Một thanh niên trẻ có tên Dư sau khi ăn trộm 2 triệu đồng khoảng 100USD đã bị tra tấn tới chết trong đồn côn an. Vụ việc đã làm dấy lên dư luận nghi ngờ nhân quyền của Việt Nam trước thềm nước này chuẩn bị gia nhập TPP đầy đủ. Các báo chí Việt Cộng đã im bặt một thời gian bỗng phao tin thất thiệt.
Cho đến giờ, tất cả các báo viết về vụ án Đỗ Đăng Dư đều giống hệt nhau: Đỗ Đăng Dư chết vì bạn tù đánh! Câu chuyện Đỗ Đăng Dư xem như hạ màn (!) và công an Hà Nội giờ đẩy dư luận theo hướng “khẩn trương điều tra một cách khách quan để kết luận chính xác nhất về vụ việc, xử lý nghiêm đối với hành vi “Cố ý gây thương tích” của Vũ Văn Bình” (người bị qui kết đánh chết Đỗ Đăng Dư).
Vấn đề không phải chỗ đó và không chỉ chỗ đó. Vấn đề là công an đã nhổ vào mặt hệ thống pháp luật như thế nào. Công an đã thách thức toàn bộ giá trị pháp chế “nhà nước XHCN” như thế nào.
Và công an chà đạp như thế nào giá trị nhân bản của “nhà nước pháp quyền” trong đó “công lý, công bằng dựa trên sự công nhận và tiếp nhận hoàn toàn giá trị tối thượng của nhân cách con người, được bảo đảm bởi các thể chế làm khuôn khổ của trật tự tự do, dân chủ và quyền con người, an toàn cho các công dân” (Tạp chí Cộng sản 16-10-2014)…
Vụ Đỗ Đăng Dư, được báo Tuổi Trẻ (11-10-2015), tường thuật như sau:
“Vụ việc xảy ra vào sáng 5-8-2015. Vào ngày này, công an huyện Chương Mỹ bắt quả tang Đỗ Đăng Dư có hành vi “trộm cắp tài sản” đối với một người hàng xóm. Quá trình điều tra, Dư khai nhận ngoài vụ trộm cắp tài sản này, từ cuối năm 2014 đến thời điểm bị bắt, Dư đã gây ra 4 vụ trộm cắp khác. Bản thân Dư cũng nghiện game, thường xuyên bỏ nhà đi chơi, gia đình không quản lý được và đã kiến nghị cơ quan chức năng có biện pháp ngăn chặn đối với Dư.
Từ các căn cứ trên, cơ quan cảnh sát điều tra, công an huyện Chương Mỹ đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Dư để điều tra vụ án và phòng ngừa chung. Ngày 7-8, cơ quan điều tra đã tống đạt quyết định khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam 2 tháng đối với Dư. Các quyết định này đã được viện KSND huyện Chương Mỹ phê chuẩn”.
…
Ở đây, bằng việc “điều tra cả trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ tại trại tạm giam vì để can phạm đánh lẫn nhau mà không kịp thời phát hiện, dẫn đến hậu quả đáng tiếc” (Tiền Phong 11-10-2015) là có thể xoa tay phủi đi cái mấu chốt vấn đề: công an Hà Nội đã hoàn toàn sai ra sao khi tạm giam Đỗ Đăng Dư, một thiếu niên 17 tuổi “hư hỏng” can tội trộm vặt?
Theo Đ.303, khoản 2 – BLTTHS (Bộ luật tố tụng hình sự): “Người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”. Với số tiền trộm 2 triệu đồng, có thể đưa Đỗ Đăng Dư vào nhóm tội phạm “nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”?
Ngoài ra, theo TTLT số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2001 HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN, thì:
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối tượng phạm tội vị thành niên phải tuân thủ theo các điều: Đ.91 - Cấm đi khỏi nơi cư trú; Đ.92 - Bảo lãnh; hoặc Đ.93 - Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Nói cách khác, công an không nhất thiết phải bắt tạm giam một trường hợp vị thành niên phạm tội nhẹ như Đỗ Đăng Dư.
