Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975 - VietBF
 
 
 
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

HOME

NEWS 24h

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking

Go Back   VietBF > Other News|Tin Khác > Stories, Books | Chuyện, Sách


Reply
 
Thread Tools
  #1  
Old  Default Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975
Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975



Các diễn đàn văn-học Việt-Nam (Internet và ngoài nước là chính) thời-gian gần đây đặc-biệt đăng đàn, đăng văn bản và bài viết, phỏng vấn nhau về văn-học miền Nam thời 1954-1975, cũng là phần văn-học sử chúng tôi đă nghiên cứu với mục-đích đóng góp phần đồng hành và hiểu biết nhỏ nhoi của cá nhân, và với văn bản gốc, từ những năm đầu thập niên 1990 – lúc chưa có nhiều văn bản internet và cả ebook như hiện nay. Vào thời điểm 2014 hôm nay, ở trong cũng như ngoài nước, đă có nhiều sinh viên, giáo-sư và nhà biên-khảo, phê-b́nh chuyên nghiệp và “nghiệp dư” đă bắt đầu đi sâu vào mảng văn-học này, dù với mục-đích có thể khác nhau, nhưng cách này hoặc các khác th́ vẫn là điềm tốt sau gần 40 năm tác-phẩm bị đốt, cấm, xuyên tạc và người làm văn-nghệ bị đày đọa đến chết hoặc phải bỏ nước lưu vong.

Nhân đây chúng tôi cho đăng lại một số bài về cùng đề tài:

1.“Văn-học Miền Nam Tự Do 1954-75” phần 1- Một thời văn-chương;

2.“Văn-học Miền Nam Tự Do 1954-75” phần 2- Một thời tưởng tiếc (từng phổ biến với tựa đề “Văn-học tự do khai phóng vẫn là nguồn hy vọng”);

3.“Thi Ca Miền Nam 1954-75”;

4.“Văn-học miền Nam qua một bộ ‘văn-học sử’ trong nước”.

Bài 1 và 3 đă đăng trên tạp-chí Chủ Đề (Portland OR) các số 1-2, Xuân và Hạ năm 2000, bài 2 viết tháng 2-2005 và và bài 4 viết tháng 7-2010 nhân một chuyến đi vùng Đông Nam Á; tất cả phần nào đă được cập nhật gần đây. Chúng tôi cũng viết về một số chủ đề khác (Cái chết, Dục tính, Nữ quyền, Nhóm Sáng Tạo, Tạp-chí Bách Khoa, Văn-học yêu nước, Văn-học chiến-tranh, Thể-loại tiểu-thuyết, Truyện ngắn, Phê-b́nh văn-học,...) và về một số tác-giả của Văn-học miền Nam, đă từng được phổ biến trên các báo giấy, các trang mạng Internet và xuất-bản trong các tuyển tập biên-khảo Văn Học Và Thời Gian (Văn Nghệ, 2000) và Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX : Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại (Đại Nam, 2004). Ngoài ra, tập Văn Học Miền Nam 1954-1975 đang được cập nhật tổng soạn lại và xuất-bản một ngày gần đây.* Nguyễn Vy Khanh (Canada, Dec 5, 2014)









Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975

Phần 1
Một thời văn-chương



1954-1975 là thời gian của một cuộc chiến tranh ư thức hệ quốc gia / cộng sản - đồng thời cũng là huynh đệ tương tàn với áp lực của các cường quốc trong một cuộc đối đầu gọi là chiến tranh lạnh! Việt Nam chia đôi ở vĩ tuyến thứ 17. Cuộc di cư năm 1954 đă thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật miền Nam cho đến thời điểm ấy chủ động bởi người địa phương mà nơi hoạt động mạnh là Huế, Qui Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ và nhất là Sài G̣n. Sài G̣n, thủ đô Nam phần, đă là nơi sinh hoạt báo chí và văn học nghệ thuật chủ yếu và nhiều nhà báo và văn nghệ sĩ gốc Trung và Bắc đă đến lập nghiệp hoặc cộng tác từ đầu thế-kỷ. 20 năm văn học này có sự đóng góp của nhiều nhóm văn nghệ, tư tưởng hay tập trung ở các tạp chí như Sáng Tạo, Quan Điểm, Văn Hóa Ngày Nay, Nhân Loại, Văn Đàn, Bách Khoa, Văn Học, v.v. Vào giai đoạn đầu 1954-1963, một nền văn nghệ tự do sinh hoạt trong một không khí văn hóa, tin tưởng, th́ đến giai đoạn sau 1964-1975, văn nghệ đa dạng hơn nhưng cũng đa tạp hơn với những người làm văn nghệ phân hóa, bạo động trong một xă hội thời chiến giá trị văn hóa mất dần.

Sau những đấu tranh văn nghệ cho chính trị ư thức hệ của hai năm đầu 1954-1955, người làm văn nghệ muốn làm nghệ thuật mới, thuần túy nghệ thuật hơn, kiểu nghệ thuật vị nghệ thuật. Sau sẽ rơ ra cũng là một công cụ của chính trị giai đoạn! Tạp chí Sáng Tạo ra đời trong hoàn cảnh mới đó. Số 1 ra tháng 10-1956 và kéo dài được 31 số, ngưng từ tháng 9-1959, đến tháng 7-1960 tiếp tục bộ mới nhưng cũng chỉ ra thêm được 7 số. Mai Thảo, trong số ra mắt tạp chí Sáng Tạo đă phần nào chủ quan nói văn nghệ từ thủ đô Hà Nội đă chuyển vào thủ đô văn hóa Sài G̣n! Nhưng khẳng định của Mai Thảo là một diễn dịch khác của một cơ cấu xă hội và chính trị bị-động, phải đối phó tức thời với kẻ thù cộng sản. Đảng Cần Lao được tổ chức như cơ cấu của kẻ thù, đ̣i hỏi hy sinh và một ḷng, một mục đích. Với những phương tiện tương đương. Sáng Tạo không đi ra ngoài quỹ đạo đó! Sáng-Tạo ra đời với cái gọi là ư thức văn nghệ mới và làm mới văn học cho thời đó. Tạp chí Sáng Tạo muốn làm đại diện cho nền nghệ thuật mới được gọi là “nghệ thuật hôm nay”.





Nói đến nhóm “tạp chí Sáng tạo” người ta nghĩ đến nhiều người: Mai Thảo “đầu đàn” với văn nói chung mới và tân cải h́nh thức, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và Quách Thoại với thơ tự do, Nguyên Sa với thơ ca tụng t́nh yêu tân kỳ, Cung Trầm Tưởng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn) và Trần Tuấn Kiệt làm mới thơ lục bát, Trần Thanh Hiệp và Nguyễn Văn Trung (Hoàng Thái Linh), người lập thuyết, người giới thiệu triết lư thời thượng của Âu châu. Ngoài ra c̣n có Doăn Quốc Sỹ, Thảo Trường, Viên Linh, Người Sông Thương (Nguyễn Sỹ Tế), Trần Dạ Từ, Thạch Chương (Cung Tiến), Vương Tân (Hồ Nam), Hoàng Anh Tuấn, Mai Trung Tĩnh, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Mặc Đỗ, Duy Thanh, Lữ Hồ, Trần Lê Nguyễn,... Sáng Tạo không phải là một văn đàn hay bút nhóm với chủ trương và hoạt động khắng khít như Tự Lực Văn Đoàn và nhóm Hàn Thuyên của thời tiền chiến. Các văn nghệ sĩ hợp tác như Nguyên Sa, Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, vv. sau tách riêng làm văn nghệ hoặc không tiếp tục chủ trương của Sáng Tạo nữa.

Sáng Tạo đă góp phần làm mới văn học về văn cũng như thơ, về h́nh thức, thể cách cũng như nội dung. Thanh Tâm Tuyền cổ vơ thơ Tự do, không vần, bất ngờ về ư và chữ dùng, xuất bản Tôi Không C̣n Cô Độc (1956) và Liên, Đêm, Mặt Trời T́m Thấy(1964). Thơ Thanh Tâm Tuyền dùng ngôn ngữ để phá hủy ngôn ngữ, phó mặc mạch thơ, nhạc điệu cũng như ngôn ngữ thơ, để ngôn từ tự do trôi chảy như sự vật vô tri vô nghĩa từ nguyên thủy. Với Nguyên Sa, thơ tự do là thơ phá thể (1), trong khi Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn, “thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do” mà cao điểm sẽ là thơ văn xuôi (2). Cổ vơ thơ Tự Do và khi tưởng đă thành công gây tiếng vang thuận tiện, nhất là với những người làm thơ mới ra đời, nhóm Sáng Tạo bèn đi xa hơn phủ nhận giá trị thơ văn tiền chiến và kháng chiến. Mai Thảo và nhóm bạn của ông rất dị ứng với quá khứ ! Nhiều nhóm văn nghệ sĩ đă lên tiếng phản đối, nhất là ở Huế. Dù ǵ th́ Thanh Tâm Tuyền rồi Nguyên Sa đă khai pháo mở đường cho ḍng thơ sẽ được gọi là Thơ Tự Do, một vận động đă bắt nguồn từ thời kháng chiến nguyên thủy là phản ứng lại thơ mới và thơ thời tiền chiến. Thơ lục bát đă được canh tân với một số nhà thơ thời Thơ Mới, nay trên tạp chí Sáng Tạo, lục bát được tiếp tục hiện đại hóa với ngôn ngữ tân kỳ, h́nh ảnh mới hơn, bất ngờ, cũng như trong cách dùng chữ, ngắt câu. Khởi xướng bởi Cung Trầm Tưởng, tiếp đó có Sao Trên Rừng, Trần Tuấn Kiệt, Trần Đức Uyển, Hoài Khanh, Kim Tuấn, Hoàng Trúc Ly, ...

Mai Thảo là người đă đóng góp cho một cách làm mới hành văn. Những sáng tạo về ngôn từ, cách chấm câu, văn tùy bút, cảm giác. Cách dùng chữ trang trọng, chấm câu theo t́nh cảm và diễn tiến câu chuyện. Mai Thảo cổ vơ lối viết văn như vẽ tranh. Chỗ chấm phá, chỗ chi tiết. Chỗ nâng cao chỗ xuống thấp. Đêm Giă Từ Hà Nội, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời cũng như hai tậpTùy Bút và Căn Nhà Vùng Nước Mặn là những thử nghiệm thành công. Những chữ dùng nay đă quen nghe quen thấy, nhưng vào những năm 1956-62 là những cái mới đă làm hơn một người chau mặt ! Truyện Thanh Tâm Tuyền tiêu biểu qua Bếp Lửa (1957) và Khuôn Mặt (1964), coi cuộc đời là một vô nghĩa toàn diện. Con người “hôm nay” lên đường, lữ hành, tự vạch đường, tự thoát khỏi tầm thường và khuôn sáo. Cô đơn trong trừu tượng sâu thẳm của con người, nhưng cuối cùng cái phi lư vẫn bủa vây, đẩy con người lún sâu thêm vào trong thực tại mà ư nghĩa nguyên thủy bất động của sự vật vẫn chưa t́m thấy. Thảo Trường dùng những tra vấn khắt khe nhưng chân thành của con người trí thức có đức tin, để nh́n con người và chiến tranh! Cả ba dụng văn nhưng nếu Mai Thảo làm xiếc với chữ, Thanh Tâm Tuyền khiến con chữ sắc lạnh và Thảo Trường nung lửa cho từng chữ dùng!

Sáng Tạo đă mở đường cho những người làm văn nghệ mới từ nay rủ nhau lên đường: Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Gió Mới, Nghệ Thuật, ... Sáng Tạo có công gây hứng khởi, khai phá những cái mới. Trong phỏng vấn của tạp chí Văn vào năm 1971, Mai Thảo đă nh́n nhận : “Tờ Sáng Tạo là của những thí nghiệm và những mở đường (...) Tôi không nh́n Sáng Tạo như nơi phát xuất và h́nh thành một ḍng văn học nghệ thuật. Lớn chuyện quá. Một tinh thần nào, một cách thế nào th́ có” (3). Sau khi đă thử “phóng cái lao ư thức về đằng trước” và chối bỏ đằng sau, những thành quả của văn nghệ tiền chiến - Mai Thảo và nhóm của ông rất dị ứng với quá khứ ! Họ khẳng định: ”Những khuynh hướng mới là những trở thành tất yếu và biện chứng của một quá tŕnh đổi thay và tiến hóa của nghệ thuật hiện đại Việt Nam” (4). 15 năm sau, Mai Thảo kể lại những ngày Sáng Tạo : “Chất nổ ném vào. Cờ phất. Xuống núi, xuống đường. Ra biển, ra khơi. Và cuộc cách mạng tất yếu và biện chứng của văn chương đă bắt đầu (.... ). Trong một thực trạng dày đặc những chất liệu của sáng tạo và phá vỡ như vậy, văn học nghệ thuật mặc nhiên không c̣n là tả chân Nguyễn Công Hoan, lăng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực” (5). Nói chung, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Tô Thùy Yên là những thành công, những mới mẻ - nhưng xét cho cùng Mai Thảo, Tô Thùy Yên vẫn chưa rời cái nền cũ, hồn xưa. Quách Thoại, Doăn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế xưa, khuôn phép hơn nữa, c̣n Duy Thanh, Thạch Chương đă ngừng lại ở những thử nghiệm hiện sinh buông thả như người Âu-châu!

Mặt khác, trong bầu không khí chính trị mới, tự do và dân chủ của sau hiệp định Genève 1954 đó, văn chương của Vơ Phiến, Đỗ Tấn, Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn, Doăn Quốc Sỹ, Đỗ Thúc Vịnh, Kỳ Văn Nguyên, ..., những con người từng theo kháng chiến, đă góp phần xây dựng chính trị miền đất mới trong giai đoạn đắp nền của thời đệ nhất cộng ḥa. Tác phẩm của họ đă đáp ứng những chờ đợi của con người thời đó. Văn chương trở thành vũ khí đấu tranh chính trị với cộng sản, dĩ độc trị độc, cũng như người cộng sản đă đặt văn nghệ thành chính sách. Những chuyện xảy ra ở các liên khu kháng chiến. Trong Người Tù, Kỳ Hoa Tử, Khu Rừng Lau, Mùa Ảo Ảnh, v.v., đấu tranh con người và chính trị là một! Doăn Quốc Sỹ quyết tâm bảo vệ lư tưởng, ư nghĩa đă có, dứt khoát vai tṛ của người trí thức, phải bỏ chủ nghĩa cộng sản, đề cao dân tộc tính và t́nh người khi c̣n có thể. Nguyễn Mạnh Côn nhiệt thành Đem Tâm T́nh Viết Lịch Sử tŕnh bày cho đồng hao và thế hệ trẻ biết những thất vọng của ông về một chủ nghĩa, với kinh nghiệm chính ông Lạc Đường Vào Lịch Sử (1965). Một cách phá đổ huyền thoại kháng chiến đồng thời nhận chân giá trị thực của công cuộc vận động kháng thực đó!

V́ an sinh của miền Nam cộng ḥa, nơi tập hợp mới của con người không cộng sản, văn chương chống cộng, tố cộng, đề cao tự do, cảnh tỉnh người dân về hiểm họa cộng sản là thiết yếu, là những viên gạch không thể thiếu trong hoàn cảnh. Miền Nam đến cuối thập niên 50 đă có được những cơ cấu chính trị và xă hội nền tảng của một chế độ dân sự hiện đại. Nhưng từ năm 1960, đă bắt đầu có những tiếng nói khác nhịp với chính quyền. Nhóm Caravelle (4-1960), rồi đảo chính ngày 11-11-1960, rồi hai phi công Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử thả bom dinh Độc lập 2-1962, những nỗ lực chính trị của một số người của chế độ muốn cứu nền đệ nhất cộng ḥa không kết quả, bàn cờ domino khiến “đồng minh” Hoa Kỳ thiếu kiên nhẫn muốn đi nước cờ theo ư ḿnh, bèn cấu kết đưa đến đảo chính 1-11-1963, rồi chỉnh lư, biểu dương chính trị, tôn giáo, v.v. Người hiểu biết sẽ thấy khi chế độ đệ nhất cộng ḥa bị lật đổ, chống Cộng trở thành đa dạng, sẽ hết c̣n dễ dàng. Miền Nam sinh nhiều lănh tụ, quyền lực bị kiềm tỏa bởi quân phiệt và đảng phái thích quyền hành hơn là làm cách mạng. Người ta nhân danh chiến tranh, muốn cảnh giác hiểm họa cộng sản. Và một tuổi trẻ năng động trong hành tŕnh trí thức và tâm cảm, nhiều khắc khoải, ưu tư, nhưng họ lại có thể không cùng kinh nghiệm kháng chiến hay chống Cộng, dễ ngây thơ chính trị.

Miền Nam bốc lửa, nếp thanh b́nh tương đối của thời ngưng chiến sau 1954 dần mất. Nhà văn cũng như bao người dân khác, bị thời cuộc xáo trộn, phải đối phó. Sinh hoạt văn hóa cũng bị biến cố thời thế ảnh hưởng, và ảnh hưởng nặng nề. Những Sáng Tạo, Hiện Đại, Thể Kỷ Hai Mươi, ... đề xướng văn nghệ “hôm nay” th́ từ 1964, những tạp chí Văn, Văn Học, Nghệ Thuật, Tiếng Nói, v.v. đă “hiện đại” mạnh mẽ hơn! Rồi sự góp mặt của một thế hệ nhà văn trẻ hơn như Lê Tất Điều (Khởi Hành, 1961), Nguyễn Đ́nh Toàn (Chị Em Hải, 1961), Dương Nghiễm Mậu (Cũng Đành, Gia Tài Người Mẹ, xuất bản cùng năm 1963). Người hiểu biết sẽ thấy khi chế độ đệ nhất cộng ḥa bị lật đổ, dân chủ bị phản bội - mà những người sinh hoạt chính trị h́nh như cũng chưa thực hành được dân chủ, chưa chấp nhận “tṛ chơi” dân chủ - chống Cộng sẽ hết c̣n dễ dàng. Và một tuổi trẻ năng động trong hành tŕnh trí thức và tâm cảm, nhiều khắc khoải, ưu tư, nhưng họ lại có thể không cùng kinh nghiệm kháng chiến hay chống Cộng, dễ ngây thơ chính trị.

Cái không khí Dostoievski nặng nề và bi quan, cái không khí buồn tột cùng hay bất lực đó đă thấy trong các tác phẩm của Vơ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, ... cũng như cái phi lư dửng dưng trong tác phẩm Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đ́nh Toàn. Thanh Tâm Tuyền và Nguyễn Đ́nh Toàn chẳng hạn đều đi t́m ư nghĩa của cuộc sống; trong khi Thanh Tâm Tuyền hăm hở mà dửng dưng, tự hào, không cảm tính, th́ Nguyễn Đ́nh Toàn chậm chạp khám phá theo cảm tính và tư duy.

Nhóm “Bách Khoa” lúc đầu là nơi tụ tập những người kháng chiến cũ như Huỳnh Văn Lang, Vơ Phiến, Phạm Ngọc Thảo,..., nhóm “Nhân Loại” của những người miền Nam tiếp tục ... kháng chiến xoay ra chống chính quyền miền Nam, sau báo đ́nh bản và nhiều người vô bưng theo cộng sản như Lư Văn Sâm, Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hoà hoặc tiếp tục nằm vùng như Vũ Hạnh, Sơn Nam. Ngoài ra đối với giới làm văn nghệ từ đất văn vật vào, Nguyễn Đức Quỳnh đă một thời ảnh hưởng một số trí thức, văn nghệ sĩ và “lư thuyết gia” văn nghệ trong số có những thành viên của Sáng-Tạo hay của nhóm Quan Điểm, qua những buổi gọi là “đàm trường viễn kiến” của họ.

Nhóm Tinh-Việt văn-đoàn gồm Phạm Đ́nh Khiêm, Phạm Đ́nh Tân, Nguyễn Văn Thọ, .... chủ trương đem Đạo vào Đời và Đời vào Đạo. Họ có cơ quan Văn Đàn và từ năm 1958 lập hai giải thưởng văn học Trương Vĩnh Kư và Lecomte de Nouy (6). Nhóm viết và dịch với mục đích phổ biến giới thiệu những tư tưởng mới, nhất là của Thiên Chúa giáo. Hai nhóm khác của Thiên Chúa giáo cũng đă đóng góp nhiều cho nền văn học giai đoạn này: Văn Bút Trần Lục khi di cư vô Nam đă xuất bản hàng trăm tài liệu và tác phẩm, các thành viên của Học-hội Ra Khơi thuộc địa phận Bùi Chu như các linh mục Kim Định, Trần Văn Hiến-Minh, Vũ Ngọc Trác, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Hoàng Sỹ Quư, Đỗ Quang Chính, Nguyễn Hưng,... đă xuất bản nhiều tác phẩm về triết học Đông Tây, Việt học và ngữ học rất đáng kể. Riêng linh mục Kim Định đă có công đặt nền móng khoa học cho triết học Việt Nam.

