Trong cộng đồng người Do Thái, Moses được tôn vinh là nhà tiên tri vĩ đại nhất với tài năng lỗi lạc đã cứu rỗi hàng ngàn người. Cùng nhìn lại cuộc đời của nhà tiên tri lừng danh này.
Nhiều ý kiến cho rằng, Do Thái là tộc người thông minh xuất chúng nhất trên thế giới. Dân tộc này đã sản sinh ra nhiều thiên tài cho hành tinh, một trong số đó là nhà bác học vĩ đại Albert Einstein - người được biết đến nhiều với Thuyết tương đối.
Và trong cộng đồng người Do Thái, Moses được tôn vinh là nhà tiên tri vĩ đại nhất với tài năng lỗi lạc đã cứu rỗi hàng ngàn người.
1. Thuở thiếu thời đầy sóng gió
Những tư liệu đề cập tới Moses phần lớn là các tác phẩm tôn giáo, trong đó chủ yếu là Kinh Torah. Theo đó, Moses sinh ra ở Ai Cập, vào thời kì người Do Thái bị nền văn minh này đô hộ và bắt làm nô lệ.
Pharaoh đã ra một đạo luật tàn ác, tàn sát tất cả bé trai người Do Thái bằng cách dìm chúng xuống sông Nile. Để cứu con trai mình, sau khi sinh ra Moses, mẹ ông đã đặt ông vào một chiếc nôi, thả trôi theo dòng sông thần thánh.

Bà Jochebed, mẹ của Moses, thả con trai 3 tháng tuổi trôi theo dòng sông Nile
Moses may mắn khi chiếc nôi đã trôi tới chỗ công chúa Thermuthis đang tắm cùng các tì nữ. Bà cho vớt đứa bé lên, nhận làm con nuôi.
Luôn theo sát chiếc nôi của đứa em trai, Miriam - chị gái của Moses, đã tới xin công chúa cho phép trở thành vú nuôi của đứa trẻ. Cái tên Moses cũng là do công chúa Ai Cập đặt, nó có nghĩa là “cứu khỏi nước”.
Khi trưởng thành, Moses nhận thấy đồng bào Do Thái của mình đang sống trong lầm than của kiếp nô lệ. Chứng kiến một quản nô Ai Cập đánh đập người Do Thái, Moses đã giết chết người đó, vùi xác trong cát. Không ngờ, sự việc bại lộ, Moses buộc phải bỏ trốn sang bán đảo Sinai.

Moses bảo vệ 7 cô gái khỏi những kẻ hung hãn
Tại đây, ông đã bênh vực, bảo vệ 7 cô gái chăn cừu khỏi một nhóm mục tử hung hăng. Để cảm ơn Moses, cha của 7 cô gái thiết đãi Moses hậu hĩnh và cho ông chăm sóc bầy chiên. Ông ở đây tới 40 năm liền.
Trở thành lãnh tụ của dân tộc Do Thái
Ở Sinai, Moses đã gặp Thiên Chúa, được Ngài trao cho quyền năng nhìn thấy trước tương lai và giao sứ mệnh dẫn dắt dân tộc mình thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập.
Moses trở lại Ai Cập, với phép thuật to lớn, ông thuyết phục được các trưởng lão Do Thái tin và hành động theo qua những lời tiên tri. Cùng với anh trai Aaron, Moses tới gặp Pharaoh và đòi quyền lợi cho đồng bào mình.
Sau vài lần gặp, Pharaoh đều không đồng ý, lật lọng thậm chí ép người Do Thái lao dịch khổ sai hơn, Moses nổi giận và trừng phạt toàn xứ Ai Cập bằng 10 tai họa trong các lời tiên tri. Đó là dịch ếch nhái, dịch muỗi, ruồi mòng, châu chấu, dịch lệ tiêu diệt hết súc vật, dịch ghẻ, mưa đá, sấm sét…