Còn nữa, như những gì các báo chính thống viết, không có bất kỳ thông tin nào cho thấy trong quá trình điều tra một đối tượng vị thành niên như Đỗ Đăng Dư, có sự tham gia của luật sư hoặc người đại diện pháp luật (cha hoặc mẹ). Mà chiếu TTLT số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH, việc tham gia tố tụng của người bào chữa theo quy định tại Khoản 2 Điều 57, Điều 58 và Điều 305 BLTTHS, thì:
1. BắT BUộC phải có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Mọi trường hợp không có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên là VI PHạM NGHIÊM TRọNG THủ TụC Tố TụNG, trừ trường hợp họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa. Người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
2. Khi giao quyết định tạm giữ hoặc quyết định khởi tố bị can, cơ quan ra quyết định phải thông báo cho người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ về quyền có người bào chữa.
3. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể lựa chọn người bào chữa theo quy định của pháp luật hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
4. Trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa, trừ trường hợp người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối.
5. Trường hợp bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa thì phải lập biên bản lưu trong hồ sơ vụ án.
6. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền tiếp xúc, gặp gỡ với bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo quy định của pháp luật.
Chưa hết, theo TTLT 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2001 HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN, thì:
Điều 5. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra, cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện đúng nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 69 BLHS (Bộ luật hình sự). Đặc biệt cần xem xét việc miễn trách nhiệm hình sự nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 69-Khoản 2 BLHS, giao họ cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức giám sát, giáo dục nhằm giúp họ tự sửa chữa lỗi lầm và tái hòa nhập cộng đồng.
Mà Điều 69 Khoản 2 BLHS quy định: Người chưa thành niên phạm tội có thể được MIễN TRÁCH NHIệM HÌNH Sự, nếu người đó phạm tội ÍT NGHIÊM TRọNG hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, CÓ NHIềU TÌNH TIếT GIảM NHẹ VÀ ĐƯợC GIA ĐÌNH HOặC CƠ QUAN, Tổ CHứC NHậN GIÁM SÁT, GIÁO DụC.
…
Chiếu theo những điều luật nằm trong hệ thống pháp quyền nhà nước VN nói trên thì Đỗ Đăng Dư không chỉ không nên bị bắt tạm giam mà còn có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, kết cục sự việc đã vượt quá xa những gì mà ông Hồ Chí Minh từng nói, bởi sự vi phạm của chính những người thừa hành pháp luật: “Một xã hội có trật tự kỷ cương, một nhà nước mạnh, có hiệu lực nhất thiết không để một giờ, một phút thiếu pháp luật, coi thường pháp luật” (Trang thông tin điện tử Hồ Chí Minh). “Một phút thiếu pháp luật” đó, hậu quả cuối cùng, không chỉ dẫn đến cái chết của Đỗ Đăng Dư mà nó còn như một cú đấm nện thẳng vào mặt hệ thống pháp chế quốc gia. Nó là một thách thức đầy ngạo mạn giữa hành pháp và lập pháp. Nó thể hiện một thái độ kiêu căng “quyền” trong “pháp” chứ không phải “pháp” định chế “quyền” và “quyền” phải tuân thủ và phải luôn trong khuôn khổ của “pháp”.
….
TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH (Thông tư liên tịch; Viện kiểm sát tối cao; Tòa án nhân dân tối cao; Bộ công an; Bộ tư pháp; Bộ lao động thương binh xã hội)
….
Bài viết được sự hỗ trợ pháp lý của luật sư Võ Phước Hoàng (Hoàng Võ Phước). Chân thành cám ơn luật sư.
------------
Vụ em Đỗ Đăng Dư
Nhiều khả năng Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an huyện Chương Mỹ đã phạm tội hình sự.
Thứ nhất: Em Dư lấy trộm 1,5 triệu là chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. Vì căn cứ theo Điều 138 Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản, tài sản trộm cắp phải có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mới bị xử lý hình sự. Do vậy với số tiền chỉ là 1,5 triệu thì việc tạm giữ hình sự để khởi đầu cho việc xử lý hình sự em Dư là trái pháp luật.