Sau những năm bôn ba hoạt động chính trị, làm bộ trưởng và lưu vong, năm 1951, Nhất Linh trở lại quê nhà về sống ẩn ở Đà-Lạt. Năm 1958, ông “xuống núi” gây dựng lại Tự Lực văn-đoàn, nhà xuất bản Đời nay và ra mắt tạp chí Văn Hóa Ngày Nay chủ xướng một văn chương vượt thời gian và không gian. Từ năm 1951, sách Tự Lực văn-đoàn đă được tái bản với tên nhà Phượng Giang, vẫn thành công về số lượng tiêu thụ. Nhưng ngoài công lao khám phá những cây viết mới như Nhật Tiến, Đỗ Phương Khanh, Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam, Tường Hùng, ... ông cũng như dư vang của Tự Lực văn-đoàn đă không được những người làm văn nghệ mới đón nhận tích cực lắm; trở thành đề tài tranh luận chối bỏ của những người làm văn nghệ “hôm nay” trên Sáng Tạovà cả trên Nghệ Thuật khi nhóm đă ră (7). Tác phẩm của Tự Lực văn-đoàn được đưa vào chương tŕnh Việt văn, đă được chính yếu đọc bởi giới học sinh. Độc giả nói chung t́m đến những tác giả và tác phẩm mới hơn, trong số có những tác giả mới của nhóm Tự Lực văn-đoàn như đă nói ở trên. Nhất Linh thất bại đến với giới trẻ, hết sinh lực và hợp thời đại, bộ Xóm Cầu Mới cũng như tạp chíVăn Hóa Ngày Nay, nhưng tinh thần gọn sáng được tiếp nối với Nguyễn Thị Vinh, Nhật Tiến. Chính Thế Uyên, một người cháu của Nhất Linh cũng là một nhà văn mới vô nghề cũng đă phủ bác văn chương của Tự Lực văn-đoàn (8). Từ năm 1960 trên các tạp chí văn nghệ Sài-G̣n đă có những bài luận công tội của Nhất Linh đối với văn học! Trong số những hiện tượng phủ nhận vai tṛ những người làm văn hóa đi trước, c̣n có Trần Thanh Hiệp lư thuyết gia nhóm Sáng Tạo, diễn thuyết “Về viễn tượng văn nghệ miền Nam” tại Câu Lạc Bộ Văn Hóa (1-8-1960) đă đi quá xa khi xổ toẹt văn học miền Nam trước khi ông di cư vào (9). Văn Đàn của nhóm Tinh Việt Văn Đoàn đă phản ứng mạnh mẽ chống vị luật sư lư thuyết gia “văn nghệ hôm nay” này! Dĩ nhiên nhóm Tinh-Việt văn-đoàn cũng chống cả văn chương hiện sinh ngoại nhập với các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan, Nguyễn Khắc Hoạch và các nhà văn mới của Sáng Tạo, Hiện Đại và Thế Kỷ Hai Mươi!

Về báo chí, thời này đa dạng, trăm hoa cùng nở; nở theo chính trị và biến động của một miền Nam hết an b́nh. Nhà báo làm chính trị, “chầu ŕa” như một số đảng phái bắt đầu hết hậu thuẫn của dân chúng. Khi chiến tranh và xáo trộn lên cao độ, đă có những tờ báo chui của sinh viên và trí thức, “góp phần” gây xáo trộn thêm miền Nam. Cũng là thời của nhiều nhóm tranh đấu chính trị tập trung quanh các báo Thái Độ, Lập Trường, Hành Tŕnh, Đối Diện, ... với những nhà văn dấn thân như Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, Nguyên Vũ, Thế Uyên,... hay phản chiến như Kinh Dương Vương, Nguỵ Ngữ, Trần Hữu Lục, Thái Luân, Thế Vũ, v.v. - những phẫn nộ của họ không được chú tâm của người cùng chiến tuyến, vài người trong số sẽ bị đối phương xử dụng, tác phẩm của họ trở nên vô dụng trong một xă hội quay cuồng bởi những giá trị khác hơn.

Về tạp chí văn học, tờ Văn (số 1, 1-1-1964), tương đối sống lâu nhất và đă đóng góp nhiều cho việc hiện đại hóa văn nghệ miền Nam. Qua ba đời Trần Phong Giao, Mai Thảo và Nguyễn Xuân Hoàng, nhưng thời họ Trần tạp chí phẩm chất cao, có chiều hướng xây dựng một nền văn nghệ mới, hiện đại và đa dạng đông-tây; đă có công giới thiệu các tác giả, công bố nhiều văn liệu đặc biệt và khám phá nhiều cây viết trẻ (như Y Uyên), có những số báo độc đáo về Triều Sơn, Nhất Linh, Nguyễn Đức Quỳnh, Hàn Mặc Tử, Hồ Biều Chánh, v.v. Trần Phong Giao từ 1972 chủ trương tạp chí Giao-Điểm theo h́nh thức Văn nhưng mất dần ảnh hưởng! Văn Học của Phan Kim Thịnh là tạp chí cũng đă góp nhiều công sức cổ vơ một nền văn chương mới và ghi dấu nhiều chủ đề văn học Việt Nam và thế giới.

Về thi-ca, nếu Thơ Mới dù tự do hơn, phóng túng hơn thơ cũ nhưng thường ở trong khuôn tế nhị, thơ mộng th́ đến thời này nhất là ở những năm chiến tranh, tâm t́nh con người giao động nhiều, mất mát thua thiệt nhiều, như bất lực trước tàn bạo của chính trị và chiến tranh, đă có những giọng thơ khinh bạc, như Nguyễn Bắc Sơn, cũng là thời thơ văn bốc lửa của miền Trung địa đầu của miền Nam. Miền Trung đă xôi động với những biến cố Phật giáo 1963, 1965, đại học Huế, nhóm Lập Trường, rồi biến cố Tết Mậu Thân, cổ thành Quảng Trị, v.v. , với những cây viết trẻ Trần Vàng Sao, Thái Luân, Nguyễn Nho Sa Mạc, Luân Hoán, Mường Mán, Hoàng Lộc, Thành Tôn, Thái Tú Hạp,...Miền Trung đă chứng tỏ thiết yếu cho văn học miền Nam; so với tỉ lệ dân số, người đọc ở đó đă nhiều mà người viết cũng nhiều!

Thơ thời này c̣n có những khuynh hướng triết lư, về phận người và vũ trụ như thơ Phổ Đức, thơ Thiền Bùi Giáng: một phương tiện giải thoát cuộc sống khó khăn hoặc chính trị không lối thoát. Thơ ảnh hưởng Phật giáo có Phạm Thiên Thư, Nhất Hạnh, Hoài Khanh, Phạm Công Thiện, Xuân Phụng,... Song hành có thơ Vũ Hoàng Chương với Rừng Phong (1954) và nhiều thi tập sau đó lúc đầu c̣n phong cách, dù vẫn cái buồn chán chường cuộc đời và tâm sự sống sót sau cuộc chiến tranh, nhưng sau thành thù tạc và lạc lơng giữa thời đại hết c̣n là của thi nhân. Đinh Hùng với Mê Hồn Ca đem đến cho văn học Việt Nam một thế giới huyền sử hoang đường của thời huyền thoại, như cánh tay nối dài của tuyên ngôn Dạ Đài thuở 1943, sẽ trong sáng gần cuộc đời hơn vớiĐường Vào T́nh Sử năm 1961. Thơ t́nh yêu có hiện tượng Nhất Tuấn với các tập Truyện Chúng Ḿnh, t́nh ngang trái v́ hoàn cảnh phân ly của đất nước nhưng vẫn có chỗ cho hy vọng, không bi thảm, của người thanh niên đă khoác áo lính. Nguyên Sa là một hiện tượng đáng kể khác nhưng chỉ vào đầu giai đoạn. Trần Dạ Từ đă có Thuở Làm Thơ Yêu Em, Phạm Thiên Thư - nhà tu ngắn hạn đa t́nh dài dài, với Động Hoa Vàng, v.v. Hoàng Trúc Ly, Cung Trầm Tưởng, Kiên Giang, Trần Tuấn Kiệt, Lệ Khánh, Cao Mỵ Nhân, ... đă để lại nhiều bài thơ t́nh đẹp. Miền Đông có Nguyễn Tất Nhiên đă là hiện tượng với những vần thơ học tṛ ca tụng t́nh yêu được phổ nhạc và phổ biến rộng răi nhất là trong giới học sinh, sinh viên! Về kịch, Băo Thời Đại của Trần Lê Nguyễn, Thành Cát Tư Hăn của Vũ Khắc Khoan đáng được ghi nhận, bên cạnh những đóng góp của Thanh Tâm Tuyền, Doăn Quốc Sỹ, Ngô Xuân Phụng, Nghiêm Xuân Hồng, Phan Tùng Mai, v.v.

Ngôn ngữ phong phú ra, nhiều ngành triết học, khoa học, văn chương bành trướng với sự lớn mạnh của các phân khoa Văn Khoa và các viện đại-học công cũng như tư. Triết lư, văn học Phật giáo phát triển với sự thành lập viện đại học Vạn hạnh, với những tạp chí Tư Tưởng, Vạn Hạnh, Giữ Thơm Quê Mẹ, các nhà xuất bản Lá Bối, An Tiêm, Ca Dao... các tác giả Nhất Hạnh, Vơ Hồng, Hoài Khanh, ... Phía Công giáo với các viện đại học Đà-Lạt, Minh Đức, Thụ Nhân,... góp phần phát triển bộ môn triết học và ngôn ngữ học cũng như văn học với các công tŕnh của các giáo sư và linh mục Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Văn Lư, Cao Văn Luận, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Sỹ Quư, Nguyễn Khắc Xuyên, Kim Định, v.v. Về văn học, Bùi Xuân Bào, Bùi Tuân, Vơ Long Tê, Phạm Đ́nh Tân, Nguyễn Văn Trung, Thảo Trường, v.v. cũng như các nhóm Nhận Thức (Huế), Tinh-Việt văn-đoàn, Sống Đạo, Phương Đông, Đối Diện, v.v. đă góp phần gây ư thức tôn giáo và góp phần nhận thức trách nhiệm trần gian, bám sát thời sự của chiến tranh và xă hội nhiều giao động.

Ở miền Nam từ sau đệ nhị thế chiến, một luồng gió tự do cá nhân đến từ Âu châu hiện sinh. Cá thể là chính, là khởi điểm đồng thời là trạm tới của mọi giá trị. Ư nghĩa cuộc đời chỉ có thể có từ kinh nghiệm cá nhân mỗi người, và tự do lựa chọn, như một số nhân vật của Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu và Nguyễn Đ́nh Toàn. Nay không c̣n khuôn mẫu văn hóa chung, phổ quát, trừu tượng, nay chỉ có chủ thể mà không c̣n khách thể!

Ngôn ngữ trở thành âu lo chính, trở thành sống chết, quan trọng, chứ không phải không có cũng chẳng sao. Văn chương với ngôn ngữ như h́nh với bóng; có văn chương, ngôn ngữ mới sống và trưởng thành. Ngôn ngữ trong một hoàn cảnh nào đó, có thể đem đến tự tin, nói như Jean-Paul Sartre, văn chương một thời đại vong thân khi tự nó không dứt khoát làm chủ mà c̣n lệ thuộc những quyền lực đời hoặc một ư thức hệ, khi văn chương tự xem như phương tiện, công cụ thay v́ phải là mục đích vô điều kiện. Thành ra văn chương khoác chiếc áo siêu h́nh, như từ chối hiện thực, đời thường. Đi xa đến những tưởng là vô nghĩa, phi lư, trong thực tế là những tư duy thâm sâu, và chính ngôn ngữ và sáng tạo trong ngôn ngữ đă đem lại tính cách văn chương cho văn, thơ,...

Văn nghệ trở thành phương tiện hành động, phản kháng, trong một cuộc đời phi lư, như chiến tranh, như những cái chết của người thân hay bạn hữu. Người tuổi trẻ nhận ra văn chương không phải là chốn trốn tránh sự thực, thực tại, mà là phải đáp ứng nhu cầu hôm nay và là để thuyết phục. Tiếng bom, những viên đạn lạc, những người bạn nằm xuống v́ lựa chọn chiến tuyến hoặc nạn nhân vô t́nh. Nhiều người làm văn nghệ trẻ thập niên 1960-1970 đă đi đến dấn thân - hoặc tưởng là như vậy, để gạt bỏ những sợ hăi bất tường của đời thường - cái hăi sợ mà Heidegger từng nói đến, đưa cá nhân đến đối đầu với hư vô và sự phi lư trước cái phải lựa chọn! Cuộc kiếm t́m cái nhân cách, một cái tính cách hiện đại hóa, thời thượng, .. Khởi từ ư tưởng định mệnh khó hiểu, cái số mệnh nghịch thường với con người, với tự do chân chính. Con người luôn bị định mệnh đe dọa, vậy th́ viết là để xác định tự do v́ hăi sợ không có thật!

Văn học miền Nam thời này cũng như của thế kỷ XX nói chung có cái thị kiến to lớn, loại viễn kiến, có tham vọng sâu xa, đụng đến phần sâu thẳm: nền văn học này v́ thế có hai đặc điểm trội bật là chính trị và siêu h́nh, triết lư. T́nh cảnh của một tập thể dù muốn hay không cũng tự chính trị hóa, trong mọi sinh hoạt, kể cả văn chương đă ảnh hưởng chăng? Có thể nói công việc nghị luận, nghiên cứu hay quan sát sinh hoạt văn học cũng là một cách làm văn học, v́ tập thể, v́ tương lai, mà nội dung cũng có thể tải những tâm t́nh, nguyện vọng của một thế hệ, của những người chứng. Đưa đến tính cách thời gian của văn học, nhất là văn học ở ngoài nước, v́ những công việc văn chương này luôn hàm ư phê phán quá khứ và hiện tại, luôn như t́m cách rọi ánh sáng vào bóng tối ám của bạo lực, của một tập thể chuyên quyền, như t́m cách nói lên tiếng nói bị vùi dập, bị đẩy vào câm lặng tuyệt đối!

Nhiều phương-pháp nghiên cứu và phê-b́nh được thử nghiệm và sử-dụng. Phương pháp phân tâm Freud đi t́m trong tiềm thức, tuổi thơ của tác giả - bỏ ư thức để đi vào lănh vực tiềm thức, trực giác, những ấn tượng, cảm xúc, ám ảnh đau thương thời thơ ấu của nhà văn thơ chẳng hạn, như Đỗ Long Vân khi viết về Chế Lan Viên (10).

Phương pháp xă hội học th́ t́m trong bối cảnh kinh tế, chính trị và xă hội chung quanh tác giả để cắt nghĩa tác phẩm. Đi xa và một chiều biến thành phương pháp phê b́nh duy vật của K. Marx, dựa trên lập trường gọi là giai cấp, cách mạng và chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa, dựa trên quá tŕnh phát triển của xă hội và của lịch sử. Ở miền Bắc khởi từ Trường Chinh từ những năm 1948, sau đó các vị làm công tác phê b́nh chỉ việc theo, như Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Đ́nh Kỵ, Hoài Thanh, v.v. Phê b́nh hiện sinh, nói đến con người như một cái ǵ do con người tự tạo, một hiện hữu tiên thiên trước yếu tính. Thuyết phê b́nh văn học “thi tứ không gian” (La poétique de l’espace) của Gaston Bachelard được Lê Tuyên áp dụng trong các giáo tŕnh ở đại học văn khoa Huế vào thập niên 1960, về ca dao tục ngữ, Kiều, Cung Oán ngâm khúc và đă xuất bản tập Chinh Phụ Ngâm Và Tâm Thức Lăng Mạn Của Kẻ Lưu Đày (11) năm 1961 và gần đây ở ngoài nước, cuốn Thể Tánh Của Thi Ca (12).

Cấu trúc luận (Lévi-Strauss, Michel Foucault, ...) từ thập niên 1960 khai tử “tác giả”, chỉ nhắm văn bản, cấu trúc của tác phẩm là cái xuất hiện trí thức của tác giả, của con người. Phương pháp chống nhân bản, có thể đưa đến phong trào sinh viên 1968, chống chiến tranh Việt Nam và đưa đến phong trào “tiểu thuyết mới” chủ tŕ cái chết của tác giả. Người viết mang mặt nạ, cũng là thời của tiểu thuyết thực nghiệm (experimental novels), tiểu thuyết phá thể - gốc gác, dấu vết triết học Marx đặt nặng vai tṛ sản xuất và vai tṛ của nó trong lịch sử. Huỳnh Phan Anh ít nhiều xử dụng những phương pháp này. Đỗ Long Vân t́m “con đường tơ lụa” trong Kiều và t́m dấu ấn ngôn ngữ giúp t́m dấu vết con người trong Nguồn Nước Ẩn Trong Thơ Hồ Xuân Hương. Hai thập niên sau có thuyết Hău Cău trúc luận (Post-Structuralism) chủ trương tách rời tổng thể khỏi cấu trúc, Jacques Derrida đưa ra thuyết Hủy Tạo (Deconstruction) phân tích kư hiệu để giải mă tác phẩm, không phân tích, tác phẩm trở nên bất tri. Phê b́nh hậu hiện đại cũng chú trọng khía cạnh chính trị. Sau Foucault là F. Jameson, Stanley Fish xem văn chương là một bằng chứng của sự đàn áp. Văn chương bị áp đặt dưới cái nh́n trừ “tà”, tố cáo. Vạch màn sương mù để nh́n “thực chất”. Phê b́nh hậu hiện đại phá hủy huyền thoại văn chương, lột trần, đặt lại vấn đề, tra vấn, t́m kiếm “chân lư”.

Các phương pháp đó có thể là những phương tiện, những lăng kính, những cách thức để hiểu văn học Việt Nam, sẽ là những đóng góp tốt, như Nguyễn Văn Trung khi nghiên cứu về văn học và tiểu thuyết (13), như Lê Tuyên khi viết về Chinh Phụ Ngâm (11), Đỗ Long Vân khi giải mă thơ Hồ Xuân Hương (14), Huỳnh Phan Anh về nhiều tác giả và tác phẩm (15), ...






Một nền văn nghệ mới khai sinh từ kinh nghiệm thế chiến thứ nh́ với những Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir, Françoise Sagan,... là một nền văn nghệ có tính chất triết lư “gần” con người và cuộc đời trần gian, xa thần quyền. Nhiều khuynh hướng văn nghệ mới được các giáo sư trẻ du học từ Âu châu về phổ dương, các ông Nguyễn Nam Châu, Nguyễn Văn Trung (Hoàng Thái Linh), Nguyên Sa Trần Bích Lan, Nguyễn Khắc Hoạch,... trên các tạp chí Đại Học của viện đại học Huế và các tạp chí văn nghệ mới Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Hiện Đại, v.v. Nhiều cây viết khác cũng góp phần giới thiệu những trào lưu văn nghệ mới, hiện tượng luận, Heidderger, và siêu h́nh học, Nietzche,... như Bùi Giáng, Tam Ích, Phạm Công Thiện, Đặng Phùng Quân, Trần Đỗ Dũng, Lê Huy Oanh, Trần Thiện Đạo, Trần Phong Giao, Nguyễn Nhật Duật, Huỳnh Phan Anh, Cô Liêu Vũ Đ́nh Lưu, Hoài Khanh, v.v.

