Miyamoto Musashi ra đời vào năm 1584 tại tỉnh Mimasaka, cách Đông Kinh 40 dặm về phía Tây Nam. Thân phụ của ông vốn là một lănh chúa ngang tàng, đầu đội trời chân đạp đất, “biên thùy một cơi” trên ḥn đảo lớn Kyushu dưới triều đại của Shogun Nobunaga. Musashi mồ côi cả cha lẫn mẹ năm mới lên bảy tuổi và được cậu ruột là một vị Ḥa thương mang vào chùa nuôi nấng dạy dỗ. Gần giống như Lư Công Uẩn của nước ta 3.000 dặm gần đó và 600 năm trước đây.
Nhưng cơ chế nghiệp lực đă vận hành kỳ ảo khiến cho con đường tu chứng của ông phải kinh qua một trở ngại lớn, một thử thách dài trong thời đại loạn lạc bấy giờ, đó là phải trở thành kiếm khách số một trong số hơn tám vạn Samurai đang tranh nhau thư hùng. Nghĩa là trở thành một "Độc cô cầu bại", cô đơn vác kiếm đi lang thang khắp xứ Phù Tang, thành tâm mong t́m được một đối thủ đánh bại được ḿnh !
Cho nên chỉ tự học trong sân chùa vào những đêm thanh vắng mà mới 13 tuổi ông đă xẻ đôi thân xác Kihei, đệ nhất dũng sĩ của quân trường Shinto Ryu. Năm 16 tuổi, ông đánh bại Akiyama, trưởng tràng của kiếm phái Tadashima. Sau ngày đó, với nghịch giới sát sanh vần vũ trên đầu, ông bỏ chùa, lưng mang kiếm gỗ, một thân một bóng lên đường thực hiện cuộc hành tŕnh chứng ngộ của một Vơ sĩ đạo thời chinh chiến. Cuộc hành tŕnh bi hùng tuyệt đẹp này sẽ mở lối khai đường cho kiếm pháp Nhật Bản, nâng kiếm thuật lên đỉnh cao kiếm đạo, và giúp Kiếm sĩ hóa thân thành Thiền sư.
Không vợ con và không hành lư. Cũng không sợ hăi và không giận hờn. Chỉ với hai bộ quần áo tả tơi dưới chiếc nón rộng vành, và một thanh kiếm gỗ đă săn cứng lại v́ gió sương chiến trận, ông đă lang bạt trong núi cao hang sâu của miền Hokkaido băng giá, trong rừng dày băo dữ của vịnh Kyushu, trong cung cấm nghiêm ngặt ḷe ánh thép của các lănh chúa, và đọ kiếm 129 trận không một lần chiến bại. Lần duy nhất có làm ông ngẩn ngơ trong thoáng chốc là khi dùng kiếm gỗ chèo thuyền ra đảo Ogura, ông đă phải nhờ đến ánh nắng quái của chiều tà và tiếng sóng đập vào ghềnh đá để phân tâm đối thủ và giúp ông chém chết được Kojiro, chưởng môn lừng lẫy của kiếm phái Tadaoki. Đó là lần duy nhất ông phải vận dụng thiên nhiên để cho đường kiếm của ḿnh phá được thế thủ vững chắc và kín đáo của một kỳ phùng địch thủ.
Năm đó ông 29 tuổi, và từ đó ông được giới kiếm sĩ Nhật Bản tôn xưng là Kiếm Thánh.
Nhưng cũng từ đó, ông bẻ kiếm và suy nghiệm về thanh kiếm như một cá thể hữu t́nh, về múa kiếm như một con đường tỉnh thức để tự giải thoát ḿnh ra khỏi xao động của cuộc đời. Ông để ra 30 năm trời để suy nghiệm, sống âm thầm vô danh trong một làng đánh cá hẻo lánh, hành xử như một lăo già khật khùng. Và đến năm 59 tuổi th́ ông bỏ làng vào động đá Reigendo để bắt đầu viết tác phẩm duy nhất của đời ông. Tác phẩm dày chỉ 10 trang giấy bổn mà ông phải mất hai năm trời mới hoàn thành.
Một tuần sau đó, ông từ giă cơi đời, ung dung và tự tại giải nghiệp để tan biến vào trời đất. Năm đó là năm 1645.
Cuốn sách ông viết có tựa đề là Ngũ Đai Thư (Go Rin No Sho - Cuốn sách về Năm Ṿng đai), gồm 5 chương: chương Thổ, Thủy, Hỏa, Phong và chương Hư Vô. Trong phần mở đầu, ông viết vài ḍng ngắn ngủi và khiêm cung về cuộc đời và thân phận của ông rồi tự thú rằng “Tất cả chiến thắng của tôi từ trước đến nay có lẽ nhờ trời cho, hoặc nhờ tôi khéo tay, v́ măi cho đến năm 50 tuổi tôi mới chứng ngộ được kiếm đạo chân thực... Tôi viết cuốn này mà cố t́nh quên đi kinh Phật dạy và lời Khổng viết, lại càng không nhớ đến bất kỳ một chiêu thức kiếm pháp nào ... Tôi chỉ quy chiếu vào Tâm mà viết”
Bốn chương đầu, Thổ, Thủy, Hỏa và Phong, ông nhận định về thanh kiếm như một ngoại vật vô thường, có đó nhưng không đó; về người múa kiếm như một tha nhân vô ngă, vừa có thật vừa không có thật; về kiếm thuật như một nghệ thuật vô h́nh vô tướng; và về các kiếm phái khác như cơi ta bà chứa đầy mộng, ảo, bào, ảnh. Cũng trong bốn chương này, ông luận về các sách lược đấu kiếm thông qua hai phạm trù diệu hữu và chân không, cho rằng trong vọng tâm, kiếm và kiếm sĩ đều có thật, nhưng không thật có v́ giả hợp. Cho nên có đấu kiếm mà vẫn không có kiếm đấu.
Riêng chương thứ năm Hư Vô và cũng là chương cuối cùng, chỉ dài có nửa trang giấy, ông đề cập đến Kiếm Đạo như một con đường giải thoát rồi ông kết thúc cuốn sách như sau:
“Biết rằng cái ǵ Có chính là Không Có, mà cái Không Có chính là Có, tức là biết được Đạo vậy. Nhưng lúc biết được chính cái Đạo cũng không có nốt th́ mới hoàn toàn chứng ngộ.
Năm Shoho đệ nhị, tháng thứ Năm, ngày thứ Mười hai, Miyamoto Musashi cẩn kư”.
Chưa hề đọc Bát Nhă Tâm Kinh, chỉ múa kiếm để giết người rồi buông kiếm để quán chiếu, thế là “đồ tể” kiếm thánh Musashi bỗng trở thành thiền sư Musashi.
Cho nên khi ông buông bút chấm dứt cuốn sách trong động đá quạnh hiu, 129 nhát kiếm oan nghiệt chém chết 129 mạng người bỗng chỉ c̣n là những nghiệp chướng nhân quả lồng lộng. Mười sáu năm tung hoành trong chốn gió tanh mưa máu bỗng trở thành mười sáu năm trùng trùng duyên khởi.
Ông đă đứng dậy, thanh thoát nhẹ tay phủi đám bụi hồng. Cho Tâm trong Tâm tĩnh. Cho Tâm không c̣n là Tâm.