Tại sao lại có vi phạm đơn giản như vậy? Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định rõ tại Điều 86 về tạm giữ hình sự, theo đó tạm giữ phải có quyết định của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra công an huyện và phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp xin phê chuẩn.
Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Do vậy khi thấy số tiền trộm cắp chỉ là 1,5 triệu chưa đến mức xử lý hình sự thì ngay Trưởng công an xã là người có kiến thức phải biết hành vi của em không phải là tội phạm nên chỉ cần lập biên bản lại để xử lý hành chính và tha cho em. Chẳng lẽ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng công an huyện mà lại không biết, lại ra quyết định tạm giữ để khơi mào xử lý hình sự. Như thế là trái pháp luật.
Do vậy tôi cho rằng việc đầu tiên là việc tạm giữ hình sự em Dư là trái pháp luật.
Thứ hai: Ngoài việc ra quyết định tạm giữ hình sự trái pháp luật, tại sao lại xử lý hình sự với hành vi trộm cắp chỉ 1,5 triệu chưa đến mức 2 triệu?
Có khả năng trong khi bị tạm giữ hình sự trong quá trình khai báo em Dư đã khai ra 4 vụ trộm cắp khác và giá trị tài sản lớn hơn 2 triệu nên đủ mức xử lý hình sự. Nhưng liệu việc áp dụng biện pháp bắt tạm giam em có đúng luật hay trái luật?
Căn cứ theo điều 303 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thủ tục tố tụng hình sự xử lý người chưa thành niên, thì trẻ vị thành niên chỉ bị bắt giam nếu có phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Theo Điều 138 về tội trộm cắp tài sản thì em Dư phải trộm cắp tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên mới là phạm tội nghiêm trọng và bị áp dụng biện pháp tạm giam. Còn nếu em chỉ trộm cắp vặt giá trị tài sản chỉ vài trăm nghìn hoặc một vài triệu, giá trị không đến 50 triệu thì không được bắt tạm giam em.
Như vậy nếu làm rõ được giá trị tài sản trộm cắp chưa đến 50 triệu đồng mà vẫn áp dụng biện pháp bắt giam em Dư sẽ là trái pháp luật.
Tóm lại: Tôi cho rằng rất có khả năng Cán bộ điều tra của công an Huyện Chương Mỹ và Viện kiểm sát huyện Chương Mỹ đã có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hình sự, có khả năng đã vi phạm pháp luật hình sự và phạm vào tội ra quyết định trái pháp luật theo Điều 296 Bộ luật hình sự.
Điều 296. Tội ra quyết định trái pháp luật
1. Người nào có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
Việc Thủ trưởng hay Phó thủ trưởng cơ quan điều tra ra Quyết định tạm giữ hình sự, Quyết định tạm giam em Dư nhiều khả năng đã phạm vào tội ra quyết định trái pháp luật nêu trên.
Đi sâu vào vụ án có thể còn có những vi phạm khác nữa, việc điều tra các sai phạm này thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cụ thể trích từ một bài báo như sau:
Ngày 6-8-2015, tin từ lãnh đạo VKSND Tối cao cho biết, sáng cùng ngày VKSND Tối cao đã tổ chức lễ ra mắt Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp (Vụ 6). Ông Nguyễn Việt Hùng được lãnh đạo VKSND Tối cao bổ nhiệm giữ chức Vụ trưởng Vụ 6.
Như vậy Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được lập thêm cơ quan chuyên sâu chuyên xử lý các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, tức là những tội phạm do các cán bộ tư pháp gây ra. Do vậy gia đình em Dư và các luật sư cần làm đơn trình báo tới vụ 6 Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu trên.
Cuối cùng: Việc bắt giam em thiếu cơ sở xác đáng và đặt tính mạng sức khỏe của em vào môi trường giam giữ không an toàn cho thấy nền tư pháp hình sự hiện tại vô cùng nghiệt ngã và nặng nề bạo quyền.