Từ 1964, trong số những người làm văn nghệ xuất hiện một khuynh hướng triệt để hơn. Họ không bằng ḷng với thành quả đang đạt được. Một trong những người đó là Nguyên Sa chủ trương nghệ thuật phải hay và không làm văn nghệ theo phe nhóm hẹp ḥi vẫn thường hay “múa gậy vườn hoang” (16) như ông viết trong Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ. Ông đă nh́n lại quăng đường văn nghệ thời vừa qua, và đă kết án đó là một “nền văn chương trú ẩn” (17). Ông kết tội những người làm văn nghệ thời Sáng tạo trong đó có ông, đă phủ nhận văn học “lăng mạn” của tiền chiến “một cách mù mờ”. Ông cho rằng chủ trương văn nghệ mới của Sáng-tạo đă “vội vă, làm giản lược nhăn quan phán xét, làm phủ nhận thiếu vững chắc”. Theo ông, các nhà văn thời Sáng Tạo “chỉ chê văn chương lăng mạn. Tức là chúng tôi có thể làm văn chương hiện sinh. Chúng tôi có thể làm văn nghệ dấn thân. Chúng tôi có thể làm tiểu thuyết mới”. Tuy nhiên “đó là sự buồn bă ghê gớm của thế hệ năm mươi sáu mươi. Tiền chiến buồn bă bao nhiêu th́ chúng ta buồn bă bấy nhiêu. Bởi v́ những động đá trú ẩn. Tiền chiến và năm mươi sáu mươi vẫn là những nền văn nghệ trú ẩn trong những động đá kiên cố. Vẫn là những nền văn nghệ b́nh an và kỹ lưỡng” v́ “chúng ta chỉ yêu mến cái mới đă được chấp nhận. Chúng ta chỉ sáng tạo trong khuôn khổ (...) làm mới trong kích thước của cái mới đă được mang lại bởi những người làm văn học nghệ thuật không phải là chính ḿnh. (...) Ta chỉ là những người học tṛ tốt “ bắt chước hiện sinh, hiện thực xă hội. Nguyên Sa và một số trí thức của tờ Đất Nước đi đến quyết định “Nhớn rồi, ... phải rời bỏ những vùng trú ấn cũ,... những động đá cần thiết cho mùa Đông nhưng tù hăm lắm, tê liệt lắm” để “dấn thân”, “dân tộc” “đi về trước mặt. Đi đâu? Chưa biết. Đó là cuộc phiêu lưu”. Có thể “sự khám phá thần thánh” mà “cũng có thể là sự gục ngă. Gục ngă v́ dại khờ. Gục ngă v́ điên loạn. Nhưng trong văn nghệ, cũng như trong t́nh ái, chẳng thà gục ngă trong dại khờ c̣n hơn sống măi trong khôn ngoan. Chết ở chân trời thử thách, chết trong cuộc phiêu lưu c̣n hơn sống măi tầm gửi trong động đá trú ẩn êm ấm.”. Khi Nguyên Sa viết những ḍng trên là lúc văn chương “chính trị” của những Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Vơ Phiến, Doăn Quốc Sỹ, v.v. không c̣n đánh động được người đọc, làm như đă xong nhiệm vụ những năm đầu xây đựng nền tảng của một miền Nam không cộng sản. Thời gian sau đó cũng đă trả lời một cách oái oăm rằng văn chương hướng về dân tộc và tôn giáo sẽ là một thất bại khác - ít ra đă không tạo được những cây bút nỗi tiếng như vào thời cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Những cây viết thiên tả ở miền Nam như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Thế Nguyên, Nguyễn Trọng Văn liên tục theo dơi và tấn công những người làm văn nghệ khác, luôn nhân danh những “giá trị” chính họ không áp dụng. Cô-Liêu Vũ Đ́nh Lưu, Bùi Đức Uyên, Trần Văn Nam, ... có những đóng góp phê b́nh nghiêm chỉnh hơn!

Khuynh hướng văn chương dấn thân trội bật, từ ư thức đến chính trị. Khởi từ đây những tạp chí Đất Nước, Đối Diện, Tŕnh Bày, Hành Tŕnh, Thái Độ... đối đầu với chính trị và chiến tranh, mở một “chiến trường” chính trị và xă hội hơn, dấn thân sâu hơn. Một số văn nghệ sĩ dấn thân và phản chiến được người đọc theo dơi. Dấn thân có Thảo Trường, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Ngô Thế Vinh, Trần Hoài Thư, ...; phản chiến có Thế Nguyên, Mường Mán, Cung Tích Biền, Trần Vàng Sao,... về sau rơ ra là nằm vùng!

Từ những ră rời, tuyệt vọng do xă hội thời chiến đưa tới, vài năm sau làn sóng hiện sinh thời thượng là mốt “tiểu thuyết mới” đến từ Pháp với Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Xuân Hoàng,.... Một loại “phản tiểu thuyết”, nói như Jean-Paul Sartre, đối thoại và độc thoại cùng t́nh cảm nội tâm trộn lẫn, thứ tự thời gian đảo lộn, không cần đến cốt truyện, có khi không cả người kể. Nhân vật thường ở ngôi thứ ba (il, elle, on). Một thế giới rất “khách quan”, ở ngoài!

Sau khi đất nước chia đôi năm 1954, các trào lưu triết lư, văn-hóa và văn-chương hậu chiến như hiện sinh và hiện tượng luận ảnh-hưởng đến các sinh hoạt văn-hóa ở miền Nam. Hiện sinh xuất phát từ thời đệ nhị thế chiến, ảnh hưởng từ Heidegger và K. Jaspers và nối tiếp tiểu thuyết về thân phận con người, khuynh hướng lớn mạnh từ khi Jean-Paul Sartre xuất bản La Nausée năm 1938 và coi như chấm dứt với Les Mandarins của Simone de Beauvoir năm I954. Các nhà văn thơ miền Nam thuộc nhóm Sáng tạo, tạp chí Văn, Văn Học, Nghệ-Thuật, .. phản ánh phần nào khuynh hướng tiểu thuyết này. Đời là phi lư, là hố thẳm không thể vượt qua v́ luôn hiện hữu giữa con người và thế giới, giữa khát vọng con người và sự bất lực của thế giới bên ngoài thoả măn cá nhân! Con người xa thần quyền, chỉ biết giá trị của hiện tại và thực tại, lo sống cho cá nhân và hôm nay (Bếp Lửa, Tuổi Nước Độc,..), đời sống th́ buồn tẻ mà cá nhân th́ xác thịt và cảm tính mạnh hơn (Bốn Mươi, Ṿng Tay Học Tṛ, Tôi Nh́n Tôi Trên Vách, Sám Hối,...). Truyền thống, phong hóa, ... bị rời xa, bị phê phán, nh́n lại, cả chế diễu, v́ phải hiện đại. Sáng Tạo chê bai chối bỏ Tự Lực văn-đoàn. Rồi ảnh hưởng của tiểu thuyết Hoa Kỳ cũng như J. Joyce và Kafka, tiểu thuyết của một thế hệ lạc lơng, nên chưa thất vọng đă chán chường, tự chuốc lấy vấn-đề!

Khuynh hướng tiểu thuyết về dấn thân và thân phận con người nổi từ thập niên 30 ở Pháp với André Malraux, Céline, Saint-Exupéry, Bernanos, Montherlant, Aragon,... Một thể loại tiểu thuyết không chấp nhận giải trí xuông, mà đánh động lư trí bằng cách đưa tới phạm trù bi đát của phận người. Nhân vật thường tiêu biểu cho một giá trị. Tiểu thuyết từ nay là một dấn thân, một nếp sống hoạt động. Céline, qua Voyage au bout de la nuit, chống chiến tranh, chủ nghĩa thực dân, chống người Mỹ,... Malraux, viết Les Conquérants và La Condition humaine sau khi đă tham gia những cuộc cách mạng đẩm máu ở Trung-Hoa, trong rừng già Đế Thiên Đế Thích, t́m Đạo (La Voie royale), nhất là với L’Espoir, ông chống phát-xít, cổ vơ tự do. Với ông, tiểu thuyết hiện đại là “một phương tiện thích hợp nhất để nói đến cái bi đát, chứ không chỉ là một khám phá cá nhân”. Sau Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, khuynh hướng tiểu thuyết dấn thân đậm nét văn học miền Nam từ giữa thập niên 1960 với những Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư, Nguyên Vũ, ... trước khi trở thành phản chiến ở đầu thập niên 1970. Dấn thân tự do tŕnh bày, đem cái Tôi, cả trần truồng, trong một thế giới suy đồi, dù tự do, bên cạnh những đ̣i hỏi giá trị văn hóa hoặc ḷng tin. Văn chương thật sự phản kháng khi có đe dọa, bủa vây : Ngô Thế Vinh, Phan Nhật Nam,.. Từ phản kháng, có những nhà văn đi đến đối đầu đ̣i lật đổ chế độ, sau rơ ra do chỉ thị chứ chẳng ḷng thành ǵ : Vũ Hạnh, Thế Nguyên, Trần Hữu Lục (Cách Một Gịng Sông),... Chúng tôi đă có dịp tổng kết “mảng” tiểu thuyết này trong một nhận định đă xuất bản, Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh (1957-1997).







Kỹ thuật viết thay đổi! Phải chăng có thể nói đến những “thử nghiệm”, “tiến bộ”, “cải đổi” theo thời gian sự nghiệp và kinh nghiệm? Nguyễn Đ́nh Toàn là một thí dụ điển h́nh. Tiểu thuyết đầu Chị Em Hải xuất bản năm 1961, cốt truyện, nhân vật rơ rệt và động tác giản dị. Tác giả chi tiết ở những mô tả y phục và cử chỉ nhân vật. Ư tưởng làm nền có thể đạo đức, triết lư, nhưng chỉ mới ở ngưỡng cửa những ư tưởng phi lư, buồn nôn. T́nh yêu như một “thú” đau thương. Hải ham đọc sách, thông minh nhưng lănh đạm đến với t́nh yêu, lần đầu là căn gác lỡ lầm đáng tiếc! Những người tuổi trẻ này sống với “những khắc khổ đau đớn của cuộc đời vấy lấy họ. V́ họ đọc sách và biết nhiều họ sống lư tưởng nhưng lại biết rơ ḿnh viễn vông và sự thất vọng tàn của họ (...) Họ thu ḿnh trong chiếc vỏ cứng của cô đơn. Đó là một sự kiêu ngạo vô lư. Nhưng chính đó cũng là cứu cánh của họ. Nếu đập vỡ cái vỏ ấy, họ không c̣n là họ nữa, có thể họ sẽ tự tử v́ không chịu nổi cái vô lư của hiện hữu ḿnh...”. Đến Những Kẻ Đứng Bên Lề (1964), nhân vật phức tạp hơn, có sinh khí hơn, trong một cuộc sống đày bất trắc của chiến tranh. Thái, nhân vật chính, sống buông thả, sa đọa, nhưng cuối cùng bỏ Sài G̣n để trở về với biển cả. “Tôi là một kẻ viễn vông, ưa suy nghĩ như một cái cây tự mọc lá” (18). Con Đường (1967) đánh dấu một chặng đường mới trong việc t́m kiếm kỹ thuật và ngôn ngữ, trước đó, ông “thường bận tâm về vấn đề của cuốn tiểu thuyết sẽ viết, kể từ cuốn Con Đường tôi bận tâm về vấn đề viết chính cuốn tiểu thuyết đó nhiều hơn” như lời ông xác nhận trong một phỏng vấn của tạp chí Văn (19). Đến Áo Mơ Phai (1972), giải thưởng Văn-học Nghệ-thuật 1973, yếu tố “truyện” nhường chổ cho “truyện kể” để tác giả kể hồi ức, kỷ niệm. Tập tiểu thuyết bắt đầu như sau:

“Hà Nội 1954, tháng sáu chưa hết, nhưng mùa Thu đă đầy hơi lạnh. Buổi chiều im trong văn pḥng bước ra tới cửa Ṭa Đô Chánh, Quang đă có thể trông thấy sương mù trên mặt hồ Gươm”.

Và kết thúc ở trang 309 : “Lan ao ước được ḥa hợp; được tan biến vào Hà nội, đồng thời nàng cũng hoảng sợ khi tưởng tượng ra nàng đang kề sát mặt mũi ḿnh bên cạnh cái xác chết đang bắt đầu lạnh ngắt.

Nàng cũng mong mỏi một buổi chiều nao ngồi ở bao lơn đó, nàng sẽ trông thấy Quang đi tới. Lan không gọi nhưng Quang cũng sẽ ngửng lên và trông thấy nàng. Họ sẽ phải gặp nhau một lần cuối cùng như thế trong Hà nội, rồi có sẽ gặp nhau ở nơi xa xôi nào khác nữa không, là việc sau.

Ḷng mong đợi gay gắt đến nỗi, đă có khi Lan tưởng như nàng sẽ chết thật, sẽ không bao giờ thở được nữa”(20).

Ở giữa là cuộc sống b́nh thường của những nhân vật vốn là bạn hữu và gia đ́nh trong chốn không gian đó! Mất mát và đợi chờ là nội dung của truyện, nếu người đọc muốn ngừng lại ở một nội dung, một cốt truyện, một thảm kịch. Kỹ thuật tiến đổi, như tác giả xác nhận:

“Mỗi tác phẩm đă viết ra như que diêm đă được đốt cháy, nhà văn có bổn phận phải sang tạo, dù rằng toàn bộ tác phẩm chỉ là sự nối dài từ cuốn đầu tiên. Nhiều người đă nói tôi dùng lối viết quá dài, cả trang không chấm trong Áo Mơ Phai này mới mang đủ sắc thái không khí của Hà Nội. Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang song trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu... Áo Mơ Phai thoát ra từ cơn mơ đó từ khi tôi xa Hà Nội mới 17 tuổi...” (21).

florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
florida80's Avatar
Release: 05-04-2019
Reputation: 200806


Profile:
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Last Update: None Rating: None
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	34.jpg
Views:	0
Size:	41.4 KB
ID:	1376692  
florida80_is_offline
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139 florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Old 05-04-2019   #2
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Phần 2
Một thời tưởng tiếc





“lịch-sử luôn luôn duyệt lại,
không ai lừa được cuộc đời ...”
(Lê Đạt, 7-1956)


Đến cuối năm 2008, miền Nam Cộng-ḥa đă bị bức tử hơn 33 năm! Giới lănh đạo cộng-sản trong nước thay đổi diễn văn nhiều lần và cả nh́n nhận một số sai lầm trong số có sai trái về “biệt kích văn-nghệ”, đàn áp văn nghệ sĩ và trí thức của miền Nam, nhưng căn bản chế độ toàn trị và đảng trị vẫn vậy! Trong bài này, chúng tôi ghi lại những thăng trầm về văn-hóa văn-học tự do đă xảy ra trong gần 33 năm đó và từ đó thử nh́n về tương lai!



Sau 30-4-1975


Một chiến dịch lên án và triệt hạ văn nghệ sĩ và trí thức miền Nam Cộng-ḥa đă bắt đầu ngay từ đầu tháng 5-1975. Việt Nam Cộng Ḥa bị xóa trong lịch sử kẻ thắng đă đành, văn học của kẻ chiến bại Việt Nam Cộng ḥa cũng bị xóa bỏ bằng những nghị định và chiến dịch. Ngày 1 tháng 5, Ủy ban Quân quản ra chỉ thị cấm lưu hành và tàng trữ tất cả sách báo xuất-bản trước ngày “giải phóng”, và đă cho những toán cán bộ ô hợp (VC, nằm vùng, “cách-mạng 30/4” [“ông 30/4”], …) đến từng nhà lục soát, tịch thu sách báo và nghệ-thuật phẩm. Ngày 30-6 đài phát thanh cộng-sản cho biết “chỉ nội trong 1 quận đô thành Sài-G̣n chưa đầy 1 tuần, mà dân chúng đă nộp (và bị tịch thu) 482.460 ấn bản sách và 3.000 kư báo-chí xuất-bản thời ngụy”, đồng thời cho biết ở Nha Trang một hiệu sách đă “nộp 35.530 cuốn sách phản động”, c̣n ở tỉnh lỵ Bạc Liêu dân chúng đă “nộp cho chính phủ cách-mạng hơn 3.000 tập sách cải lương, tân nhạc và hàng trăm cassette và dĩa hát nội-dung phản động và độc hại cho tuổi trẻ”.

Những thứ mà sau 1987 sẽ được dân chúng từ Nam chí Bắc ưu chuộng công khai và trở thành … thời thượng … trễ, mà trước đó đă xâm nhập ngay hàng ngũ cán bộ và bộ đội cộng-sản (Tờ Quân Đội Nhân Dân ngày 14-8-1977 cho biết bộ đội vào Nam bỏ hàng ngũ trong khi các đơn vị ở miền Bắc đă chứa chấp sách báo ‘ngụy’ và lén nghe ‘ nhạc vàng’, một vụ kiểm soát 2 tiểu đội đă tịch thu được 119 cuốn sách ‘đồi trụy, phản cách-mạng’ và có cá nhân 1 bộ đội đă giữ 84 cuộn băng ‘nhạc vàng’).

17 và 18 tháng 6, hơn một tháng sau đă diễn ra ở thủ đô miền Nam một ‘Hội nghị lần thứ nhất các nhà văn giải phóng’ cố xác định ai là nhà văn giải phóng và ai đứng ngoài và c̣n là kẻ thù. Sau 30-4-75, Hội Văn nghệ Thành phố HCM cầm đầu bởi 4 Vũ Hạnh, Thái Bạch, Thế Nguyên & Nguyễn ngọc Lương.

Đồng thời, Ủy ban Quân quản giao cho một ban thanh lọc văn nghệ phẩm do Trần Bạch Đằng và Lữ Phương thứ trưởng văn hóa cầm đầu với các trưởng tổ Vũ Hạnh, Huỳnh Văn Ṭng, Châu Anh (về phía nhân viên có Minh Quân, Tường Linh, Thu Mai, Nguyễn Sỹ Nguyên, Giang Tân, HTA, v.v.). Họ đă xếp toàn bộ văn nghệ phẩm vào 6 loại. Lữ Phương đă tŕnh bày hệ thống xếp loại này trên tờ nhật báo Sài-G̣n Giải Phóng 2 ngày 21 và 22-1-1976. A và B bị cấm v́ hại nhất cho cộng-sản, C (trong số có nhạc vàng), D, E th́ phải thanh lọc, c̣n F là … của ‘‘cách-mạng’’(nằm vùng). Măi đến ngày 26-10-1975, ban này mới xong đợt đầu, thanh lọc 56 tác-giả và 489 tựa sách đă góp phần vào công tác chiến-tranh tâm lư chống Cộng.






Đến ngày 20-8-1975, khi Lưu Hữu Phước, bộ trưởng Thông tin văn hóa của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa miền Nam, công bố Thông tri 218/CT.75 cấm lưu hành sách báo xuất bản tại miền Nam, đồng thời công bố danh sách các Cơ sở xuất-bản, Các nhà xuất-bản sách thiếu nhi, Các tác-giả, dịch giả bị cấm toàn bộ các sách đă xuất-bản và của Các tác-giả có sách bị cấm toàn bộ - một danh sách 130 trong đó khoảng 120 tác giả miền Nam với toàn bộ tác phẩm bị cấm lưu hành (10 tác-giả kia là Âu Mỹ Hoa có bản Việt dịch). Sau đó là tù đày, cải tạo, và khi nghi bóng nghi gió lại tiếp tục càn quyét thu vén sách Việt Nam Cộng Ḥa. Tất cả đều nằm trong sách lược của Đảng như nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) ghi rơ nhiệm vụ phải “quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ gieo rắc ở miền Nam’ (1). Xóa bỏ tác giả và tác phẩm bị gán nhăn/chụp mũ là ‘tàn dư văn-hóa nô dịch’, ‘phản cách-mạng’, ...

Những tŕnh diện và những lớp học tập. Ngày 10 và 11-6-1975, Ủy Ban Quân quản Thành phố Sài-G̣n Gia Định ra thông báo kêu gọi quân nhân, công chức chế độ cũ tŕnh diện, bị tập trung “học tập cải tạo” hứa hẹn 3 tháng, trong số có nhiều văn-nghệ sĩ của miền Nam. Văn-nghệ sĩ của miền Nam tiếp tục được chiếu cố tận t́nh nhiều năm sau đó.

