Tư cười đáp ngay:— “Hồ bất thực” là cáo chẳng ăn. Cáo chẳng ăn th́ cáo đói, cáo đói th́ cáo gầy, mà “cáo gầy” chính là… cây gạo!
Khi sứ thần chẻ ra, quả nhiên là gỗ gạo thật. Cả triều Minh đều sững sờ, sứ giả mồ hôi tuôn như tắm, phải thốt lên: “Người nước Nam tài trí như vậy, há có thể dùng mưu mẹo mà đấu được sao!”
Không chỉ trong những cuộc ứng đối, Nguyễn Nghiêu Tư c̣n khiến triều đ́nh nhà Minh kinh ngạc với năng lực “thiên văn kỳ diệu” của ḿnh. Khi ông sang Trung Hoa, gặp năm trời đại hạn, vua Minh nảy ư muốn thử tài “cầu mưa” của vị sứ thần nước Việt. Trạng Nghiêu Tư nhận lời, xin lập đàn trang nghiêm. Khi làm lễ, ông vừa khấn vừa nói những câu nghe lạ tai:“Hường binh, ḥa binh, tam tinh, kẹo tinh, bát tinh, linh tinh tinh...”Nhà vua nghe qua tưởng là những lời chú huyền bí, nói về các v́ tinh tú trên trời, liền kinh sợ mà thành tâm khấn theo. Không ngờ, khi buổi lễ vừa xong, trời đổ mưa như trút nước. Dân chúng vui mừng, vua Minh cảm phục, khen rằng “sứ thần Đại Việt thực là người thông tường thiên đạo”. Thực ra, Trạng chỉ khéo dùng cách nói lái – một nét tinh nghịch trí tuệ – khiến mọi người ngỡ là phép thần thông.
Khi trở về nước, Nguyễn Nghiêu Tư được vua Lê phong tặng danh hiệu “Thượng quốc công Trạng nguyên”, ghi nhận công lao to lớn trong việc ǵn giữ quốc thể. Dân gian tŕu mến gọi ông là “Trạng Lợn”, không phải để chê, mà để ca ngợi tính chất hóm hỉnh, thông minh, luôn ứng đối bằng trí và bằng cười của một bậc kỳ tài. Ông là người học rộng, uyên thâm, dùng trí tuệ mềm mại để hóa giải hiểm nguy, giữ ǵn danh dự quốc gia.
Theo Đại Việt sử kư toàn thư, từ khoa thi đầu tiên năm 1075 đến khoa thi cuối cùng năm 1736, nước ta chỉ có 55 vị trạng nguyên, trong đó chỉ có bốn người được tôn là “Lưỡng quốc Trạng nguyên” – được cả triều đ́nh Trung Hoa phong Trạng nguyên, đó là: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trực, Nguyễn Nghiêu Tư và Nguyễn Đăng Đạo. Điều ấy chứng tỏ trí tuệ Việt Nam không chỉ khiến người phương Bắc kính trọng mà c̣n được thừa nhận ở tầm quốc tế ngay từ thời phong kiến.
Nh́n lại, Nguyễn Nghiêu Tư không chỉ là một cá nhân kiệt xuất, mà c̣n là biểu tượng cho truyền thống ngoại giao mềm dẻo mà kiên cường của dân tộc Việt Nam. Trong bang giao, ông khiêm tốn mà sắc sảo; trong ứng xử, ông thâm thúy mà thẳng thắn; trong mọi hoàn cảnh, ông đều đặt quốc thể và ḷng tự tôn dân tộc lên hàng đầu.
Vietbf @ Sưu tầm