Việc em Dư phải khai ra 4 vụ trộm cắp tôi tin chắc cũng do bị đánh đập, điều này đặt ra đòi hỏi phải có quy định về quyền im lặng, việc lấy lời khai phải có luật sư tham gia, trong phòng giam giữ và phòng hỏi cung phải lắp camera ghi âm ghi hình.
Nếu không thực hiện những việc này thì tội ác do cán bộ công quyền gây ra (vô tình hay cố ý) cho con người sẽ vẫn còn tiếp diễn.
Cái chết bất thường của Đỗ Đăng Dư, 17 tuổi, sau hai tháng bị tạm giam, làm dấy lên nhiều băn khoăn của dư luận về việc thi hành luật pháp Việt Nam. Những lo ngại này xoay quanh chế độ giam giữ, xử lý vi phạm ở trẻ vị thành niên, cũng như nỗi lo sợ về nguy cơ hành pháp lạm quyền, dẫn đến rủi ro quá lớn cho công dân Việt Nam khi bước chân vào trụ sở cơ quan điều tra. Bài viết dưới đây sẽ giải đáp phần nào những thắc mắc như vậy.
1. Hình thức xử lý của pháp luật Việt Nam đối với tội trộm cắp tài sản là gì?
Theo Khoản 1, Điều 138 Bộ luật Hình sự (năm 1999, sửa đổi năm 2009), có 4 trường hợp:
– người trộm cắp tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
– người trộm cắp tài sản dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng;
– người trộm cắp tài sản đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt;
– người trộm cắp tài sản đã từng bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
Với 4 trường hợp này, người phạm tội trộm cắp tài sản bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm – tức tội phạm ít nghiêm trọng (căn cứ Điều 8 Bộ luật Hình sự, quy định về khung hình phạt).
Chúng tôi cho rằng Đỗ Đăng Dư rơi vào trường hợp đầu tiên. (Theo xác nhận của bà Đỗ Thị Mai, mẹ của Dư, vào ngày 11/10 khi trao đổi với luật sư Trần Thu Nam, thì Dư ăn trộm 2 triệu đồng của hàng xóm, cơ quan công an đã lập biên bản và thông báo cho gia đình con số đó).
2. Trong quá trình cơ quan chức năng tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án, Dư có thể bị tạm giam, tạm giữ không?
Đỗ Đăng Dư sinh năm 1998, năm nay 17 tuổi.
Theo Khoản 2, Điều 303 Bộ luật Tố tụng Hình sự, người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam (nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật Tố tụng Hình sự), nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Do hành vi của Dư là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, rõ ràng không đủ căn cứ để thực hiện các biện pháp ngăn chặn nói trên.
3. Thủ tục bắt giữ, tạm giữ hình sự hoặc tạm giam được quy định ra sao?
Về mặt thủ tục bắt giữ thông thường, ngoài việc các lệnh phải được ban hành đúng thủ tục, trình tự và thẩm quyền theo quy định tại Điều 80 và 81 Bộ luật Tố tụng Hình sự, cơ quan điều tra khi tiến hành thủ tục còn cần sự có mặt của chính quyền địa phương, hàng xóm láng giềng; phải giải thích quyền, nghĩa vụ người bị bắt và phải lập biên bản việc bắt giữ.
Căn cứ Khoản 2, Điều 48 Bộ luật Tố tụng Hình sự, người bị tạm giữ có quyền:
a) Được biết lý do mình bị tạm giữ;
b) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c) Trình bày lời khai;
d) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
e) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
f) Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Thêm vào đó, theo Khoản 3, Điều 303, Bộ luật Tố tụng Hình sự, “cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam”. Trong trường hợp Đỗ Đăng Dư, có dấu hiệu gia đình Dư đã không được thông báo đầy đủ, rõ ràng về tình trạng của Dư trong suốt hai tháng.
Tuy nhiên, các vấn đề pháp lý đặt ra nêu trên chỉ phù hợp nếu Dư thuộc trường hợp mà cơ quan điều tra được quyền thực hiện biện pháp tạm giữ, tạm giam.