Ngày 8-3-1976 thêm Thông tri số 15/TTVH/MCTH của Bộ Thông tin Văn-hóa cập nhật danh mục sách cấm lưu hành. Tiếp đến là những vụ lùng bắt văn-nghệ sĩ miền Nam vào cuối tháng 3 này [mà nhà văn nhà báo Thanh Thương Hoàng gọi là chiến dịch X3, sau X1 ‘chiến dịch bắt học tập cải tạo’, X2 ‘đánh tư sản mại bản’. X. Nguồn CA, số 52, 6-2011], từng đoàn từng đoàn ‘công an văn-hóa’ hợp cùng ‘công an khu vực’ hành … quân càn quét tịch thu hết sách báo xuất bản dưới thời chế độ cũ, để đốt, “tẩy”. Đây thuộc về là đợt hai kéo dài của chiến dịch thanh toán “bọn văn nghệ sĩ phản động” và cũng để chuẩn bị bầu cử Quốc hội ‘thống nhất’ 2 miền ngày 25-4 sau đó, thành ‘‘Việt-Nam cộng ḥa xă-hội’’, chiến dịch khởi động sáng 3-4-1976, một ngày sau vụ nổ Hồ Con Rùa ở bùng-binh đường Duy Tân và Trần Quư Cáp: khởi đầu “vụ án Hồ Con Rùa” (về sau được cộng-sản quay thành phim), công an lùng bắt khoảng 200 người hầu hết là văn nghệ sĩ và trí thức mà từ nay họ gọi là “những tên biệt kích cầm bút”, ngày đầu tiên người bị bắt là Nguyễn Mạnh Côn, hôm sau là những Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Hoàng Hải Thủy, Dương Nghiễm Mậu. “Những tên biệt kích cầm bút” (danh xưng sau này được dùng cho cuốn Những Tên Biệt Kích Của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn-Hóa Tư Tưởngdo nhà xuất-bản Văn-hóa in năm 1980, tác-giả là Tổng và Phó tổng biên tập tuần báo Công An Sài-G̣n). Người cầm đầu thi hành Vụ án Hồ Con Rùa là Huỳnh Bá Thành (1942-1993) bí danh Ba Trung tức họa sĩ Ớt (nhật báo Điện Tín) nằm vùng trước đó ở Sài-G̣n, sau này năm 1981-82 y viết lại ‘‘Vụ án Hồ Con Rùa’’ đăng từng kỳ trên tờ Tuổi Trẻ và xuất-bản thành sách năm 1983.Tội danh gán cho họ khi là ‘‘gián điệp’’ khi là ‘‘tuyên truyền phản cách-mạng’’. Chiến dịch khủng bố này bắt bớ giam cầm các nhà văn như Doăn Quốc Sỹ, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Sĩ Tế, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Hồ Hữu Tường, Hồ Nam, Lê Xuyên, Nguyễn Hữu Hiệu, Mặc Thu, Thái Thủy, Trần Dạ Từ, Nhă Ca, các họa sĩ Đằng Giao, Choé Nguyễn Hải Chí, các nhà báo Minh Vồ tờ Con Ong, Hồ Văn Đồng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh,... các nghệ sĩ, đạo diễn Minh Đăng Khánh, Hoàng Vĩnh Lộc, v.v.

Sau khi đă lùng bắt khoảng 30 văn-nghệ sĩ miền Nam, một “Khóa bồi dưỡng chính trị cho Văn nghệ sĩ miền Nam’’ được Thành ủy và Hội văn-nghệ sĩ giải phóng thành phố HCM tổ chức đợt 1 vào mùa Hè năm 1976, khởi ngày 13-6 và kéo dài cả tháng, đợt 2 vào tháng Bảy; mục-đích học tập chính-trị cho các văn-nghệ sĩ có ‘tội’ không ủng hộ ‘cách-mạng’, ‘không đích thực’ như những tay văn-nghệ thuộc Mặt Trận Giải Phóng miền Nam; nhưng thực ra cốt kiểm soát cùng bài bản với những tập trung ‘học tập, cải tạo’ đối với các sĩ quan quân đội và công chức Việt-Nam Cộng Ḥa, và quảng cáo, tuyên truyền đă cho các văn-nghệ sĩ miền Nam cơ hội - mà có người cứ tưởng sau đó sẽ được hành nghề trở lại. Phần đầu là những huấn hổ, phô trương công trạng đối với cách-mạng của 1 số đă theo cộng-sản Hà-Nội, phần sau là các văn-nghệ sĩ của miền Nam phải làm tự phê tự kiểm, và nhiều người bị đưa ra Tổ để bị mổ xẻ, bên Tổ Văn và Thơ do Vũ Hạnh phụ trách (nhà văn Nguyễn Mộng Giác đă t́nh nguyện làm thư-kư Tổ Thơ Văn (theo Hoàng Hải Thủy.”Mắt mù, tai điếc”. Saigon Nhỏ, 15-5-2009, tr. A3-5), có Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhật Tiến, Phạm Thiên Thư, Lệ Hằng, Tường Linh, An Khê, .... Khi Nguyễn Thị Hoàng bị phê phán, Mai Quốc Liên đă tuyên bố “bởi v́ miền Nam các anh, các chị làm ǵ có văn hóa” [hơn 37 năm sau, ông MQL chối đă nói câu như thế mà nay ông cho đó là ‘‘1 câu ngu ngốc mà không ai dại ǵ nói’’ (Hồn Việt CA, 20-11-2012)].

Đến lượt Sở Thông tin Văn hóa Thành phố HCM ra Thông tri số 12030/STTVH/XB ngày 3-5-1977. Rồi ngày 14-17 tháng 1 năm 1978, Bộ Văn-hóa và Thông tin lại tổ chức tại Sài-G̣n một hội nghị toàn quốc với danh xưng ‘‘Hội nghị đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn-hóa thực dân mới’’ với những huấn thị, báo cáo của đảng viên cao cấp từ Hà-Nội vào, xem như là một công tác cấp thiết và thường trực. Đồng thời để quảng cáo món ‘‘văn-hóa ưu việt xă-hội chủ nghĩa’’, ‘‘văn-học cách-mạng ở miền Nam’’ (nhắm căm thù, lũng đoạn,...) cùng chủ trương viết lách của xă-hội cộng-sản miền Bắc. ‘‘Con người mới’’, ‘‘con người cách-mạng’’, ‘‘con người xă-hội mới’’,... không chấp nhận văn-học miền Nam bị gọi là ‘‘văn-học đô thị’’ của ‘‘vùng tạm chiếm’’ (21 năm!). Do đó phải đàn áp, phải dùng đến vơ lực công an, …

Ngày 7-3-1978, nhật báo Tin Sáng cho đăng Nghị quyết của Ủy Ban Nhân dân Thành phố HCM muốn tiến hành từ ngày này cho đến cuối năm 1978 một đợt tấn công và thanh toán dẹp hết những ‘dấu vết của văn-hóa tân thực dân’, kêu gọi học sinh, sinh viên tập họp kiểm thảo và phê phán một cách triệt để những ‘nọc độc’ của thứ văn-hóa suy đồi và phản cách-mạng này và kêu gọi các thành phần trẻ lập ra những đoàn công tác văn-hóa cho mục-đích ‘truy quét văn hóa đồi trụy phản động’.

Nhà Nước ra hẳn một cuốn danh mục sách và tác già cấm lưu hành. Những ǵ không xuất phát từ văn học hiện thực xă hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản đều phải xóa bỏ, phủ định, v́ “mảng” văn học này bị kết án là “đồi trụy hóa con người”, “phục vụ xă hội tiêu thụ miền Nam” tức một thứ “văn học phục vụ chính trị phản động”, phản cách mạng - những cái nhăn hiệu có thể làm tiêu mạng con người! Từ 1975 đến 1997 có gần 20 cuốn sách chửi bới phê b́nh văn nghệ Việt Nam Cộng Ḥa: văn học tay sai nhưng đáng sợ như những trái bom!

Vào tháng 3-1981, nhà cầm quyền Hà-Nội ra hẳn một cuốn danh mục mới gồm 122 tác giả với toàn bộ tác phẩm bị cấm lưu hành. Trong chiến dịch lên án và triệt hạ này, theo thống kê chính thức năm 1981, trong chiến dịch đợt 3 vào tháng 6 năm 1981 chính quyền cộng-sản đă tịch thu trên toàn quốc 3 triệu đơn vị ấn phẩm trong đó 316,314 sách báo bị cấm; riêng ở Sài-g̣n 60 tấn sách (151,200 cuốn), 41,723 cuộn băng nhạc, 53,751 bức tranh, 631 cuộn phim. v.v. Đồng thời khám phá ra 205 nhà in bí mật (2). Nhà thơ Quách Tấn sống ở Nha Trang, đă phải tiễn sách bị lệnh tịch thu mà c̣n phải thuê xa ba-gác chở lên nạp Ty Thông tin:

– Lệnh trên truyền xuống dám không tuân
Tính tới bàn lui những ngại ngần
Lửa cháy đầu non chi tiếc ngọc
Giấy in h́nh rắn dễ thêm chân
Gượng cầm giọt lệ, khóc vô mệnh
Nghĩ tội lời khen, bút hữu thần
Thôi cứ người sao ta cũng vậy
Dù chi chi cũng vật ngoài thân
(Tính Tới Bàn Lui)

– Sách vở mong cày thế ruộng nương
Ai ngờ sách vở gặp tai ương
Ôm ḷng tiếc rẻ công vô ích (...)
Quên càng khó lắm nhớ càng thương
Thương người thiên cổ không c̣n nữa
Mường tượng non xanh bóng Tử Trường
(T́nh Sách Vở, Trường Xuyên Thi Thoại, NXB văn-nghệ TP. HCM & TTNC Quốc Học, 2000, tr. 167-8).

Sự kiện lịch sử đă xảy ra, đó là sau khi “chiến thắng”, các cán bộ và cả guồng máy liền gấp rút tấn công và thủ tiêu những thành tích văn-hóa văn-học ở miền Nam trước khi họ đến. Những khóa “bồi dưỡng chính-trị và văn nghệ” liên tiếp được mở ra ở Sài-g̣n, nơi có nhiều “phản động” nhất! Sau đó tiếp tục tấn công về lư luận với những “công tŕnh tập thể” như cuốn Văn hóa, văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ-Ngụy, tập 1 do Trà Linh, Trần Hữu Tá, v.v. soạn (Hà Nôi : Văn Hóa, 1977); hai năm sau ra tập 2, do Trần Độ chủ biên (Hà-nội : Văn hóa, 1979). Trong cuốn này, cán bộ cộng-sản tỏ ra sợ chính sách văn-hóa thời đệ nhất cộng-ḥa, thời sau đó họ coi thường hơn v́ lănh đạo bất lực và giới văn-nghệ phân hóa. Những nhân danh dân-tộc, nhân dân của các cây viết của miền Nam bị họ gọi là “văn-hóa mạo hóa”. Các tác-phẩm văn-học có tính hiện thực xă-hội, nhất là vào những năm cuối trước 1975, th́ bị họ kết án là “độc dược” v́ vừa “đồi trụy” vừa “chống cách-mạng một cách có ư thức”(tr. 313) của những Nguyễn Thụy Long, Hà Huyền Chi, Văn Quang, Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Doăn Quốc Sỹ, Duyên Anh,... Những tác-giả khác bị mũi tên nặng có thể kể: Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Linh, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu, Lê Hữu Mục, Thanh Tâm Tuyền, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Vơ Phiến, Nguyễn Đ́nh Toàn, Nhă Ca,... Xuân Vũ, Kim Nhật và những cây viết “chiêu hồi” dĩ nhiên bị họ chĩa mũi dùi nặng hơn!

Sau đó, Viện Văn-học (Phong Lê, Hoàng Trung Thông, ...) ra cuốn Văn-học Việt Nam Chống Mỹ, Cứu Nước (Hà-nội : Khoa Hoc Xă Hội, 1979), trong đó đă gọi Mỹ là “tên sen đầm quốc tế”, là “tên đầu sỏ chủ nghĩa thực dân mới”! Riêng Phạm Văn Sĩ trong Văn học Giải phóng Miền Nam 1954-1970 (Hà-nội: ĐH&THCN, 1975) để lại nhận xét ... bất hủ (thời đỏ) : “văn-chương chống Cộng là thứ văn-chương xảo trá đê hèn nhất của Mỹ-ngụy ở miền Nam” (tr. 377) cùng lúc lại đề cao những ấn phẩm tuyên truyền như Những Lá Thư Từ Tuyến Đầu Tổ Quốc đầy cường điệu và cương bịa (lính Biệt kích của miền Nam ăn thịt người) của những văn công gốc Bắc đưa vào.

Ngoài ra c̣n có Phong Hiền với Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở Miền nam Việt Nam : Khía cạnh tư tưởng và văn hóa 1954 - 1975 (Hà-nội. : Thông tin lư luận, 1975. Tb 1984); và viện Khoa học giáo dục in T́m hiểu chính sách giáo dục thực dân mới Mỹ ở Miền Nam Việt Nam và những tác hại của nó (Tp.HCM : Tp. Hồ Chí Minh, 1980), v.v.

Nói chung là nhiều ư và lập luận trùng điệp, nhưng nhát đ̣n nặng kư vẫn là cuốn của Lữ Phương, Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mĩ tại miền Nam Việt Nam (Hà-nội: Văn hoá, 1981, tái-bản 1985). Lữ Phương lúc đó là thứ trưởng thông tin văn-hóa chính quyền quân quản tháng 5-1975 và là người có liên hệ đến nghị định 20-8-75 nói trên, Miền Nam Cộng-ḥa theo chủ nghĩa dân chủ vừa pháp trị vừa nhân đạo, đo đó đă bị bá đạo cài khá nhiều người nằm vùng, hoạt động cho kẻ thù. Lữ Phương là một, ông ta đựa trên một thứ đạo đức (giả hiệu) và dân-tộc (tức tổ quốc thành đồng) để lư luận, phê b́nh chống văn-nghệ miền Nam. Tập sách của ông ta do đó khá chi tiết và có cơ sở lư luận cộng-sản. Ông ta đă chứng minh “thực dân mới Mỹ” và các chính quyền miền Nam dùng “chiến-tranh và bạo lực văn-hóa tư tưởng” để “xâm lược” và “bành trướng” cùng “chiến-tranh tâm lư là đ̣n bẫy của mọi hoạt-động văn-hóa - tư tưởng” (tr. 31, 37), trong đó các viện đại học cũng như nhóm văn-hóa văn-nghệ như Sáng Tạo, Hiện Đại, Văn Hữu Á-Châu, Quan Điểm,... được đưa lên bàn mổ. Ông gọi tập thể các nhà văn hóa và văn-nghệ sĩ miền Nam là“đội quân văn-hóa phản động”, là ‘tay sai của đế quốc Mỹ’, trong đó có Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Lư Đại Nguyên, Dương Nghiễm Mậu, Vơ Phiến, Doăn Quốc Sỹ, LM Hoàng Sỹ Quư, v.v. Văn-hóa dân-tộc chủ tŕ bởi những Kim Định, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Sĩ Tế,... là những nhà lư thuyết theo ông là “bản địa” và lạc hậu, thần bí,... không ... khoa học như ... Mác-Lê cộng-sản [thời đó thôi, v́ sau này bị thất sủng, ông viết “Chủ Nghĩa Marx Và Cách Mạng Vô Sản Việt Nam”, “Huyền thoại Hồ Chí Minh” v.v. là để tự xóa và thanh toán xóa cả chế độ từng được ông ca là ... khoa học và lư tưởng – ông trở thành ... đối-kháng (được phép!) trong ḷng chế độ!]. Ông c̣n có âm mưu và triệt để hơn khi bàn đến các khuynh-hướng triết lư văn-học hiện sinh, cấu trúc trong chương về lối sống Mỹ hoặc văn-chương đồi trụy, t́nh dục,...

Trong đợt đầu của chiến dịch bôi xóa văn-học miền Nam, cuốn được nói đến nhiều trở thành huyền thoại, là Những Tên Biệt Kích Của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn-Hóa Tư Tưởng do nhà xuất-bản Văn-hóa in năm 1980 và tái bản nhiều lần. Tập này (chỉ ra Tập 1, chưa thấy Tập 2) gồm 11 chương, nêu đích danh 11 nhà văn miền Nam để xóa bỏ sự nghiệp văn-hóa và văn-học của họ, những người theo họ là nguy hiểm nhất v́ ảnh-hưởng “di hại” lâu dài. 11 “biệt kích” đó là Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Doăn Quốc Sỹ, Nhất Hạnh, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Vơ Phiến, Hồ Hữu Tường và Nhă Ca. Bốn trong số đă thoát ra ngoài nước hoặc đă ở ngoài từ trước (NH), sáu c̣n lại bị bắt và cầm tù hai năm rồi có người bị bắt lại và tù lâu hơn hoặc chết trong nhà tù (NMC) hoặc vừa ra khỏi tù (HHT). Các vị bị gán đủ h́nh dung từ như “biệt kích, nguy hiểm, du đăng, bồi bút, v.v.”!

Để khích động thêm, năm 1982 tờ Tuổi Trẻ Sài-g̣n ra thêm cuốn Vụ Án Hồ Con Rùa mà người viết nó, Huỳnh Bá Thành, nằm vùng trước 1975, thêm thắt dựng chuyện tố cáo các nhà văn giật ḿn sát hại dân và âm mưu lật đổ cộng sản. Và để kết thúc đợt đầu, là tập Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (Công an nhân dân, 1986; TpHCM: Văn Nghệ TpHCM, 1994, bản sau tự kiểm duyệt những quá lố, bịa đặt), mang h́nh thức truyện v́ tên các nhân-vật đă cắt ngắn hoặc đổi, do công an Minh Kiên và Nam Thi viết. Nhà văn Hoàng Hải Thủy qua Mỹ theo diện HO đă phóng bút viết dựa theo tập này đăng báo Ngày Nay (Houston) sau in thành tập cùng tựa Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (Toronto: Làng Văn, 2000). Trong cuốn sau này, nhà văn họ Hoàng dùng ḿnh và vụ xử 8 nhà văn thơ về tội “gián điệp” - tất cả bị bắt tháng 5-1984 và vụ xử cuối cùng xảy ra năm 1986, làm điểm tham chiếu. Các vị kia là Doăn Quốc Sỹ, Dương Hùng Cường, Lư Thụy Ư, Nguyễn Thị Nhạn, Nguyễn Hoạt, Trần Ngọc Tự và ca sĩ Khuất Duy Trác. Thành thử “biệt kích” cũng có hai loại: biệt kích cầm bút “gián điệp” và biệt kích văn-hóa tư tưởng; nhà văn Doăn Quốc Sỹ là vị được cộng-sản sợ nhất nên ông được ... chăm sóc kỹ cho đến ngày ra đi đoàn tụ gia-đ́nh nhờ áp lực quốc tế! Trong hoàn cảnh căng thẳng thường trực của đời sống thời toàn trị đỏ (cấm đoán viết, di chuyển, liên lạc,...), Doăn Quốc Sỹ gửi Đi! in ở ngoài (Lá Bối, 1982), kư bút hiệu mới Hồ Khanh, với ghi chú “sáng tác quốc nội”, cũng như Thanh Tâm Tuyền, Hoàng Hải Thủy và một số nhà văn nhà thơ khác.

Đợt đầu có tính cách tàn bạo, vừa chính-trị vừa h́nh sự, vừa văn-hóa, tâm lư vừa kinh tế, xă-hội, với mục-đích hoàn toàn quật ngă h́nh hài và thân thế người văn-nghệ sĩ sống ở miền Nam Cộng ḥa. Sang đợt hai, lư trí được dùng đến dù tính toàn trị, cả vú lấp miệng em vẫn thịnh trị!






Đợt hai, giới phê b́nh nhập cuộc như Lê Đ́nh Kỵ với Nh́n lại Tư-tưởng Văn nghệ thời Mỹ ngụy (TpHCM: NXB TpHCM, 1987), nhưng người ta nói nhiều đến Trần Trọng Đăng Đàn v́ bộ sách 2 tập của ông, thật ra là một “luận án khoa học Matxcơva” “tiến sĩ 1 khoa học Ngữ văn” (1987), sau được thêm bớt và tái bản nhiều lần và luận án có là nhờ khởi mớm trước với tập Nọc độc Văn học Thực dân mới Mỹ (Tp.HCM : Tp.HCM, 1983). Bộ sách đó có tựa Văn-học Thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975 (Hà-nội : Sự Thật, t. 1-1988; t. 2-1991). Tái bản thêm trang đổi tựa là Văn-hóa Văn nghệ phục vụ Chủ-nghĩa Thực dân mới Mỹ tại Nam Viêt-Nam 1954-1975 (TpHCM; Long An: Thông tin, 1990). Hai lần tái bản gần đây sửa chửa thêm và đổi tựa thành Văn-hóa Văn nghệ Nam Viêt Nam, 1954-1975. (Hà-nội: Thông tin, 1993; HN: NXB Văn-hóa Thông tin, 2000).

