Ư tưởng này đă có từ nhiều thế kỷ nay. Nhưng phải một cuộc thi khoa học ở một trường trung học, Tổng thống George W. Bush, những bài học lịch sử và một số nhà nghiên cứu cương quyết để vượt nghi ngờ và trở thành chính sách liên bang.
Cách đây 14 năm, hai bác sĩ làm việc cho chính phủ liên bang, Richard Hatchett và Carter Mecher, gặp một đồng nghiệp ở một tiệm bán burger ở khu ngoại ô thủ đô Washington để kiểm tra lần cuối một đề nghị mà họ biết sẽ bị coi là tṛ đùa: bảo người Mỹ ở nhà không đi làm và đi học khi lần tới đại dịch tấn công.
Khi họ tŕnh bày kế hoạch này không lâu sau đó, dự án của họ đă bị nghi ngờ, và chọc quê bởi các viên chức cao cấp, vốn, như nhiều người khác ở Hoa Kỳ đă quen trông cậy vào kỹ nghệ dược phẩm, với ngày càng có nhiều cách điều trị, để đối phó với những thách thức y khoa ngày càng tiến hóa.
Hai bác sĩ Hatchett và Mecher đă đề nghị là người Mỹ ở một số nơi phải quay trở về một cách mà đầu tiên được sử dụng rộng răi thời Trung Cổ, đó là tự cô lập. Cách nào mà ư tưởng đó –chào đời v́ một yêu cầu của Tổng thống George W. Bush để bảo đảm là quốc gia có chuẩn bị hơn cho một vụ bùng phát đại dịch sắp tới- trở thành tâm điểm của kịch bản quốc gia phản ứng chống lại đại dịch là một trong những câu chuyện chưa được kể về coronavirus.
Nó đ̣i hỏi những yếu tố chủ chốt –Bác sĩ Mecher, một bác sĩ của Bộ Cựu Chiến Binh, và Bác sĩ Hatchett, một bác sĩ ung thư trở thành cố vấn ṭa Bạch ốc –đă vượt được những sự chống đối rất lớn lúc đầu. Nó đem công việc của họ kết hợp lại với một toán của Bộ Quốc Pḥng được trao cho một nhiệm vụ tương tự.
Nó có những bước quẹo bất ngờ, kể cả đào sâu vào lịch sử Cúm Tây Ban Nha năm 2018 và một khám phá khởi sự từ một dự án nghiên cứu khoa học mà một cô con gái của một nhà khoa học ở Pḥng thí nghiệm Quốc gia Sandia đă theo đuổi.
Khái niệm khoảng cách xă hội nay đă trở thành quá quen thuộc với mọi người. Nhưng khi lần đầu tiên được chuyển đi qua hệ thống hành chánh liên bang vào năm 2006 và 2007, nó bị coi như là thiếu thực tế, không cần thiết, và không thể thực hiện được về chính trị.
Bác sĩ Howard Markel giải thích “Có hai chữ giữa ‘shut” và “up” lúc đầu.” Ông nay là giám đốc Trung Tâm về Lịch sử Y khoa của Viện đại học Michigan và cũng đóng một vai trong việc h́nh thành chính sách trong tư cách thành viên của toán nghiên cứu của Ngũ Giác Đài. Ông than “Nó thực sự tàn nhẫn.”
Bác sĩ Mecher đă có mặt ở đó khi Bác sĩ Hatchett tŕnh bày cho các chuyên gia y tế về kế hoạch mà hai người họ và Bác sĩ Lisa Koonin của Trung tâm Pḥng Ngừa và Ngăn chặn Dịch bệnh (CDC) đă cứu xét qua burger và bia. Bác sĩ Mecher bảo “Người ta không thể tin là một chiến lược như vậy có thể hữu hiệu hay có thể thực hiện được.” Nhưng bên trong nội bộ chính phủ Bush, họ được khuyến khích tiếp tục và cứ theo khoa học. Và sau cùng lư luận của họ đă tỏ ra thuyết phục.