4. Các sai phạm (nếu có) của cơ quan điều tra trong trường hợp này là gì?
Thứ nhất, nếu cơ quan điều tra giam giữ Đỗ Đăng Dư theo lệnh bắt giữ, lệnh tạm giam, thì người ký các lệnh này có dấu hiện phạm tội “ra quyết định trái pháp luật” (Điều 296, Bộ luật Hình sự).
Nếu cơ quan điều tra giam giữ em Dư không có lệnh bắt, lệnh tạm giữ, lệnh tạm giam hoặc có nhưng không đúng trình tự, thủ tục hay thẩm quyền, thì họ có dấu hiệu phạm tội “bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, theo Khoản 2 của điều luật này, còn có một số tình tiết tăng nặng, như: Bên bắt lợi dụng chức vụ, quyền hạn; có tổ chức.
Thứ hai, Dư bị đánh dẫn đến chết trong quá trình bị tạm giam (theo chẩn đoán của cơ quan y tế một ngày trước khi Dư chết, thì Dư bị phù não, sưng gáy, tím thái dương, chứng tỏ đã bị đánh). Như vậy, tồn tại khả năng cơ quan quản lý trại giam không làm tròn trách nhiệm, phạm tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 285 Bộ luật Hình sự).
Còn người hành hung, dẫn đến cái chết của Dư, có dấu hiệu phạm tội giết người hoặc cố ý gây thương tích. Nhưng nếu người đó lại chính là… cơ quan điều tra, thì khi ấy, điều tra viên thực hiện hành vi hoàn toàn có khả năng bị truy tố với tội danh cố ý gây thương tích hoặc giết người. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý hình sự Việt Nam ưa thích dùng tội danh “dùng nhục hình”, “bức cung” (Điều 298-299 Bộ luật Hình sự) cho các đối tượng này.
(Độc giả có thể thấy sự phân biệt đối xử giữa cơ quan chức năng và người dân, theo hướng có lợi cho bên thi hành công vụ: Cùng gây hậu quả chết người, nhưng lực lượng thi hành công vụ lại hiếm khi bị xử lý vì các tội danh xâm phạm tính mạng hay sức khỏe).
5. Luật pháp Việt Nam quy định ra sao về quá trình khám nghiệm tử thi?
Theo Điều 151, Bộ luật Tố tụng Hình sự, “việc khám nghiệm tử thi do điều tra viên tiến hành có bác sĩ pháp y tham gia và phải có người chứng kiến”. Luật không quy định ai là người có đủ tư cách làm người chứng kiến.
6. Làm thế nào để quá trình khám nghiệm tử thi được khách quan?
Nguyên tắc chung của luật pháp là để đảm bảo tính khách quan trong bất cứ việc gì, cá nhân/ tổ chức thực hiện việc đó phải độc lập, không có quyền lợi liên quan.
Ở Việt Nam lâu nay, việc giám định, khám nghiệm v.v. thường do Viện Khoa học Hình sự (thuộc Bộ Công an), hoặc cơ quan pháp y quân đội, tiến hành. Chúng tôi cho rằng điều đó không đảm bảo khách quan, đặc biệt là trong các vụ việc mà chính cơ quan công an hay quân đội là đối tượng bị tình nghi phạm pháp.
7. Trong trường hợp chính cơ quan công an vi phạm thủ tục điều tra, tố tụng, thì cơ chế nào xử lý điều ấy?
Tại một số quốc gia như Hoa Kỳ hay Anh quốc, khi cảnh sát bị tình nghi giết người, sẽ có các ủy ban tư pháp độc lập và/hoặc các tổ chức dân sự khác giám sát hoạt động của cảnh sát tiến hành điều tra để làm sáng tỏ sự thật.
Ngoài ra, và quan trọng nhất, hệ thống tư pháp phải độc lập khỏi hành pháp và lập pháp. Báo chí – quyền lực thứ tư – cũng độc lập, thậm chí còn có thể tiến hành các hoạt động điều tra riêng biệt. Điều này giúp hạn chế sự lạm quyền của một số cơ quan công quyền nhằm bảo vệ các cá nhân vi phạm.