Ông Trần Trọng Đăng Đàn dùng phương-pháp nghiên cứu lô-gích và bác phương-pháp lịch-sử để nghiên cứu giai đoạn 1954-1975 văn-học miền Nam này, v́ nếu dùng phương-pháp lịch-sử sẽ phải “bóp méo lịch-sử” và dĩ nhiên chấp nhận nền văn-học đó như là kế tục của nền văn-học Việt Nam truyền thống (1, tr. 12). Ngược lại, ông ta đề cao và coi như chính thống mảng “văn-học tự phát có chỉ huy” của những nằm vùng như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lê Vĩnh Ḥa,... thuộc Lực lượng bảo-vệ văn-hóa dân-tộc và các tờ Tin Văn, Nhân Loại, Công Lư, v.v. tức thứ văn tuyên truyền, dụng-văn cho chính-trị. Với phương-pháp lô-gích, ông phân biệt ba loại văn-học ở miền Nam trong đó loại “văn-học phản động về chính-trị” được chiếu cố tận t́nh, một cách hằn học và phản ... văn-học! Nhất Linh được TTĐĐ tả là “một tay cầm bút phản động trộn lẫn với hoạt động chính-trị phản động mà tên tuổi đă gắn liền với những đảng phái phản động và vơ biền, với những vụ tống tiền man rợ năm 1946 (...) lợi dụng danh nghĩa là một thành viên của chính phủ lâm thời ... đi dự hội nghị Đà lạt đă đánh cắp mấy triệu bạc quỹ công để trốn chạy theo quân Quốc dân đảng Tàu” (1, tr. 82). Tấn công và loại bỏ cả những nghiên cứu văn-học của miền Nam về các thời chữ Hán và Nôm và về văn-học cổ-điển thế giới, ông cảnh cáo là “trận đồ bát quái”. TTĐĐ tức tối khi đề nghị trao đổi văn-hóa của Hà-nội đầu năm 1960 bị các nhà văn, giáo sư của miền Nam chống và hạ giá “văn-hóa” của chế độ cộng-sản miền Bắc, cũng như cố căi là miền Nam đă “phóng đại” vụ “Nhân Văn giai phẩm”!

Trần Trọng Đăng Đàn kết thúc với việc đề cao những khóa “bồi dưỡng chính-trị và văn nghệ” như là ân huệ của cách mạng, v́ cho rằng văn nghệ miền Nam thời này “có tính chất phản động, tồi bại của văn nghệ dưới chế độ thực dân mới - một thứ văn nghệ phục vụ cho chiến-tranh tâm lư, động viên thanh niên đi lính, đánh thuê cho Mỷ, xuyên tạc, bôi nhọ cách mạng, đầu độc nhân dân, đẩy thanh niên vào con đường trụy lạc, du đăng, đĩ điếm, lưu manh, làm băng boại truyền thống tốt đẹp của văn-hóa dân-tộc, chạy theo thị hiếu thấp hèn để mưu việc trục lợi ...”. Theo ông ta, văn nghệ miền Nam bị ba khủng hoảng: “thiếu cơ sở triết lư xuyên suốt (trước học truyết Mác-Lê), thiếu lư tưởng chính-trị và thiếu hiện thực xă-hội ổn định theo một mô h́nh lư tưởng”, v́ cũng theo ông, văn nghệ sĩ miền Nam “ẩn náu trong mặc cảm tội lỗi, trong chiêu bài tự do giả hiệu, trong ảo tưởng về tinh thần nhân-đạo dưới chiêu bài lên án chiến-tranh, ẩn náu trong ngộ nhận có tham gia phản ánh hiện thực xă-hội, và cuối cùng, ngộ nhận rằng họ có đóng góp, có t́m ṭi, sáng tạo về mặt h́nh thức nghệ thuật cho văn-học nước nhà” (1, tr. 102-112). Với ông, nội dung là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của tác-phẩm văn-học và cả h́nh thức nghệ thuật, “ta đ̣i hỏi hai mặt đó đều phải tốt một trăm phần trăm”. Dĩ nhiên, ông ta đă dùng cái phương-pháp lô-gích để đi đến kết luận như thế và đồng thời tự hào về thành quả của “nền” văn-học minh họa và bạo động của họ! Tự hào và dạy dổ này, sau 1987 sẽ bị chính người văn nghệ sĩ trong nước quay mặt, chối bó! Vậy mà khi soạn tập 2 vào năm 1990, ông ĐĐ này vẫn cường điệu chống v́ sợ “xảo quyệt của bọn cầm đầu văn hóa thực dân mới” hô hào “việc loại trừ những tàn tích ‘văn-hóa’, ‘văn-nghệ’ thực dân mới cũng là điều kiện quan trọng để tiếp sức cho những ai thực tâm vươn tới cái thiện”(2, tr. 119) khi Hội Nhà Văn phải ra thông báo cảnh giác hội viên trước “t́nh trạng hỗn loạn sách nguy hiểm làm ngă ḷng những người cầm bút chân chính”. Hội Nhà Văn này cũng là hội được hội viên Nguyễn Huy Thiệp chiếu cố vào đầu năm 2004 qua loạt bài “Tṛ chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn” trên báo Ngày Nay (Hà Nội).

Đầu tháng 6 năm nay 2008, một cuộc tranh luận và lời qua tiếng lại trên diễn đàn Talawas từ khi ông Nguyễn Trọng Văn đưa lên bài viết “Một sĩ nhục cho trí thức”. Lữ Phương xông trận và kết thúc nhanh chóng với “Nói thêm một lần để không nói nữa” (8-7-08) tự biện minh cho việc ông điều hành ban thanh lọc văn nghệ phẩm nằm trong ‘chính sách khủng bố’ văn-hóa miền Nam (Nghị định 20-8-1975) và việc biên soạn cuốn Cuộc Xâm Lăng Về Văn Hoá Và Tư Tưởng Của Đế Quốc Mĩ Tại Miền Nam Việt Nam (1981). Hai ông đều muốn chối bỏ vai tṛ của họ trong việc xóa bỏ văn nghệ tự do khai phóng của miền Nam trước ngày 30-4-1975 cũng như bắt bớ giam cầm không xét xử các nhà trí thức và văn nghệ miền Nam. Riêng Lê Đ́nh Kỵ, soạn-giả cuốn Nh́n Lại Tư-Tưởng Văn Nghệ Thời Mỹ Ngụy (1987) nói ở trên, đă không nhắc lại công tŕnh này trong danh sách tác-phẩm của ông. Đỗ Đức Hiểu cũng vậy đối với cuốn Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa (Văn Học, 1978) của ông.

Ở trong nước, ‘chính sách khủng bố’ văn-hóa miền Nam đó đă thật sự chấm dứt 21 năm sau thời ‘đổi mới’ chưa? Câu trả lời là c̣n, c̣n ít hay nhiều th́ ‘chính sách khủng bố’ vẫn hiện diện, Ít hay nhiều vẫn là Có chớ không phải là Không! Sách báo miền Nam đă thật sự được in lại ở trong nước chưa? Câu trả lời vẫn là một phủ-định. Ngoài các sách dịch, kinh kệ, sách ‘học làm người’, nghiên cứu lịch-sử xa xưa, các truyện t́nh vô thưởng vô phạt hay xă hội thời Pháp thuộc,... th́ các tác phẩm khác vẫn c̣n có vấn đề: Vũ Hạnh và một số quan chức to tiếng gần đây khi nhà Phương Nam muốn in lại mấy tập truyện của Dương Nghiễm Mậu và một của Lê Xuyên, v.v.

Trong ‘học phần’ hiện nay về “văn-học các đô thị miền Nam (1954-1975)” thuộc khoa Ngữ Văn Đại học Đà-Lạt (3), ở mục ‘Văn-học thực dân mới’, sinh viên hăy c̣n được … dạy về hai khuynh hướng chủ yếu là ‘khuynh hướng văn học phản động’ với những tác-giả Nguyễn Mạnh Côn, Doăn Quốc Sỹ, Vũ Khắc Khoan, và ‘khuynh hướng văn học đồi trụy’ với những Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Nhă Ca, Túy Hồng, ‘văn học vừa phản động vừa đồi trụy’ với Nguyễn Thụy Long, Mai Thảo, Chu Tử! Phần kết của ‘học phần’ nhắc qua về văn-học Việt-Nam hải-ngoại như sau: ‘thời kỳ đầu lố bịch, trơ trẽn, thời kỳ sau nhớ quê hương, thân phận di tản”!

Thời gian xảy ra tranh luận trên Talawas, tờ Thanh Niên trong nước số ra ngày 30-5-2008, đăng tin “Tác phẩm trước 1975 ở miền Nam: Không cấm xuất bản, nhưng phải lựa chọn” thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông qua buổi trả lời trực tuyến với chủ đề “Hoạt động xuất bản, in, phát hành sách Việt Nam góp phần nâng cao dân trí, đổi mới và xây dựng đất nước” được tổ chức hôm 29-5 tại Hà-Nội, khi trả lời câu hỏi về việc tái bản, xuất bản những tác phẩm trước năm 1975 ở miền Nam Việt Nam không do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam cho phép, đă cho biết “đối với những tác phẩm thuộc loại này, pháp luật Việt Nam (bao gồm cả Luật Xuất bản) không cấm xuất bản. Tuy nhiên, khi khai thác các tác phẩm này để giới thiệu đến bạn đọc phải lựa chọn những tác phẩm phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Khi công bố các tác phẩm trên phải tuân theo các quy định của Luật Xuất bản”. Như vậy, di sản của các chính sách này hăy c̣n thời sự tính, v́ vẫn c̣n đó dù không c̣n công khai thừa nhận - lại ‘đổ tội’ cho ‘Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam’, dù đă hơn 20 năm ‘đổi mới’, đất nước và người dân Việt-Nam vẫn chưa thấy biết thế nào là ‘glasnost’ vốn là đứa con sinh đôi với perestroika và của thật sự kinh tế thị trường! Phải chăng ở các chế độ chuyên chính và độc đảng, Sự Thật chỉ có thể t́m thấy trong những phần hồi kư bị kiểm duyệt cắt bỏ, như hồi kư của Đào Duy Anh (Nhớ Nghĩ Chiều Hôm), Nguyễn Hiến Lê, Lư Quư Chung, v.v., hay những thơ văn viết cuối đời hoặc chỉ công bố sau khi mất, như của Chế Lan Viên (Di Cảo Thơ), Nguyễn Khải (Đi t́m cái Tôi đă mất, tùy bút chính-trị), v.v. ?

Chuyện cấm đoán, đốt sách báo miền Nam mục-đích “đạp đổ” văn-hóa miền Nam, để làm mất tinh thần, để ai c̣n lưu luyến phải sợ hăi, lo lắng thường trực, c̣n để giảm thiểu những phản kháng, chống đối và gieo nghi ngờ, để mọi người quên đi lịch-sử, quên những thứ mà “văn-hóa mác-Lê” không thể đem lại cho người dân. Nhưng mục-đích ấy có thành công không? Hay sự thật vẫn là sự thật?



Sau Cởi Trói 1986


Với những biến-động xáo trộn đến căn bản cục diện thế-giới của thời hậu-chiến-tranh-lạnh (perestroiska 1985, bức tường Berlin, Thiên An Môn 1989), trong nước phải “đổi mới” dù dè dặt đổi có vẻ mới đến đổi như cũ, phải “cởi trói” văn nghệ sĩ, dù cởi rồi trói nhưng dần dà cũng có những thay đổi thật, khởi từ tâm trí, ư chí đưa đến hành động. Những Nguyễn Huy Thiệp và Nguyên Ngọc tận dụng kẻ hở Cởi để nói cái riêng, cái “trật đường rầy”, những phản tỉnh chính-trị và đào thoát từ đó đă xảy ra. Nhà văn Nguyên Ngọc là người đă công khai hóa cái phản tỉnh này, trong “Đề cương đề dẫn thảo luận ở hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học”vào tháng 6-1979 (nhưng chỉ được in trên báo Lang Bian số 3, 4-1988, 9 năm sau!), ông đă đặt nghi vấn :”... Phải chăng lúc này có hiện tượng không ít phổ biến là người viết, vẫn cứ viết mà không thực tin ở chính điều ḿnh viết ra: người là muối mà chính người lại không mặn th́ biết lấy ǵ để muối người...”. Cũng từ đó ở trong một quốc-gia toàn-trị độc đảng mới có những ấn-phẩm in ra bị thu hồi rồi in lén, mới có hiện-tượng in sách hoặc của tác-giả từng bị cấm hoặc đang “phản bội” lại Nhà Nước. Không ǵ ra ngoài ṿng dịch-lư của trời đất, khi ra nghị định và chiến dịch hủy hoại, bôi xóa văn-học “phản động, thực dân mới Mỹ Ngụy” là đă gây mầm hồi sinh, tưởng tiếc cho nền văn-học và những con người làm văn-học thời đó. Vào Nam, Dương Thu Hương và những người làm văn nghệ của miền Bắc đă công khai hoặc gián tiếp nh́n thấy và cảm nhận sự thật và những cái đẹp, cái hay của cuộc đời và con người nơi đây!

Nhưng người cộng-sản Việt-Nam vẫn dùng Đảng cộng-sản như lá bùa để tiếp tục bắt bớ, cầm tù dân chúng cũng như người làm văn-nghệ thời trước 1975. Dù đă tuyên truyền Cởi Trói văn-nghệ từ cuối năm 1986, nhưng vào cuối năm 1990, công an cộng-sản vẫn lại bắt bớ những nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, Hồ Nam, Phạm Thái Thủy, các nhà thơ Vương Đức Lệ, Tô Thùy Yên, cùng Đoàn Viết Hoạt, dân biểu Nguyễn Mậu, v.v.

Mặt khác, những người làm văn nghệ miền Nam bị định mệnh xếp vào hàng “thua trận” đă không có ai viết để tự chối bỏ và trát tro bạn bè cùng hoàn cảnh; trái lại có người như Nguyễn Hiến Lê trước có cảm t́nh với “cách mạng” nay viết Hồi-kư phê phán và tỏ hối hận. Sống trong một chế độ như vậy, đánh giá các văn nghệ sĩ là một việc khó khăn và đầy tế nhị! Sau khi có chính sách “đổi mới”, từ 1988, đă có những nổ lực thẩm định lại những tác giả và tác phẩm từng bị kết án là phản động (và có cả tác giả bị thủ tiêu!): Trương Vĩnh Kư, Hồ Biểu Chánh, Tự-Lực văn-đoàn, Nam-Phong tạp-chí, phong trào Thơ Mới,... Nghĩa là trước khi “cho phép” “mồ ma miền Nam” được quật làm ... khảo cổ, đă có những “mồ ma, cô hồn” khác được khai quật trước, v́ lần hồi đă có những nhà nghiên cứu đi trước rồi nhà báo, nhà văn theo sau, dám “cởi mở” hơn khi nhắc đến và bàn đến những tác-giả nhiều thập niên trước đó vẫn có “vấn đề” chính-trị, cách-mạng, cải lương xă-hội, v.v. như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Quang Dũng, các tác-giả thuộc nhóm Tự Lực Văn đoàn, Tân Dân hay Nam Phong tạp-chí, cũng như các tác-giả miền Nam như Trương Vĩnh-Kư, Hồ Biểu-Chánh, v.v. Đoàn Phú Tứ và bài thơ Màu Thời Gian được “phục hồi”, hết bị “oan” đă “rơi vào hố thẳm của nghệ thuật tư sản bế tắc”!

Những “tọa đàm” và hội nghị gọi là “khoa-học” được liên tục tổ-chức dù giới lănh đạo văn-hóa vẫn chưa theo kịp thời đại: về Tự Lực văn đoàn 1988, về văn-học miền Nam thời khởi đầu ở trong Nam 1989, về Hồ Biểu-Chánh tại Tiền giang 1988, tọa đàm“Trương Vĩnh-Kư với vấn-đề văn-hóa” tại Sài-g̣n 8-2001, v.v. Một số tuyển tập từ các hội nghị này được xuất-bản đánh dấu những sửa sai, nói lại, đánh giá lại, có thể kể: Truyện Ngắn Nam Phong; Tự Lực Văn Đoàn: con người và văn-chương (1990); Tự Lực Văn Đoàn Trong Tiến Tŕnh Văn Học Dân Tộc (2000),... Các nhà nghiên cứu văn-học như Vũ Gia xuất-bản các nghiên cứu của ông về Nhất Linh, Hoàng Đạo (1997), v.v. Một số nghiên cứu và lư luận gia cộng-sản thay đổi lập trường 180 độ, viết lại theo quan điểm mới những ǵ chính họ đă viết thời trước đó. Nhất Linh được đề cao là “một tấm ḷng thiết tha canh tân văn-hóa dân-tộc”, tựa một nghiên cứu trên tờ văn-hóa nghệ-thuật (242, 8-2004). Phạm Cự Đệ, một văn-học sử gia, từng xổ toẹt giá trị của Tự Lực văn đoàn, Vũ Trọng Phụng, phong trào Thơ mới,... trong những nghiên cứu Tiểu Thuyết Việt Nam Hiện Đại (1974-5), đă gọi Xuân Thu Nhă Tập là “nghệ thuật tắc tị, kín mít, khó hiểu”(4), nay lập luận (nghịch) lại theo Cởi trói. Năm 1989, ông theo thời “hội luận, hội thảo” nh́n khác về Tự Lực văn đoàn “có hoài băo về một nền văn-hóa dân-tộc và thực sự đă đóng góp lớn cho nền văn-học dân-tộc”(5). Khoảng năm 2000, ông đăng báo hải-ngoại đánh tiếng thu góp ấn-phẩm của người Việt hải-ngoại để ... nghiên cứu và viết lại lịch-sử văn-học cả thế-kỷ. Một tập tổng luận Văn-Học Việt Nam Thế Kỷ XX: những vấn-đề lư-luận và lịch-sử do ông chủ biên được nhà xuất-bản Giáo dục in năm 2004 (971 tr.) trong đó các soạn giả đă “thừa nhận” vài vị ở hải-ngoại như Nguyễn Mộng Giác, Nam Dao, Thụy Khuê, Đặng Tiến, Nguyễn Hưng Quốc,... Thơ hải-ngoại và vài khuynh-hướng mới cũng được nhắc nhở tới! Về phần các nhà văn ở miền Nam trước 1975, họ được nói đến nhưng chưa đủ tầm quan trọng đóng góp của họ! Dù sao, đă có khác với những tổng kết trước đó như Nh́n Lại Một Chặng Đường Văn-Học (Nxb TPHCM, 2000) của Trần Hữu Tá. Theo tập này th́ trong 21 năm (1954-1975), người cộng-sản và nằm vùng thân Cộng vẫn độc diễn và đóng vai chính, người cầm bút quốc-gia chân chính vẫn bị phỉ báng, kết án, nhưng nhiều nhà văn thơ không làm chính-trị đă được Trần Hữu Tá đưa vào ... sử, như các nhà văn Vơ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, nhà thơ Kim Tuấn, v.v. hoặc “lôi kéo” rất phớt qua như B́nh Nguyên Lộc, Nhật Tiến (tr. 96)!







Ngoài các tác-phẩm được tái bản riêng từng tập, các tác phẩm của các tác giả thuộc Tự Lực văn-đoàn và tiền chiến đă được in lại lần đầu trong tuyển tập Văn Xuôi Lăng Mạn Việt Nam (1930-1945) (1989-90, gồm 8 tập), sau đó có bộ Văn Chương Tự Lực Văn-Đoàn (1999) 3 tập. Một số tác-giả trước đó từng bị phê phán, cấm đoán xuất-bản và sinh hoạt, từ những năm kháng-chiến 1945 đến khoảng 1987, những nhà văn liên hệ đến vụ án Nhân Văn giai-phẩm hoặc xét lại như Quang Dũng, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Vũ Trọng Phụng, Đoàn Phú Tứ, Hàn Mặc Tử,... người đă quá cố người c̣n sống (ṃn) lần lượt được xét lại, từ 1988, được các cơ quan báo chí và hội của Nhà Nước nhắc nhở tên tuổi hoặc được xuất-bản công khai (Quang Dũng, Đặng Đ́nh Hưng,...) hoặc t́nh cờ, kiên tŕ (Phùng Cung với tập thơ Xem Đêm 1995; Hoàng Cầm với Mưa Thuận Thành 1988, c̣n tập Về Kinh Bắc th́ chờ từ 1959 đến 1994 mới được xuất-bản dù vẫn có điều kiện!), v.v. Các tác-phẩm gọi là “di tác” của Ngô Tất Tố thời tiền-chiến đă được tuyển in lại toàn bộ (!) từ những công tŕnh t́m kiếm từ nhiều năm qua, ở trong nước cũng như qưa các thư viện và văn khố của các nước như Pháp, Hoa-Kỳ. Một công tŕnh khá đồ sộ, chia thành nhiều tập: Ngô Tất Tố - Chuyện Người Đương Thời, Kư Sự và Truyện Ngắn, NTT - Tiểu Phẩm Báo Chí, NTT - Thơ, Thơ dịch và B́nh thơ, trong đó có nhiều nghiên cứu cũng như sáng-tác, dịch thuật mà nhiều người thời sau chưa hề được đọc. Và về biên-khảo văn-học, trong nước đă xuất-hiện rất nhiều công tŕnh mới. Bên cạnh những tuyển tập xào soạn lại từ những ấn bản trước vẫn có những biên-khảo văn-học sử và phê-b́nh lư luận có giá trị thông tin và lịch-sử. Một số tên tuổi về nghiên cứu và lư luận phê b́nh ở hải ngoại được nhắc đến, tham khảo, trích dẫn nhưng đáng tiếc có vài “nhà nghiên cứu, phê b́nh” ở trong nước đă trích dẫn, “luộc” ư và cả cắt/dán bản văn của người ở ngoài - mà cá nhân chúng tôi cũng đă ‘nhận diện’ bản văn và ư của ḿnh trong một số bài viết và sách ở trong nước.