Moses trừng phạt người Ai Cập bằng 10 tai họa
Tai họa thứ mười là sự trừng phạt cuối cùng và thảm khốc hơn hết khi "hết thảy con trưởng nam trong xứ Ai Cập đều chết, từ thái tử của pharaon ngồi trên ngai mình, cho đến con cả của người tôi đòi ở sau cối xay".
Sự kinh hãi bao trùm đất nước Ai Cập. Sau cùng, họ chịu để dân Israel được tự do. Sự kiện này được kỷ niệm hằng năm trong mỗi gia đình Do Thái khi họ cùng nhau dự Lễ Vượt qua, nhắc nhở rằng tai họa ấy đã "vượt qua" khỏi các gia đình Do Thái, nhưng mang sự chết chóc đến từng nhà người dân Ai Cập.
Đưa cả dân tộc tới miền đất hứa
Rời Ai Cập, Moses lãnh đạo những người nô lệ Do Thái cùng gia súc đi về phía Đông, hướng tới miền đất hứa. Họ đi qua rất nhiều hoang mạc, gặp phải nạn thổ phỉ, đói, khát. Song lần nào, Moses với cây gậy phép cùng sự giúp đỡ từ Chúa trời đều vượt qua, tiếp tục cuộc hành trình dài.
Trên hoang mạc, có lần lương thực cạn kiệt, Moses làm phép cầu khấn đấng bề trên. Chúa trời đã tạo ra manna - một loại bánh giống lương khô trên trời rơi xuống, đồng thời phái chim cút bay tới các lều trại, tạo nguồn thực phẩm cho đoàn người Do Thái.
Khi đến Marah, tất cả gặp phải nguồn nước đắng, không thể uống được, Moses chỉ lấy một thanh gỗ ném xuống nước. Kì lạ thay, nước bỗng trong ra và dùng được ngay.

Khi đi qua Biển Chết, rất nhiều dân chúng bị rắn lửa từ đâu kéo đến cắn chết. Để bảo vệ họ, Moses hóa phép ra một con rắn đồng treo lên cao. Những người dân bị rắn cắn chỉ cần nhìn vào con rắn đồng là mọi bệnh tật bỗng chốc tiêu tan.
Không chỉ vậy, đoàn người Do Thái của Moses còn phải đối mặt với những chiến binh Amalek hung bạo. Khi đó, Moses đã cho tuyển những tráng sĩ từ đồng bào mình, tập hợp lại thành một đội quân ứng chiến. Phần mình, Moses lên trên đỉnh đồi, giơ cao cây gậy phép Chúa ban cho.
Khi ông giơ lên cao, quân Do Thái áp đảo quân địch, khi hạ tay xuống, chiến binh Amalek chiếm thế thượng phong. May sao, nhờ sự giúp đỡ của anh trai Aaron và Hur, một người dân Do Thái, mà Moses đã giương cao gậy phép được cho tới cuối ngày, cũng là lúc quân Do Thái đánh bại quân đội Amalek.
Từ trần
Moses được Chúa cho biết, ông sẽ không được dẫn dắt dân Israel vượt sông Jordan để tiến vào Đất Hứa, nhưng sẽ chết bên bờ đông của dòng sông.
Vì vậy, Moses tập hợp mười hai chi phái và nói với họ những lời sau cùng, thông điệp của ông được chép trong Phục truyền luật lệ ký. Moses tóm tắt Luật pháp, nhắc nhở họ những điều quan trọng nhất.
Ông cũng đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc, tiên báo những thảm họa và sự hủy diệt, cuộc sống triền miên trong đau khổ, khiếp đảm và sỉ nhục nếu họ lìa bỏ Thiên Chúa, "Các ngươi sẽ bị truất khỏi xứ mình... tản lạc trong các dân, từ cuối đầu này của đất đến cuối đầu kia… các ngươi không được an tịnh, bàn chân ngươi không được nghỉ ngơi… nhưng là lòng run sợ, mắt mờ yếu và linh hồn hao mòn… ngày và đêm ngươi hằng sợ hãi, khó liệu bảo tồn mạng sống mình".

Moses được Chúa ban cho cây gậy phép đầy quyền năng và sứ mệnh cao cả
Như vậy, Moses là công cụ đắc dụng trong tay Thiên Chúa để tạo lập dân tộc Israel và ban luật pháp cho họ. Ông được xem "là người khiêm hòa hơn mọi người trên thế gian" và là người được hưởng đặc ân của Thiên Chúa, vì "Về sau, trong Israel không còn dấy lên tiên tri nào giống như Moses được diện kiến Thiên Chúa".
Phương Thảo
GD