Thêm vào đó, để đảm bảo một nền tư pháp lành mạnh và sự độc lập của các phân đoạn điều tra, cơ quan điều tra thông thường tách biệt về cơ cấu tổ chức với cơ quan thực hành quyền giam giữ nhằm tránh hiện tượng bức cung, nhục hình.
Rõ ràng tại Việt Nam, cho đến nay, chưa có những cơ chế như vậy.
8. Các sai phạm của cơ quan công an trong vụ Đỗ Đăng Dư có vi phạm luật quốc tế về nhân quyền không?
Có. Cơ quan công an có dấu hiệu vi phạm:
– Công ước Quyền Trẻ em (đối tượng là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi), mà Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới ký kết, phê chuẩn (năm 1990).
– Công ước về Các Quyền Dân sự và Chính trị (Việt Nam gia nhập năm 1982).
– Công ước Chống Tra tấn (Việt Nam phê chuẩn năm 2014).
Huyết lệ trào tuôn chẳng sao ngưng
Nỗi đau ray rức chẳng thể ngừng
Bướu độc cộng sản đang tàn phá
Thân xác máu xương mẹ Việt Nam
Công an đánh người chết bạo tàn
Trẻ em mà chúng đánh dã man
Chỉ vì không tiền cúng chúng nó
Trời ơi con giận thấu tâm can .........
Mấy ai thấu hết nổi lòng
Người con nước Việt lạc loài tha hương
Mấy ai hiểu hết đau thương
Những người xa xứ đêm trường nhớ quê
Nơi đây cuộc sống phủ phê
Cơm no áo ấm nhà xe thiếu gì
Tuy rằng chẳng giàu có chi
Nhưng mà cuộc sống còn gì mong hơn
Tương lai con cháu rộng đường
Sống đời dân chủ phố phường tự do
Nếu mà chỉ biết bo bo
Đừng thèm tranh đấu chẳng lo lụy phiền
Mỗi năm bỏ một ít tiền
Ta bay về xứ đoàn viên gia đình
Ăn chơi đón tiếp linh tinh
Beer ôm gái gú khác mặc tình phủ phê
Nhưng sao nước mắt dầm dề
Nhìn sang quê mẹ ủ ê dân tình
Phải chăng vì muốn phú vinh
Phải chăng để được quý tinh bạc vàng
Hay là chỉ được trái ngang
Người thân xa lánh họ hàng tách phân
Chỉ vì họ muốn dấng thân
Lên face tranh đấu cho dân tộc mình
Chống bọn cộng sản bất minh
Để mong quyền sống dân mình tự do
Biết rằng nếu họ vô lo
Cứ sống tận hưởng bo bo phần mình
Thì đâu ai ghét ai kình
Mỗi năm về xứ mặc tình vui chơi. ...
Làm người sống giữa đất trời
Làm sao bỏ được mặt trời quê ta.
Ai nào muốn bỏ đất cha
Chỉ vì cộng sản phá nhà mà thôi
Ngày nay thế cuộc đã rồi
Dân tình cam phận làm mồi hán nô
Khiếp nhược trước đám bưng bô
Trách ai tàn phá cơ đồ Việt nam
Thương con trẻ lạc cơ hàn
Mai này chẳng biết lỡ làng ra sao
Tiếc cho một dãi lụa đào
Lý ,Trần ,Lê ,Nguyễn rơi vào Cộng gian
Giờ đây một đảng làm càn
Nhìn về quê mẹ ngỡ ngàng lệ rơi
Đành thôi chấp nhận tiếng đời
Đành thôi buôn bán không lời vẫn đi
Quyết tâm tranh đấu một khi
Đập tan Việt Cộng chỉ vì cứu dân
Mong xây cơ chế trắng ngần
Liên minh Đại Việt minh phân Cộng Hòa
Đời mình rồi sẽ đi qua
Ngày sau đất tổ lụa là ấm no
Hôm nay nếu mãi bo bo
Ngày mai nước Việt lết bò dưới sân
Ai ơi giọng vẫn còn ngân
Tim vẫn còn đập chung phần giúp nhau
Chung tay dựng một chiếc cầu
Cộng Hòa thật thụ hát câu Thái Bình.