Nhưng cũng từ đó, một số giáo sư, nhà văn của chế độ Việt Nam Cộng-ḥa được tham khảo, lên tiếng hoặc nghiên cứu công khai trở lại, những giáo sư Nguyễn Văn Trung, Bằng Giang, Vũ Văn Kính,... Một số nhà văn thơ miền Nam cũ bắt đầu cộng tác hoặc gửi đăng bài trên các báo và cuối cùng th́ xuất-bản sách công khai như 30 năm trước, của những Lê Phương Chi (Tâm T́nh Văn-nghệ Sĩ - những phỏng vấn trên Bách Khoa và Tin Sách thập niên 1960, tiếc là văn bản đă ‘hiệu đính’ lại), Thế Phong (kư Thế Nhật), Nguyễn Tôn Nhan nhà thơ thành học giả (Từ Điển Văn Học Cổ Điển Trung Quốc, Từ Điển Thành Ngữ Trung Quốc, Từ Điển Hán Việt: Văn ngôn dẫn chứng, Kinh Lễ, v.v.), Huỳnh Phan Anh (Không Gian Và Khoảnh Khắc Văn Chương tuyển trích lại những bài từ hai tập trước 1975 và bài mới viết về các tác giả ngoại quốc), v.v. Về phần sáng tác tái xuất những Cao Thoại Châu (Bản Thảo Một Đời, 1991), Nguyễn Bắc Sơn (Đời Như Một Nhà Thơ Đông Phương 1995), Huy Tưởng (Hỏi Đường Cùng Mây Trắng,..), Trần Dzạ Lữ (Hát Dạo Bên Trời 1995) và Gọi T́nh Bên Sông 1997 được xuất bản sau hơn 30 năm góp mặt với làng thơ), Ngy Hữu (Thị Trấn Khô, được thân hữu xuất bản sau khi mất), v.v. Cả xuất-bản và gửi tác-phẩm ra ngoài nước một cách công khai hơn trước đó: Nguyễn Thụy Long xuất-bản nhiều tập Hồi Kư Viết Trên “Gác Bút” 1999, Thuở Mơ Làm Văn Sĩ 2000, Giữa Đêm Trường 2000, Thân Phận Ma Trơi 2000,..., Thế Phong gửi xuất-bản Hồi Kư Ngoài Văn-Chương, Văn Quang gửi bài đăng trên Internet, trở thành giây liên lạc trong ngoài, giúp vài nhà văn và xuất-bản Sài-g̣n Cali 25 Năm Gặp Lại 2000, Ngă Tư Hoàng Hôn 2001, các phóng sự tiểu-thuyết Lên Đời 2004-5, v.v. Ở đây chúng tôi không muốn nói đến “tác-phẩm” của những nhà văn thơ theo cộng hoặc nằm vùng v́ dĩ nhiên được trả công nhất là những năm đầu sau 1975. Nay th́ “chân dung” nhiều người trong số đó đă phải nhiều tang thương khác!

Kế đó là hiện-tượng sách và sách dịch của các nhà văn sống thời Việt Nam Cộng-ḥa từng bị cấm, nay được t́m kiếm để in lại.Chúng tôi không tham khảo được thư-mục ấn phẩm hàng năm của Thư Viện quốc-gia Hà-nội, nhưng cũng được thông tin về hiện-tượng này. Các tác-giả của miền Nam lần hồi được in lại, bắt đầu với Thế Uyên, Nguyễn Mộng Giác với bộ Sông Côn Mùa Lũ (Hà-nội: Văn-học, 1998) - đă là một “biến cố” (không văn-học dĩ nhiên!) cùng thơ và sách Bùi Giáng, truyện Ngọc Linh, B́nh Nguyên Lộc, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ,... Các nghiên cứu văn-hóa dĩ nhiên được dùng lại, cả trang trọng giới thiệu, như của Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục,... Vấn-đề nay không c̣n là in được hay được in mà là vấn-đề bản quyền! Khi có dịp “tham quan” nước ... cựu-thù Hoa Kỳ và Pháp, nhiều người đến các thư viện quốc-gia và đại-học tham khảo và cả lợi dụng chụp phóng ảnh đem về trong nước in lại. Thử hỏi nếu không có những “tên” thực dân mới (HK) cũ (Pháp) giữ hoặc tặng cho các văn khố và thư-viện th́ gia tài văn-hóa Việt Nam làm sao t́m lại được từ những tro tàn “phần thư” thời đại mới gây ra?

Cũng cần nói đến hiện-tượng sách miền Nam ấn bản in trước 1975 từng bị cấm (và đốt) nay đă (tái) xuất hiện ở các thư viện đại học trong nước như ĐH Sư phạm Sài-g̣n. Xin ghi lại vài tựa sách: Chiến Tranh Cách Mạng: tiểu luận và tài liệu (Thế Uyên. Sài g̣n: Thái Độ, 1968, số định danh: 355.4 TH250U-ch); Tổng Thức Vận Toàn Diệu: vận mệnh ḍng tổng hợp các nhận thức toàn (Lư Đại Nguyên. Sài g̣n: Lư Đại Nguyên, 1956, số định danh: 181.197 L600NG-t), Mối t́nh màu hoa đào (Nguyễn Mạnh Côn. Sài g̣n: Giao Điểm, 1967), toàn bộ của Nguyễn Văn Trung và Nghiêm Xuân Hồng trong có Cách mạng và Hành động (Quan điểm, 1964, số định danh: 909.7 NGH304H-c), cũng như một số sách của Tạ Tỵ (2), Doăn Quốc Sỹ (13), v.v. Nếu không có sách của người và đảng cộng-sản Việt Nam bên cạnh th́ người mơ ngũ sẽ tưởng đang ở Sài-g̣n ... trước 1975!

Gần đây nhiều nhà văn chúng tôi biết đă in sách trong nước (rẻ và đẹp hơn) từ thơ đến truyện, như Phạm Ngọc (Mùa Khát Vọng, NXB Đà Nẵng, 2004). Nguyễn Ước đă in lại nhiều bản dịch về tôn giáo và văn-hóa. Đấy là nói về sách xuất-bản hoặc tái bản đàng hoàng hoặc cửa sau, chưa kể đến những vụ “luộc sách” (in ăn cắp sách)! Nguyễn Thị Thanh B́nh có ghi trên b́a tập truyện Dấu Ấn xuất-bản 2004 rằng bà từng in chui ở Việt Nam. Nhà thơ Phan Nhiên Hạo (Chế Tạo Thơ Ca 2004) gần đây đă gửi đăng thơ trên báo trong nước (Người Hà-Nội,...) và được trân trọng giới thiệu với người đọc trong nước (Văn-Nghệ Trẻ, 25-2-2005). Trần Thiện Đạo sống ở Pháp và từng cộng tác tạp-chí Văn thời Trần Phong Giao cũng xuất bản Chủ Nghĩa Hiện Sinh Và Thuyết Cấu Trúc(NXB Văn học 2002) và Cửa Sổ Văn Chương Thế Giới (NXB Văn hoá Thông tin, 2003). Một số khác trước sau về Việt-Nam lại ngỏ ư muốn về sống ở trong nước!? Nguyễn Quốc Trụ về trong nước lên báo trong đề cao cái trong. Nhà thơ Du Tử Lê về nhưng tuyển tậpThơ T́nh (NXB Văn-nghệ TP HCM, 2005) của ông đă in và được Trần Mạnh Hảo, v.v. trân trọng giới thiệu đă xuất lại bị tịch thu và cấm! Yên Tử cư-sĩ Trần Đại Sỹ (Nam Quốc Sơn Hà 2003, Anh Hùng Tiêu Sơn NXB Trẻ 2003, Anh Hùng Đông A Dựng Cờ B́nh Mông2004),... xâm nhập thị trường tiểu-thuyết lịch-sử trong nước. Nhiều người viết ở Đông Âu từng đi lao-động và tị-nạn nay xuất-bản trong nước: Nguyễn Văn Thọ in thơ Mảnh Vỡ, Cửa Sổ, Bên Kia Trái Đất, tập truyện Gió Lạnh, Vàng Xưa (2004), giải thưởng của báo Văn Nghệ, hội Nhà văn Việt Nam và báo Văn nghệ Quân đội, tập tùy bút Đào Ở Xứ Người (2005), Lê Minh Hà xuất-bản các tập truyện Gió Từ Thời Khuất Mặt và Thương Thế Ngày Xưa (2005) và Những Giọt Trầm sau khi đă thành công với độc giả Việt Nam ở hải-ngoại; Phạm Hải Anh, giải thưởng của hội Nhà văn Việt Nam 2003 với Đi Hết Đường Mưa (bạt Vương Trí Nhàn, NXB Hội Nhà văn 2002) sau Huyết Đằng 2001 in ở Cali do nhà Văn Mới (và T́m Trăng Đáy Nước 2003) - hai nhà văn nữ này in chung tập truyện Sâm Câm (NXB Phụ Nữ 2004), Thế Dũng với Hộ Chiếu Buồn, v.v. Thuận sống ở Pháp, sau khi in Made in VietNam, Paris 11 tháng 8 vàChina Town / Phố Tàu (NXB Đà Nẵng, 2005) được Nguyên Ngọc đề cao, tự xem như nhà văn trong nước. Nguyễn Ḥa gần đây khi phê b́nh tập Văn-Học Việt Nam Thế Kỷ XX của Phan Cự Đệ đă đặt nghi vấn: “...với văn học của người Việt ở hải ngoại chẳng hạn, khi mà trong những năm gần đây, tác phẩm của một số nhà văn lâu nay đă định cư ở nước ngoài như Nguyễn Mộng Giác, Thế Dũng, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Quỳnh Trang Cindi Nguyen, và gần đây nhất là của Thuận... đă được xuất bản trong nước th́ có nên, dù chỉ là bước đầu, bàn đến văn chương của người Việt ở hải ngoại?” (evan.com, 31-3-2005).

Biên-giới trong-ngoài có c̣n không? Một số dùng tiền mua bảng hiệu nhà xuất-bản trong nước để in sách đem từ ngoài về, số khác người trong cuộc mới biết như Nam Dao (Trăng Thuê Ảo Ảnh NXB Lao Động và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây 2008), Mai Ninh (Ảo Đăng 2003, do Nguyên Ngọc đề tựa - lại Nguyên Ngọc!) - tất cả đều do Hội Nhà Văn Hà-nội xuất-bản. Mai Ninh in thêm Cá Voi Trầm Sát (Nxb Trẻ, 2004). Hai cây viết “du học” này đi theo khuynh-hướng thời thượng ngoài-in-trong của nhiều nhà văn đi trước. Thực hư lịch-sử sẽ phán nhưng chúng tôi ước đoán mấy “trí thức” ngụy-tín và dân du học từng phản chiến hoặc thờ ma cộng-sản trước 1975 sẽ là nhóm ra mặt tung hoành mảnh đất lắm người nhiều ma của thị trường chữ-nghĩa ở hải-ngoại cũng như trong nước và mặt trận đă... bắt đầu! Ngoài ra, “mảng” văn-chương “thuần túy, vị nghệ-thuật” đă có nhiều giao lưu, hợp tác. Các tạp-chí Thơ, Văn Học, Hợp Lưu, v.v. đă là nơi gặp gỡ thường xuyên. Tuy nhiên “mảng” “văn-học đấu tranh” là mảng nhiều cảm tính và lư tưởng sống chết th́ trong hay ngoài nước vẫn là những con đường rầy xe lửa không ga bến. Trong hoàn cảnh giao thời đó, nhóm Thư Quán Bản Thảo ở Hoa Kỳ đăng thơ văn trên tạp-chí cùng tên và xuất-bản các tập thơ và truyện của một số thân hữu (của họ) đang sinh sống khó khăn hoặc bệnh tật trong nước hoặc đă mất. Các số đặc biệt về nhà văn Y Uyên, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Nguyễn Bắc Sơn, Vơ Hồng, Trần Dzạ Lữ, v.v. và tái bản một số tập thơ văn như Chiến-Tranh Việt Nam Và Tôi của Nguyễn Bắc Sơn, v.v. Ngoài ra, Thư Ấn Quán đă đặc biệt sưu tập và xuất-bản các tuyển tập thơ văn như Tuyển Truyện Thời Chiến của Y Uyên, Một Thời Ư Thức, Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thơ Tự Do Miền Nam, Thơ T́nh Miền Nam (1954-1975), Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến, v.v.

Ở trong nước, lư luận thay đổi và ngôn-ngữ sử-dụng cũng đă thay đổi theo thời. Những từ “Ngụy, Mỹ Ngụy, bù nh́n, thực dân mới, v.v.” dần mất trong diễn văn chính thức, chỉ sử-dụng khi cần cảnh cáo hay lo sợ phản-kháng. Mỹ trở thành bạn làm ăn, trao đổi thương mại sau trao đổi giáo dục, xă-hội! Việt kiều “đĩ điếm” trở thành “khúc ruột ngàn dặm” được nâng niu, nhắc nhở mỗi khi nói đến ... tiền, kinh tế và ... tái thiết! Nghĩa trang Quân đội Biên Ḥa có thể sẽ được trùng tu. Nguyễn Cao Kỳ về nước mối lái cho tư bản Mỹ, quay mặt lại đồng đội của ông với vài tuyên bố scandale. Thiền sư Nhất Hạnh cùng phái đoàn cả trăm người cũng về nh́n lại quê hương th́ đă trễ, họ không c̣n có cơ hội chứng kiến các trại “cải tạo” và vùng “kinh tế mới”, lúc đó mà họ về giảng thuyết nhân bản, từ bi th́ đă quá đắc sách và lưu lại hậu thế một tấm gương không nứt rạn được! Ngoài ra, những trục trặc đối với tập Thơ T́nh của Du Tử Lê và vụ Nguyễn Hưng Quốc bị cấm nhập cảnh vào giờ chót ở phi trường cũng đáng gây suy nghĩ về “diễn văn” và luật lệ của lănh đạo và quan chức trong nước!

Tựa sách của nhà lư luận cộng-sản Trần Trọng Đăng Đàn nói trong phần đầu bài này được đổi từ “ Văn-học thực dân mới Mỹ ở miền Nam” ra “Nam Việt Nam” khi tái bản năm 1993 và 2000 một cách ... “nhẹ nhàng”! Dù vậy, ông này mới đây vẫn giật ḿnh đ̣i hỏi ... lùi: trong một hội thảo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh đă tổ chức cuộc về Lư luận - Phê b́nh vào 20-3-2004, TTĐĐ đă cảnh giác đồng nghiệp và chỉ đạo: “Lượng thông tin tổng hợp hôm nay lớn. Tổ chức Hội đồng LLPBTƯ là cần thiết, nhưng tổ chức “chóp bu” chưa nắm được lực lượng, tổ chức được lực lượng. Vấn đề hiện nay nằm ở phần lư luận. Trước kia tập trung đánh giặc, chín bỏ làm mười. Hiện nay, trong các giảng đường ta giảng về lư luận thế nào? Ta phải có một êkíp nắm được, hiểu được đối tác, đối đầu là ai để làm việc. Có một số người quá khích ở nước ngoài nói rằng: “Về văn hoá các anh thua rồi, bây giờ không c̣n ǵ để nói nữa”. Có thật vậy không?”. Chính-trị th́ có lư do để lo xa và paranoi, c̣n toàn trị ngày nào th́ không lạ ǵ những biện pháp đối với văn nghệ sĩ!

Ở trong nước, từ hơn mười năm nay, những người nghiên cứu của nền văn học vẫn nổi tiếng là “một chiều, phải đạo, minh họa” đă có những cố gắng thay đổi cách nh́n và cách nghiên cứu. Không dễ! Hội thảo của Hội đồng lí luận phê b́nh văn học, nghệ thuật trung ương ngày 14-1-2005, tại Hà-Nội, vẫn loay hoay trong địa-đạo quản-lư chỉ-huy “... quan hệ giữa chính trị và văn nghệ là vấn đề có tầm quan trọng cần được chú ư nghiên cứu một cách sâu sắc, thuyết phục. Bản chất ư thức hệ của văn nghệ là điều không thể phủ nhận. Nhưng mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị nằm trong các mối quan hệ nhiều mặt giữa văn nghệ và văn hoá, kinh tế, đời sống v.v& tự thân nó cũng là quan hệ nhiều chiều. ở đây cần tránh các quan niệm cực đoan, đi t́m văn nghệ thuần tuư, hoặc xem văn nghệ chỉ là vũ khí phục vụ một cách thô thiển cho chính trị” (Văn Nghệ, 25-2-2005).

Từ hai thập niên qua, chữ nghĩa văn chương bị kinh tế thị trường xô đẩy, biến dạng, nhường chỗ cho một chợ sách báo đáp ứng những nhu cầu mở tầm mắt, học hỏi kiến thức ngoài sau nhiều thập niên bị cấm đoán, đưa đến nhu cầu sách báo phổ thông, kiến thức tổng quát, thường là những bản dịch từ sách báo Âu Mỹ trong số đă có những bản dịch từ nhiều thập niên trước đó ở miền Nam Cộng Ḥa mà đă từng trớ trêu bị đốt hủy và cấm sau tháng 4-1975 như của các tác giả J.-P. Sartre, A. Camus, E. Caldwell, F. Nietzche,..., như sách y học phổ thông, sách “học làm người”, “tổ chức khoa học” đời sống, công việc,... Văn học rút gọn lại trong những ấn phẩm tuyển tập về những tác giả đă thành danh, cả những nhóm và tác giả từng bị phỉ báng và cấm đoán hoặc các tuyển tập truyện Âu Mỹ. Thời của dịch giả và nhà xuất bản tư và cả công nếu biết theo thời. Dịch đủ thứ, cả lư luận phê b́nh mà quên phát triển luận lư văn-chương nội hóa. Với sự giúp đỡ của nước ngoài như tạp-chí Văn-Học Nước Ngoài thuộc Hội Nhà Văn Việt Nam.Pháp tái lập trường Viễn-đông bác-cổ (EFEO), xuất-bản và trợ cấp in sách báo. Nước Đức giúp dịch và in lại H. Hesse cũng như giúp tổ chức các tọa đàm. Các nước khác như (Thụy Điển, Áo, Nhật, Đại Hàn (khuynh hướng mới từ khi phim bộ Hàn quốc được thay món Trung quốc),... cũng vào trong quỹ đạo mới đó! Nhà văn hội viên Hội nhà văn quốc doanh trở nên dịch-giả dễ kiếm được lợi nhuận và có thể được mời ra nước ngoài tham quan. Các nhà văn nhà báo của miền Nam (Hoàng Ngọc Tuấn, Phan Kim Thịnh, Lư Hoàng Phong,...) cũng nhờ mốt dịch mà sống c̣n! Cũng có một khuynh hướng phỏng dịch về lư thuyết văn-học, nằm trong khuynh hướng chung ở trong nước đua nhau dịch, mà từ mấy năm qua đă trở thành tranh luận, phê phán, có khi rất nặng nề hoặc thù cá nhân.