Tháng 2 năm 2007, CDC đă đưa chính sách này –có cái tên rất cầu kỳ là Can thiệp Phi Dược phẩm (NPI)- trở thành chính sách chính thức của Hoa Kỳ. Theo sau xét lại năm năm của chính phủ Obama, chiến lược này được cập nhật bởi một văn kiện xuất bản năm 2017. Và sau tŕ hoăn trong khi Tổng thống Donald Trump giảm nhẹ đe dọa của Covid-19, nó đă được sử dụng để khuyến khích các tiểu bang đóng cửa khi các trường hợp nhiễm bệnh và tử vong tăng vọt.
Sáng kiến của Tổng thống Bush
Cố gắng này bắt đầu vào mùa hè năm 2005 khi Tổng thống Bush, lúc đó đă lo ngại về khủng bố sinh học sau vụ tấn công 11 tháng 9 năm 2001, đọc một cuốn sách mang cái tên “The Great Influenza” của ông John M. Barry về dịch Cúm Tây Ban Nha năm 1918.
Sự lo ngại của ông Bush đă lại gia tăng v́ một loạt những vụ bùng phát mới tạo nên bởi dịch bệnh truyền từ chim và các loài súc vật khác sang người, kể cả vụ bộc phát cúm gia cầm năm đó ở Việt Nam. V́ không có vaccine cho những đe dọa mới này, chúng có thể lan truyền rất nhanh.
Trong một bài diễn văn đọc tại Viện Nghiên Cứu Sức Khỏe Quốc gia NIH, Tổng thống Bush nói:
“Một đại dịch cũng giống như cháy rừng. Nếu bắt được sớm nó có thể bị dập tắt với thiệt hại giới hạn. Nếu để cho âm ỉ, không ai biết, nó có thể trở thành một ḷ lửa lan tràn nhanh chóng ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta.”
Để phát triển ư kiến này, chính phủ Bush đă nhờ Bác sĩ Hatchett, vốn đang là cố vấn chính sách cho ṭa Bạch ốc về Vệ sinh Pḥng bệnh, và Bác sĩ Mecher, vốn là một bác sĩ của Bộ Cựu chiến binh giám đốc một bệnh viện lớn chuyên lo về vùng Đông Nam Hoa Kỳ.
Bác sĩ Mecher, lúc đó 49 tuổi, c̣n nhớ cô thư kư của ông nói với ông vào mùa thu năm 2005 một cách khó tin “Có ai đó từ Ṭa Bạch Ốc đang phone ông.”
Một người ăn nói bộc trực, một bác sĩ chuyên về chăm sóc đặc biệt gốc ở Chicago, Bác sĩ Mecher hầu như không có kinh nghiệm về đại dịch. Thay v́ vậy, ông được mời v́ họ cần một người biết về cách một bệnh viện thực sự hoạt động ra sao, Bác sĩ Rajeev Venkayya, vốn là phụ tá đặc biệt cho Tổng thống Bush về pḥng thủ sinh học giải thích. Bác sĩ Koonin, vốn làm việc cho việc hoạch định chuẩn bị cho CDC cũng đóng một vai chủ chốt.
Mạng lưới xă hội
Trước nguy cơ của những loại cúm mới và thực tế là những loại thuốc chống virus hiện hữu như Tamiflu không hữu hiệu với nhiều loại bệnh truyền nhiễm, hai Bác sĩ Hatchett và Mecher và toán của họ bắt đầu nghiên cứu cách khác để chống lại lây nhiễm ở mức độ lan rộng.
Đó là lúc Bác sĩ Meccher nghe nói đến Tiến sĩ Robert Glass, một khoa học gia lăo thành ở Hệ thống Pḥng Thí Nghiệm Quốc gia Sandia ở tiểu bang New Mexico vốn chuyên xây dựng các mô h́nh để giải thích cách nào một hệ thống phức tạp hoạt động –và cái ǵ có thể tạo nên thảm bại kinh hồn.