Có thể nói nếu không có chính sách Cởi trói văn nghệ, đă không có những công tŕnh nghiên cứu mới mẻ về hai nền văn học Miền Nam thế kỷ XIX cũng như miền Nam tự-do trước 1975. Và đă có “giao-lưu, gặp gỡ”! Tác-phẩm và tác-giả từng bị cấm đoán bằng nghị định và chiến dịch như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Duyên Anh,... được nhắc đến. Trần Trọng Đăng Đàn và các nhà “phê b́nh” của Viện Văn học Hà-Nội có tấn công thơ tự do mà họ gọi xiên xỏ là “bí hiểm”, “tắc tị”, “quái thai”, “hỗn tạp những rối rắm quái gở”, “những thứ ngôn-ngữ ô uế tới mức thô bỉ” (6) và “dựng lại cái thây ma mà mười lăm năm về trước những người trong nhóm Xuân Thu nhă tập đă nêu lên”. Đó là mặt nổi của tuyên truyền, v́ mặt khác, ngay từ 1977 họ đă sợ thứ văn-học hư hỏng của miền Nam đó được người “chiến thắng” lén lút t́m đọc thời c̣n bị cấm. Dù bị cấm. đe, nhưng họ thú nhận đă không thành công,“không thể thỏa măn với những công việc chúng ta (CSVN) đă làm (...) những đoạn nhạc vàng vẫn truyền đi trên các băng ghi âm một cách bất hợp pháp, những cuốn tiểu-thuyết, những tập thơ mang nội dung phản động hoặc đồi trụy vẫn được chuyền tay nhau, không những ở các tỉnh miền Nam mà ngay cả ở một số thành phố miền Bắc (...) Chúng ta phải đề cao cảnh giác, không thể xem nhẹ những tác hại của nó được” (7). Trong nước đă có những nghiên cứu “cởi trói”, đă có cái nh́n “khách quan” hơn. Trần Thị Mai Nhi viết về “nhóm Sáng Tạo” đă nh́n nhận họ “muốn có một ‘đường hướng sáng tạo’, muốn là ‘kẻ sáng tạo ngôn ngữ trong thơ ca’(...). Họ muốn đổi mới niêm luật, cú pháp, chấm câu, từ ngữ trong thơ cả. Rồi việc họ chấp nhận thứ ‘tiếng của vỉa hè’ cũng không hoàn toàn chỉ là một sự lập dị. (...) Đúng thôi, văn học Sài G̣n gặp văn học phương Tây ở quan niệm thẩm mỹ...” (8). Bùi Giáng được chiếu cố nhiều nhất, được khám phá đủ chiều, có tạp-chí như Thời Văn ra cả số đặc biệt. Hoàn cảnh mới đă cho phép những phát hiện mới, mà sau nhiều thập niên mù quáng v́ chiến tranh, có những cái đă bị biến hủy nhưng cũng có những nhận diện, cảm thông về những cái tưởng đă chết hoặc yếu đi như tôn giáo. Vả lại, tôn giáo đă trở nên nguồn sống tâm linh của nhiều người, kể cả cán bộ. Cuộc chiến chính thức tàn năm 1975, những thất bại của chuyên chính từ 1975 đến 1986 đưa đến Cởi Trói như một lối thoát dọ dẫm có cái hay là đă tạo môi trường những cố gắng mới với quan điểm mới hơn, dân tộc hơn, tổng hợp hơn. Trong hoàn cảnh đó càng ngày càng có những nghiên cứu trở về với truyền thống dân tộc thật sự, đó là điều nên mừng. Bước đầu khó khăn đă có người đi, dĩ nhiên c̣n cần nhiều nghiên cứu sâu xa và khách quan hơn nữa!

Về văn-học hải-ngoại, gần đây trong nước đă có những nhận xét khác tiếng nói chính thức, như một bài viết của Nguyễn Vĩnh Nguyên trên báo Sài G̣n Tiếp Thị được tờ Tuổi Trẻ On-line (10-6-2005) đăng lại. Nhân điểm qua một vài cây viết phần lớn xuất phát từ miền Bắc xă-hội chủ nghĩa, ông cho rằng: “Văn học hải ngoại, bản thân cũng chia nhiều hướng; tuy nhiên với bạn đọc VN, chúng ta chỉ nên xét trên cơ sở những gương mặt đă xuất hiện tác phẩm và gắn bó với ḍng chảy của văn học trong nước, có tác động không những với cộng đồng nơi nhà văn sống và viết mà c̣n với người đọc trong nước. (...) Môi trường văn chương đă bắt đầu có những hé cửa tiếp nhận sự đa tuyến, đa chiều. (...) Sự phân chia giới tuyến trong và ngoài nước trên lănh địa văn học suốt ba mươi năm qua có lẽ đă quá đủ. Hợp lưu đang là vấn đề đang được hoá giải theo thời gian. Hẳn rằng, với nhiều nhà văn chân chính ở hải ngoại, không bị câu thúc bởi những hằn học quá khứ và những lư do cầm bút phi văn chương, ai cũng muốn được hợp lưu trước khi hội nhập. Nh́n nhận và đón nhận ḍng chảy văn chương hải ngoại là một câu thúc nội tại để đưa nền văn học phát triển hơn. Trong ṿng khoảng 5 năm trở lại đây, có thể nói, lực lượng này đă có nhiều đóng góp, thậm chí có những tác phẩm sau khi được in tại quê nhà, thực sự gây bất ngờ đối với những đồng nghiệp trong nước lâu nay măi lúng túng không t́m được cái nh́n mới về những vấn đề đời sống đương đại” (9).

Dù có một số chữ dùng khác biệt, người Việt trong và ngoài nước vẫn có thể đọc sách báo của nhau, t́m hiểu nhau và có những đồng tâm, tri kỷ về một số sự việc và vấn đề lớn nhỏ. Người viết xuất-bản chung trong ngoài, đă có nhiều thử nghiệm, lúc đầu phải chịu vài “chết non” v́ kỷ-luật “chính-trị” như dự án của Khánh Trường chủ biên tạp-chí Hợp Lưu thời 1990 - ngược lại, cũng v́ cái kỷ luật đó mà nhóm Montréal thân trong nước thời đó đă ra tuyển tập Việt Kiều Với Quê Hương: Thơ Văn Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, 1975-1990 (NXB TpHCM, 1990). Sau đó th́ đă có nhiều tuyển tập nhiều cây viết trong ngoài đáng kể có tuyển tập 26 Nhà Thơ Việt Nam Đương Đại (Tân Thư, 2002) và nhất là khuynh-hướng thời thượng dịch đáp ứng nhu cầu “ṭ ṃ” (voyeurisme) chính-trị hơn là văn-chương của vài tác-giả trong nước và lâu lâu xen kẽ vài cây viết hải-ngoại hoặc miền Nam tự-do như các tuyển dịch của Phan Huy Đường, của Đoàn Cầm Thi,...! Các nhà văn ở ngoài cũng có mặt trong một số tuyển tập xuất-bản trong nước, như Tuyển Tập Văn Mới (2005). Nhu cầu thưởng thức văn-học nghệ thuật không có biên giới, nếu có là do chính trị bày tṛ. Nhà văn Vương Trí Nhàn trong một bài viết gần đây đă tiết lộ “Văn học Sài G̣n đă đến với Hà-Nội từ trước 1975” (10) trong giới văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc.

Tưởng cũng cần ghi nhận là Internet và toàn cầu hóa đă đưa người viết và người đọc đến gần nhau hơn, trực tiếp hơn, và đồng thời tạo cơ hội cho các “tác-phẩm” khó khăn xuất-bản ở một nơi có thể ra mắt ở nơi khác - như trang Talawas (vừa ngưng hoạt động) và damau.org với mục Trên Kệ Sách _http://kesach.org ‘xuất bản’ dưới h́nh thức ebook từ các tác phẩm đă hoặc sẽ xuất bản, bên cạnh chương tŕnh ‘Cho & Nhận’ với mục đích “hỗ trợ các tác giả trong và ngoài nước gặp khó khăn trong việc ấn hành và phổ biến tác phẩm văn học của ḿnh. “Khó khăn” bao gồm những trở ngại tài chánh, kiểm duyệt văn hóa/chính trị, và rào cản địa lư”. Cũng từ đó sinh ra các hiện-tượng Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh, thơ Tân H́nh-Thức, nhóm Mở Miệng và nhóm Ngựa Trời, v.v. Các ấn phẩm bị thu hồi, cấm lưu hành ở trong nước cũng có thể ‘ra mắt’ người đọc trong và ngoài nước qua phương tiện Internet như tập truyện Tột Đỉnh T́nh Yêu 2008 của Nguyễn Thúy Ái, v.v. (nhưng Internet cũng đi nhanh hơn kiểm duyệt và nhà xuất bản như trường hợp bản thảo cuốn ‘Hồi kư’ của Nguyễn Đăng Mạnh gần đây). Tại Sài-G̣n, nhóm Mở Miệng đă xuất-bản Khoan Cắt Bê Tông, một tuyển tập thơ, dưới tên nhà xuất bản Giấy Vụn, in 100 bản với lời chú “In xong & nộp bản lưu cho các tác giả 9-2005”, với sự góp mặt của 23 tác giả trong và ngoài nước. Nói chung, những năm gần đây, Nguyễn Việt Hà (Khải Huyền Muộn, 2005), Bùi Hoằng Vị, Nguyễn B́nh Phương, Nguyễn Viện, Ngô Tự Lập, Phan Triều Hải, Hồ Anh Thái (Tự Sự 265 Ngày, 2005), Nguyễn Vĩnh Nguyên (Khu Vườn Lưu Lạc 2006), Nguyễn Thế Hoàng Linh,... là những cây bút có kỹ thuật và/hoặc nội dung mới, đa dạng, có nhiều triển vọng! Nói hy vọng vẫn nằm ở văn-học tự-do, khai phóng, là vậy!

Sau một thời kỳ khá dài, từ Cởi Trói văn-nghệ đầu 1987 đến gần đây, các cây viết như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng rồi Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, v.v. đă khai thác nhân tính và nhân phẩm làm người Việt Nam cũng như đă tập tễnh khai thác những cái tâm linh, linh cảm mà lư trí chủ chủ nghĩa xơ cứng chưa thỏa măn được, nay lớp nhà văn mới tới muốn đi xa hơn chăng? Các nhà văn trong nước (và một ít ở ngoài nước) có khuynh-hướng thời thượng nếu không viết tiểu-thuyết lịch-sử th́ nói chuyện thế-giới bên kia, “không thật”, nói cái thiêng để tránh lách cái phàm, thể hiện những chiều kích thời-gian không thật, đă qua! Nhà văn mượn hồn nhập xác, nh́n vào thế giới bên kia, tâm linh, v.v. Sau những Cơi Người Rung Chuông Tận Thế (Hồ Anh Thái), Phần Hồn (Nguyễn Mạnh Tuấn), Đêm Thánh Nhân (Nguyễn Đ́nh Chính), Thoạt Kỳ Thủy (Nguyễn B́nh Phương), Thiên Thần Sám Hối (Tạ Duy Anh), v.v. So với nguồn cơn văn-chương của châu Mỹ latinh, Việt Nam ta không cùng văn-cảnh, do đó thứ văn-chương này phải chăng là để trốn tránh thực tại? Nhà văn do đó đánh mất vai tṛ của ḿnh hoặc chứng tỏ là ngụy trí thức. Làm như người viết không dám lấy đề tài trong hiện thực, “đương đại” sợ đụng đến những thế quyền chăng? Mặt khác, nhà văn muốn khai thác chất phi lư trong tính cách con người, thám-hiểm sức mạnh của thời gian v́ sự quên lăng như đang chực chờ đâu đó!

Khuynh-hướng này mang tính hậu hiện-đại, đề cao cái ngược lại với duy-lư, mô-phạm, khoa-học, lạc quan,... ; tóm, con người ở đây hết là cái rốn của vũ trụ. Dịch lư được vận hành trở lại, mở rộng ṿng tay đón tiếp phi lư, vô thường, biến hóa, tóm, con người chưa chết nhưng thường ở bên cạnh hay ở đâu đó, có khi hội-nhập vào vũ trụ, thiên nhiên - con người hết làm cứu cánh, trở nên một trung dung hấp lực. Văn-chương đo đó không biên giới, không nhất thiết phải trung thành với một trường phái. Vai-tṛ của con chữ được đề cao. Ngôn-từ hết phải đúng văn phạm, hợp lư,...; ngôn từ ở đây được đón nhận như được viết hay nói ra! Kết cấu của tiểu-thuyết hết c̣n là một cấu trúc toàn bộ, mà có thể chỉ là những phần mảnh không thể dán hoặc nhập vào nhau. Một thế-giới mơ tưởng vốn là trù phú cho sáng-tạo, nay chiếm ngự trong óc sáng-tạo của nhà văn thơ, cố t́nh, với tư duy.

Một h́nh-thức hậu hiện-đại khác cũng đang thao diễn trên trường văn trận bút, đó là văn-chương khai phóng nữ quyền và dục tính. Cách mạng t́nh dục tiếp tục với văn học hải ngoại nhưng rất mới với trong nước nhất là với các nhà văn nữ. Họ lên tiếng về những âu lo, tâm t́nh mà lâu nay nhất là ở Việt Nam ít thấy, nói thẳng những lo âu thực tế, sờ mó được, cảm được, không cần nhiều ngơ quanh, đi ṿng. Người nữ chống văn minh, văn hóa dựa trên quyền hành đàn ông, phụ quyền, chống Tây phương kỹ nghệ định nghĩa đàn ông ở khả năng sáng tạo và chế biến sự vật. Phụ nữ chống văn chương như một nền chế, họ thích mặt trận “ngôn ngữ” hơn, thích phổ dương liên hệ trực tiếp với chữ viết cũng như với thân xác. Xây dựng lại nội dung bằng đường thoát ngôn ngữ. Lạc thú thân xác đi liền với lạc thú ngôn ngữ, đến sau lạc thú ngôn ngữ. Người nam đi vào văn để t́m hoặc nếu đă thấy, tŕnh bày lư thuyết, triết lư hay một “nghiệp”, người nữ th́ đến để thực hiện cái tôi, xác định cái tôi, cá nhân. Và họ đi vào t́nh dục của đời thế tục, tận hưởng phút giây, lăng mạn t́nh yêu đến tự do t́nh dục. Người nữ sống đời hải ngoại hội nhập, choáng ngợp giữa những lạ-lẫm (exotic), ngợp trước tự do ở xứ người, tự do tuyệt đối và cá nhân chủ nghĩa, từ vật chất, thân xác, t́nh cảm,... Có thể họ muốn giả vờ, trưởng giả, nhưng lại không giữ lề, thích tự do, khám phá,... T́nh dục trước khi là hiện tượng xă hội, văn hóa, đă là thân xác. Nhà văn nữ muốn làm chủ câu chuyện cũng như tác động hành xử dâm dục, muốn đưa ra ánh sáng cái khuất ch́m,... Một diễn văn đi xa hơn đ̣i nữ quyền, mà tranh đấu cho một “văn hóa” nữ-hệ hay cho một cái tôi sùng sục, dục, hay dồn nén, thiếu thốn? Đưa tính dục cá nhân vào đời sống tập đoàn và xâm nhập những lănh vực cho tới đó cấm kỵ hoặc không can dự ǵ! Trong nước, đời sống và thân phận phụ nữ có khác, do đó cách “tiếp cận” cũng khác. Dương Thu Hương qua Chốn Vắng (No Man’s Land) tỏ lộ một số khuynh-hướng t́nh dục, thủ dâm, những cách làm t́nh, đi xa tả cơ quan sinh dục. Ở đây, nhà văn nữ đ̣i quyền dân sự, nên, dễ hiểu khởi từ bản thân, Đỗ Hoàng Diệu là một tiếp cận khác, buông thả hơn. Ngay cả cây bút đồng-nội Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện Cánh Đồng Bất Tận cũng đă muốn “mượn” t́nh dục để chuyển tải bi kịch của sự đói nghèo triền miên, của sự dốt nát, của sự hẹp ḥi...Văn-chương nhắm phần-mảnh, tầng kín, sống vội, với cái có thực, v.v., tức khuynh-hướng hậu hiện-đại, phá bỏ hoặc tránh né những tuyên ngôn to lớn. Như vậy, hiện-tượng tính-dục và nữ quyền đă từ hải-ngoại nhập vào trong nước, như một hợp lưu (chung ḍng nước!) của con người hôm nay! Với văn chương tính-dục, chúng tôi thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu với những quẩn quanh trần-b́ không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng, nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị t́nh dục, thân xác giam hăm tù đày, định nghĩa về văn-chương h́nh như đă bị hăm hiếp một cách tội nghiệp vậy! Người đọc dĩ nhiên không khỏi có những nghi vấn: phải chăng văn-chương tính của cái được viết ra mới là chính, là cốt lơi? Lên đường t́m kiếm làm mới văn-chương hoặc buông thả theo hiện thực, hoang tưởng; hai hiện-tượng văn-học này sẽ sống lâu hay yểu mệnh như bao hiện-tượng khác? Phải chăng đây cũng là phản ảnh của một đời sống mới, tự-do và triệt để không giới hạn? Theo thiển nghĩ th́ câu trả lời đă tiềm ẩn trong nghi-vấn!



*
Chúng tôi nhận ra một số nghịch lư và đương nhiên dịch lư. Trong một nghiên cứu gần đây (Miền Nam Đạo-Lư), chúng tôi đă ghi nhận những nỗ lực văn-hóa của Nam-kỳ thuộc địa trong việc bảo tồn và phát huy đạo lư truyền thống khi thực-dân Pháp đến xấm chiếm và đô hộ miền Nam Cochinchine; và các tiền bối đă thành công. Miền Nam Cộng Ḥa in facto đă bị chấm dứt hiện hữu ngày 30-4-1975 (dù hăy c̣n sống động trong tâm tưởng và hồi kư của nhiều tai mắt và của cả người miền Nam). Nước mất th́ nhà tan, con người phân tán, Việt Nam hải-ngoại thành h́nh. Trong nước th́ người dân mất nước, mất chính quyền và thẩm quyền, mất quyền công dân, xác thân bị kiềm chế trong các trại gọi là “cải tạo” hay “kinh tế mới”, dĩ nhiên văn-hóa cũng bị xóa nát vùi dập. Các sản phẩm nghệ thuật, âm nhạc (nhạc vàng), văn-chương, văn-học, văn-hóa ǵ ǵ của miền Nam cộng ḥa đều bị xóa, với nghị định, với hàng trăm bài báo và sách lư luận, nghiên cứu như vừa tŕnh bày. Nhưng kẻ thắng trận (miền Bắc cộng-sản) dù cố t́nh bôi xóa văn-hóa của miền Nam, đă thất bại với thời gian (v́ cấm vận, chiến-tranh lạnh, đôla, v.v.). Nhưng chủ yếu là người cộng-sản Việt Nam đă không có một văn-hóa phổ quát và nhân bản khả dĩ có thể thay thế. Trong học đường, ngoài xă-hội mọi người đă nh́n thấy một thứ không-văn-hóa đang làm băng hoại xă-hội thời hậu chiến. Và con người đă chạy trở lại t́m những thứ mà nền móng xă-hội “mới” đă không có hoặc không thể có, của Việt Nam cộng ḥa và của Nam-kỳ Cochinchine cũng như của một xă-hội Việt Nam bị phê là “lạc hậu” và cả “phong kiến” nhưng có rễ văn-hóa, có căn bản con người, một nhân bản không thiết yếu phải có tính khoa-học, nhưng có nền tảng! Nghĩa là vẫn có hy-vọng!

Nói hy vọng để khôn ngoan và khả năng khai-phóng được có cơ xuất hiện, v́ hiện có những tạp-chí có vẻ giao-thoa hợp-lưu trong-ngoài đầy những sáng tác có tính rác rưởi nhất thời, khai thác những dục vọng thấp hèn, rất tư riêng, bệnh hoạn, dâm-bôn, cũng được cho ra như một cố gắng để được nói đến như những “nhà văn thơ” đương-đại, hậu đương-đại hay giải phóng. Cái gọi là văn-chương, văn-học có những điều-kiện đương-nhiên hoặc ngầm của nó, mà không một tập đoàn, chủ báo hay nhà văn nào có thể tự diễn hay tác oai tác quái mà tồn tại lâu dài được. Người đọc cũng như lịch-sử văn-học hăy c̣n đâu đó như là thẩm phán cuối cùng!

Với đầu tư cùng du-lịch quốc tế và tiền hàng tỉ hàng tỉ mỗi năm đổ về của Việt kiều, chính quyền trong nước không ... cách mạng theo th́ cũng phải thích ứng, cập nhật. Những “bóng ma” tàn tích của cuộc chiến vừa qua, như ma “thực dân mới”, “biệt kích”, v.v. nay đă hiện nguyên h́nh là ... bạn! Chiến-tranh xưa nay ít ai thật đại thắng, thường th́ gặp thời (Điện Biên 7-1954, miền Nam 4-1975, v.v.). Đă nói chiến-tranh th́ phải có thắng thua, nhưng dân-tộc th́ không bao giờ thua, có chăng là giàu thêm và khôn ngoan ra dù phải thêm xương máu! Văn-học th́ lại càng không có chuyện thắng thua, nói thắng thua là tṛ con người bày ra, cưỡng ép, cường điệu, kể cả chuyện hợp lưu! Văn-học cũng không là chuyện kinh tế hay mạnh được yếu thua! Như vậy thiển nghĩ thế thời có thế nào th́ văn-học vẫn là hy vọng v́ trước mắt chúng tôi không tin người Việt sẽ có đồng thuận về văn-hóa - khó, v́ làm văn-hóa th́ con người phải văn-hóa trước đă (to be or not to be)! Trong hoàn cảnh đó, văn-học sẽ là bước đầu, nếu thật ḷng lên đường!