Cô con gái Tiến sĩ Glass, Laura, năm đó 14 tuổi, đă có một dự án khoa học cho trường trong đó cô xây dựng một mô h́nh một mạng lưới liên hệ xă hội ở trường trung học của cô ở Alburquerque, và khi Tiến sĩ Glass thấy, ông rất ṭ ṃ. Các học sinh có những liên hệ rất mật thiết với nhau –trong những mạng lưới xă hội và trên xe bus và trong lớp học- thành ra họ là gần toàn hảo trong việc là động cơ cho bệnh truyền nhiễm lây lan.
Tiến sĩ Glass đă ké vào công việc của cô con gái của ḿnh để t́m hiểu với cô về ảnh hưởng phá vỡ những mạng lưới này có thể có ảnh hưởng phụ đến dịch bệnh như thế nào. Kết quả của cuộc nghiên cứu làm họ thật sửng sốt. Khi đóng cửa trường học trong một thị trấn giả định có 10,000 dân, chỉ có 500 người nhiễm bệnh. Nếu trường học tiếp tục mở cửa, gần nửa dân số có thể bị nhiễm bệnh.
Tiến sĩ Glass nhớ lại ông nghĩ “Chúa tôi, chúng ta có thể dùng cùng kết quả này và tiến tới từ đó.” Ông lấy những dữ liệu sơ khởi của họ, và dựng lên và cho chạy qua hệ thống siêu computer của Sandia, thường được dùng để chế tạo vũ khí hạt nhân. Bác sĩ Mecher nhận được kết quả từ văn pḥng của ông ở Washington và sửng sốt.
Nếu các thành phố đóng cửa các trường học, dữ liệu cho thấy, mức lây lan của dịch bệnh sẽ chậm đáng kể, khiến việc này trở thành một trong những việc quan trọng nhất của mọi lựa chọn tạo khoảng cách xă hội mà họ đang tính tới.
Một cuộc nghiên cứu của Tiến sĩ Glass được đăng tải trên Tập San Bệnh Truyền Nhiễm Sắp xuất Hiện, viết:
“Những chiến thuật tạo khoảng cách xă hội có mục tiêu có thể được kiến tạo để giảm thiểu mức tiến triển của một đại dịch cúm mà không có vaccine hay thuốc chống siêu vi.”
Cô Laura, lúc đó c̣n học trung học, được nhắc tên.
Hai bác sĩ Hatchett và Mecher và toán của họ bắt đầu đo chiều rộng của một cái ghế trên xe bus chở học sinh và kích thước trung b́nh một pḥng học ở Hoa Kỳ, tính xem học sinh ngồi gần nhau đến mức nào và đồng ư là bất cứ kế hoạch nào cũng phải có đóng cửa trường học.
Đồng thời, họ đang gặp phải một thách thức căn bản nữa: Nếu một chính phủ trông cậy vào vũ khí rất không sắc bén của khoảng cách xă hội để ngăn ngừa bệnh tật lây lan, th́ họ phải hành động sớm đến mức nào?
Một bài học của quá khứ
Bác sĩ Markel đă trải suốt sự nghiệp nghiên cứu các vụ bùng phát dịch bệnh. Gần dây, ông đă làm việc trong một sứ vụ liên hệ ở Ngũ Giác Đài, vốn có một quan ngại hẹp hơn nhưng cũng không kém cấp bách: đe dọa cho các quân nhân Hoa Kỳ v́ virus.
Á châu đă bị ảnh hưởng nặng bởi Cúm gia cầm năm 2005 vốn truyền sang người và lan ra đến những nơi mà quân đội Hoa Kỳ có đồn trú, kể cả Philippines. Điều này dẫn đến Bác sĩ Merkel đề nghị -sau khi tham khảo tự điển- điều mà ông gọi là “tập trung bảo vệ”, bằng cách giữ binh sĩ cô lập tập thể trên các con tàu đậu ở bến.