Chú thích

1. Trích từ Văn Hóa Văn Nghệ Miền Nam Dưới Chế Độ Mỹ Ngụy (Hà-Nội: Văn Hóa, 1977), tr. 8.

2. Theo Trần Thọ, Tạp-chí Cộng-Sản 10-1981.

3. _http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62HYPERLINK "http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectI d=NV234&p=2"&HYPERLINK "http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectI d=NV234&p=2"subjectId=NV234HYPERLINK "http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectI d=NV234&p=2"&HYPERLINK "http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectI d=NV234&p=2"p=2

4. X. Phong Trào “Thơ Mới”. Hà-Nội: NXB Khoa-học xă hội, 1982. Tr 268.

5. Tự Lực văn đoàn: con người và văn-chương. Hà-Nội: Văn học, 1990. Tr. 57.

6. Trần Trọng Đăng Đàn. Văn Học Thực Dân Mới Mỹ Ở Miền Nam Những Năm 1954-1975, tập 2. Hà-Nội: Sự Thật, 1991. Tr. 68, 72.

7. Trích Lời Nói Đầu. Văn hóa, văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ-Ngụy. Sđd.

8. Trần Thị Mai Nhi. Văn Học Hiện Đại Văn Học Việt Nam Giao Lưu Gặp Gỡ. Hà-Nội: Văn Học, 1994. Tr. 135, 136.

9. Nguyễn Vĩnh Nguyên. “Văn học hải ngoại: “ḍng riêng” có gặp “ḍng chung”?”. Tuổi Trẻ On-line 10-6-2005.

10. _http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=4354

(2-2005; 11-2008 +)

Nguyễn Vy Khanh


Code:
https://sites.google.com/site/tuyent...hoi-tuong-tiec
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #3
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Bài hát "Đêm Đông"


Người viết: Facebooker Pháp Vân


Không phải riêng tôi mà rất, rất nhiều người thích bài hát “Đêm Đông”. Đêm đông là sáng tác nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, hoặc như ngày nay ta hay nói là ḍng nhạc tiền chiến.

Tôi có một chuyện vui vui là khi nói về bài “Đêm Đông”, một bạn fb đă kể một mẩu chuyện là có lần bạn ấy được vào chỗ chuẩn bị của một hội diễn, khi đang khớp luyện, thấy một “sao” hát sai, bạn ấy mới góp ư là phải hát “cô lữ” và “không nhà” th́ mới đúng, “sao” trề môi hỏi “ở quê em nói ngọng nờ thành lờ à?”. Thế rồi trong hội diễn, đến cuối bài, cơ hội khoe giọng, “sao” lim dim mắt và ngân: “Có …a…i…thấu t́nh cô nữ đêm đông khô …ng …chồng …!”. Nhận tràng vỗ tay râm ran, vào cánh gà “sao” c̣n nói: “Phải là cô nữ không chồng th́ rét mới cô đơn chứ. Có thế mà cũng không biết lại c̣n ư kiến! Hâm!”.

Chẳng biết câu chuyện kia có thật hay không, nhưng từ hôm đó, mỗi lần nghe bài “Đêm Đông” tôi lại nhớ đến bạn fb ấy cùng câu chuyện vui, và dường như thấy bài hát hay hơn.

Cũng v́ có câu chuyện đó mà tôi muốn giới thiệu lại lời bài hát này một cách tỉ mỉ. Bởi v́, ngay chính tôi, trước đây vẫn nhẩm hát hoặc nghe hát mà không hiểu cặn kẽ.

Về xuất xứ của Đêm Đông, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từng chia sẻ:

Vào dịp Tết năm 1939 (thời gian này ông đang theo học tại Trường Thăng Long - Hà Nội), do không có tiền nên ông không thể về quê ăn Tết với gia đ́nh. Lần đầu tiên phải ăn Tết xa nhà, ông rất buồn. Năm ấy, Hà Nội rất rét. Để chống lạnh, có bao quần áo, ông "nhồi" tất vào người. Như bản năng, ông cứ thế rời pḥng trọ lững thững đi về phía Ga Hàng Cỏ, và nhớ ra là ḿnh không có vé tàu.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương kể lại:

"Khi tàu chuyển bánh, tôi cũng theo tàu đi về phương Nam, dọc theo đường Nam Bộ bây giờ. Tiếng c̣i tàu mỗi lúc một xa càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhà da diết! Đến chỗ chắn tàu ở phố Khâm Thiên, tôi chợt nảy ra ư định đi t́m những người cùng cảnh ngộ với ḿnh trong đêm nay. Phố Khâm Thiên hồi ấy có nhiều nhà hát ả đào. Tôi muốn xem trong đêm giao thừa này, có người nào không ở nhà với gia đ́nh mà đi hát. Hoặc ca nhi nào, v́ kế sinh nhai mà phải ở lại hành nghề không? Đêm ấy, có hai nhà c̣n để đèn ngoài cổng để chờ khách. Tôi đi qua nhà đầu tiên. Cửa mở, nhưng không có người ra. Đến nhà thứ hai th́ có một ca nhi đi ra mở cửa. Nhưng khi nh́n thấy một cậu thanh niên, tuổi vừa đôi mươi, ăn mặc lôi thôi th́ cô ta đă thất vọng. Khi quay trở vào, cô không quên soi ḿnh trong tấm gương treo cạnh cửa, và đưa cánh tay trần vuốt nhẹ lên mái tóc.

Tôi c̣n đi lang thang măi trên nhiều đường phố Hà Nội tối hôm đó - cho đến khuya, khi thấy các bà mang hương, đèn ra cúng trước thềm nhà tôi mới quay về căn gác trọ số 10 ngơ Hội Vũ.

Lên giường nằm, nhưng nỗi nhớ nhà và cảm giác cô đơn nơi đất khách khiến tôi không tài nào ngủ được. Và nảy ra ư định sáng tác một bài hát để nói lên cảm xúc và suy nghĩ của ḿnh trong đêm giao thừa đầu tiên phải xa nhà. Tôi đă đưa vào ca khúc h́nh ảnh thực tế đă đập vào mắt tôi lúc đi qua phố Khâm Thiên. Đó là người Ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng. C̣n Thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư hoặc Cô lữ đêm đông không nhà là h́nh ảnh của bản thân ḿnh - c̣n chinh phu, chinh phụ là những h́nh ảnh mượn từ trong Tiểu thuyết Thứ Bảy của Tự Lực văn đoàn rất thịnh hành lúc bấy giờ, chứ ta có đi chinh phục ai đâu mà có chinh phu để nói!"

Đêm hôm ấy, bài hát mới chỉ chốt lại ở việc khổ nào cũng bắt đầu bằng điệp khúc "Đêm đông", trừ câu kết th́ đổi thành "Có ai..."...

Sau một thời gian, Nguyễn Văn Thương và một học tṛ theo học guitar với ông tên là Kim Minh cùng trau chuốt lại lời ca, bài hát kể như mới chính thức hoàn thành. (V́ thế có một số bản đề tác giả là Nguyễn Văn Thương và Kim Minh, nhưng hầu hết các bản đều chỉ đề Nguyễn Văn thương mà thôi)

Lời bài hát:

• Đoạn đầu miêu tả quang cảnh hiu quạnh, cô đơn của người lữ khách - tác giả - trong đêm đông.

Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống.
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông.
Đôi cánh chim bâng khuâng ră rời.
Cùng mây xám về ngang lưng trời.
Thời gian như ngừng trong tê tái.
Cây trút lá cuốn theo chiều mây.
Mưa giăng mắc nhớ nhung, tiêu điều.
Sương thướt tha bay, ôi đ́u hiu!

• Đoạn sau thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của tác giả, gồm hai lần điệp khúc.

Đoạn điệp khúc thứ nhất thể hiện niềm thương cảm tới những số phận giống bản thân tác giả trong đêm đông: ca nhi, thi nhân, chinh phu, chinh phụ.

Đêm đông, xa trông cố hương buồn ḷng chinh phu.
Đêm đông, bên song ngẩn ngơ ḱa ai mong chồng.
Đêm đông, thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư.
Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng.

Sau điệp khúc là sáu câu tả về gió được coi là hay nhất:

Gió nghiêng, chiều say,
Gió lay ngàn cây,
Gió nâng thuyền mây.
Gió reo sầu miên,
Gió đau niềm riêng,
Gió than triền miên.

Đoạn điệp khúc và kết thúc bài thể hiện cảm xúc thương chính bản thân ḿnh và ước mong của tác giả trong đêm đông:

Đêm đông, ôi ta nhớ nhung đường về xa xa.
Đêm đông, ta mơ giấc mơ gia đ́nh, yêu đương
Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương.
Có ai thấu t́nh cô lữ, đêm đông không nhà.

Chính tôi, ngay từ đầu, tôi cũng hơi phân vân: “cô lữ” nghĩa là ǵ? Sau tự hài ḷng với lời giải thích đơn giản: là người lữ hành đơn độc. Nhưng sưu tầm kỹ th́ mới thấy nghĩa của từ “cô lữ”. Đời Cô Lữ là cuộc sống cô đơn, lẻ loi, xa cách quê hương của một người nào đó v́ một hoàn cảnh riêng phải kiều ngụ nơi xứ lạ quê người.

Bài hát này được sáng tác vào năm 1939, cho nên có nhiều từ cổ mà ngày nay ta ít khi gặp. Chẳng hạn như: “Gió nâng thuyền mây/Gió reo sầu miên”., Thuyền mây là thuyền ǵ, sầu miên nghĩa là ǵ? Phải lục lại thơ văn thời ấy th́ mới thấy những từ này.

Trong bài thơ “Giọt sầu miên” của Thiên Sứ, hai câu cuối là “Tôi về t́m giọt sầu miên/Giữ làm kỷ niệm trong thiên thu buồn”.

C̣n trong bài thơ “Thuyền Mây” của Hương Mỹ th́ khổ đầu đă giải thích thuyền mây:

“Em kết mây thành mạn thuyền xuôi gió
Chở yêu thương vượt sóng đến nơi nầy
Tôi sẽ là lăng tử phiêu du
Trôi lăng đăng bên thuyền mây yêu dấu”.

Rất nhiều người nghe hầu như đă thuộc ḷng Đêm đông, và nếu nói về thời tiết th́ không phải mùa đông nào cũng có nhiều gió, nhưng đặc biệt trong "Đêm đông" lại có rất nhiều gió và chính gió đă làm nhạc phẩm Đêm đông bất hủ với thời gian.

Trước đây, căn cứ vào giai điệu của bài hát, cũng như vào câu "Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông" mà có ư kiến cho rằng, bài hát được sáng tác theo chiều hướng phục vụ nhà thờ Công giáo. Nhưng theo trả lời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, trích từ lá thư viết ngày 4/11/1997 của ông th́:

"Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông". Tiếng chuông buông lững lờ, chỉ có thể là tiếng chuông chùa. Nhưng không cứ ǵ tôi phải đi ngang qua một ngôi chùa, mà chỉ cần nghe tiếng chuông; thường những người tu tại gia, khi niệm kinh buổi chiều, vẫn thỉnh thoảng gơ chuông từ một gác thờ nào đó. V́ tôi đi từ nhà ra Ga Hàng Cỏ, qua phố Khâm Thiên rồi đi lang thang khắp các nẻo đường trước khi trở về gác trọ th́ có thể nghe được nhiều lần tiếng chuông ấy lững lờ buông. C̣n nếu tiếng chuông nhà thờ th́ phải dùng chữ chuông đổ, chứ không thể dùng buông lững lờ được.

Ca khúc Đêm đông từng được rất nhiều thế hệ ca sĩ thể hiện, từ Ngọc Bảo, Bạch Yến, Lê Dung tới Cẩm Vân, Đàm Vĩnh Hưng... Trong đó ca sĩ Bạch Yến có công lớn trong việc đổi mới phong cách thể hiện bài hát này.

Theo lời nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, lúc bài hát ra đời chỉ mới có các nhịp điệu như Foxtrot, Valse, Tango,... măi sau năm 1950 mới có Slow Rock. Lúc ban đầu Đêm đông mang giai điệu Tango. Chính ca sĩ Bạch Yến đă đổi Đêm đông từ Tango sang Slow Rock. Trong thư của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương kể về việc lần đầu tiên ông gặp ca sĩ Bạch Yến tại Pháp năm 1982, ông viết:

"Tôi muốn nói là cám ơn Bạch Yến rất nhiều về sự đóng góp đầy ư nghĩa trong cách thể hiện tác phẩm của tôi. Và cũng đă từ lâu, sau khi nghe băng của Bạch Yến hát, tôi đă bỏ chữ "Tango" để thay vào đó là "Slow Rock".

Nhưng đến đây th́ tôi (PV) cũng đầu hàng. Tôi chỉ biết slow và slow rock đều được đánh ở nhịp 2/4 và 4/4, Tango cũng thế, có thể đánh cả nhịp 2/4 và 4/4, chỉ có Waltz thường thấy trong những bản nhạc nhẹ, dân ca và nhạc cổ điển từ châu Âu là được đánh theo nhịp ¾ thôi. Cho nên tôi không phân biệt được bài do Bạch Yến thể hiện có khác ǵ so với các ca sĩ thể hiện trước đó. Phần tôi, tôi vẫn “mê” Lê Dung từ trước, cho nên đưa cả hai bài do Bạch Yến và Lê Dung tŕnh bày, để bạn nào sành nhạc có thể so sánh được.

Mời các bạn cùng nghe:

Lê Dung
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/d...ejiZwPbUO.html

Bạch Yến
https://www.youtube.com/watch?v=5RPeym9m3T0


Hà Nội 2/2018
Pháp Vân sưu tầm và bổ sung
Nguồn: https://www.facebook.com/nguyentrong...08796660673828
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #4
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Duyên Anh
Người viết: Vĩnh Phúc








Duyên Anh sau năm 1975

Hôm nay, mở Email, tôi thấy một bài, tựa đề "20 Năm Nhà Văn Duyên Anh Ĺa Cơi Tạm". Kèm theo, có ít lời của Nguyễn Tiến Đức và ba bài viết về Duyên Anh của Nguyễn Hữu Ích, Đinh Tiến Luyện, và Julie.


Tôi biết ǵ về Duyên Anh?




Tác phẩm của Duyên Anh.
Nguồn: duyenanhvumonglong.wordpress.com


Cái Email này khiến tôi không thể làm thinh sau mấy năm qua đă quyết định gác bút, bế môn tạ khách và diện bích. Lư do khiến tôi cầm bút lại, là v́ lời nhắc nhở hai mươi năm nhà văn Duyên Anh ĺa cơi tạm đă gây xúc động mạnh trong tôi. Tôi ngồi lặng người, để mặc cho bao nhiêu kư ức về Duyên Anh chợt dồn dập trở về. Th́ ra, những sự việc tôi tưởng đă có thể quên được sau quyết định gác ngoài tai mọi chuyện đời để chỉ sống với ḿnh, nay vẫn c̣n đậm nét và nguyên vẹn như mới xảy ra hôm qua, tuần trước.

Tôi c̣n nhớ như in, chiều ngày 30 tháng chạp năm Bính Tư, từ Luân Đôn tôi bàng hoàng nhận được tin Duyên Anh qua đời ở Paris ngày hôm trước. Tính theo dương lịch th́ là ngày 6 tháng 2 năm 1997. Tang lễ cử hành 10 giờ sáng 14/2/1997, hoả thiêu lúc 14 giờ cùng ngày. Cuối cùng, tôi đi tới quyết định phải kể lại những điều tôi biết về Duyên Anh, để giúp những người ái mộ nhà văn hiểu rơ hơn về anh, đồng thời đính chính những hiểu lầm của người đời, do vô t́nh hay cố ư.

Ngay khi Duyên Anh sống trên trại đảo Pulau Bidong thuộc Mă Lai chờ được sang Pháp xum họp với vợ con, anh đă liên lạc với tôi ở Ban Việt ngữ đài BBC Luân Đôn. Và cũng vào thời gian này, rắc rối đă xảy ra.

Hồi đó, có người kể lại với tôi rằng một số người trên đảo nghe nói là Duyên Anh làm ăng ten khi đi tù cộng sản, nên họ dọa đánh. Cũng trong thời gian này, con gái Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Hương gửi cho tôi và giáo sư Patrick Honey (cố vấn cho Ban Việt Ngữ – BBC ) bản thảo hai truyện Đồi Fanta, và Một Người Nga Ở Saigon. Tôi thấy trong Đồi Fanta tác giả mượn lời mấy đứa trẻ bụi đời, để chửi các nhân vật lănh đạo cũ của VNCH như Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, hoặc nhà văn Mai Thảo. Tôi dùng bút ch́ đánh dấu những chỗ đó rồi chú thích đề nghị Duyên Anh bỏ các đoạn đó đi, với lư do chúng chỉ làm rẻ tác phẩm mà thôi. Sau đó tôi cảm động và ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh nghe theo lời khuyên mà bỏ những đọan văn đó. Tôi mừng v́ nghĩ rằng môt con người cao ngạo và bướng bỉnh như Duyên Anh mà bây giờ biết “tu tỉnh” và biết nghe lời khuyên hợp lư rồi chăng? Nhưng không lâu sau th́ chứng nào vẫn tật nấy khiến tạo ra biết bao nhiêu là hệ lụy. Tuy nhiên, trong mối giao t́nh suốt gần hai thập niên 1980 – 90, đă có những lần Duyên Anh chịu lắng nghe tôi.

Có thể nói rằng Duyên Anh mang một cuộc sống nội tâm nhiều dằn vặt. Phải chăng điều này tạo ra một Duyên Anh bề ngoài khinh mạn, bướng bỉnh, phá phách? Có những chuyện riêng tư dường như Duyên Anh chỉ giữ kín trong ḷng không hề thố lộ với ai, kể cả người bạn thân nhất, từng gắn bó với Duyên Anh từ thời trai trẻ hàn vi hồi mới di cư, từng hy sinh rất nhiều cho Duyên Anh cả về vật chất lẫn tinh thần, là Đặng Xuân Côn. (Đặng Xuân Côn lớn tuổi hơn Duyên Anh nhưng lấy cô em vợ Duyên Anh – cô Minh ). Đây là ví dụ cho thấy t́nh thân giữa hai người bạn, và sự hy sinh của Đặng Xuân Côn dành cho Duyên Anh như thế nào: Hồi hai người c̣n nghèo, với đồng lương thư kư và chỉ đi làm bằng chiếc xe mô-bi-lét cọc cạch, mà Đặng Xuân Côn dám mua chiếc xe vespa mới toanh đầu đời cho Duyên Anh. Và ba lần vợ Duyên Anh đi sanh, th́ chính Đặng Xuân Côn là người vào bảo sanh viện trông nom săn sóc sản phụ và hài nhi, khiến cho các bác sĩ và y tá cứ tưởng Đặng Xuân Côn là cha mấy đứa trẻ!

Tôi nghĩ rằng hệ lụy đeo đẳng cuộc đời Duyên Anh có lẽ đă từ khi Duyên Anh kết hôn. Duyên Anh theo đạo Phật trong khi vợ theo đạo Chúa. Song h́nh như Duyên Anh cũng không quan tâm chuyện tôn giáo. Nguyễn Ngọc Phương – vợ Duyên Anh – là con nhà đại điền chủ Ḿền Nam Nguyễn Ngọc Đề, em Phó Tổng thống thời đệ Nhất Cộng Ḥa Nguyễn Ngọc Thơ. Ở Long Xuyên có con kinh gọi là Kinh Ông Đề, chính do cha vợ Duyên Anh cho đào để đem nước vô giúp dân làm ruộng.

Dù lấy vợ nhà giàu và có thế lực nhưng Duyên Anh hầu như không nhờ nhà vợ ǵ cả, v́ mẹ ruột Ngọc Phương mất sớm, và ba chị em gái gặp bà d́ ghẻ khắc nghiệt. Tuy vậy cũng khó tránh được “lời ong tiếng ve” và chính Duyên Anh sau này có viết mấy lần về thái độ xem thường của cậu em vợ, để rồi khi đă có danh vọng th́ Duyên Anh “tuyết hận “ (chữ của Duyên Anh).

Sau này nhờ có dịp tiếp xúc nhiều nên tôi được biết khá rơ về tính t́nh của vợ Duyên Anh. Chính v́ giữa hai vợ chồng không có được mối quan hệ hoà thuận kẻ tung người hứng, hiểu nhau, thông cảm cho nhau, nên gia đ́nh thỉnh thoảng xảy ra cảnh bất hoà. Theo ông Trần Kim Tuyến, hồi những năm trước 1975, cứ trung b́nh khoảng 2 – 3 tháng, vợ Duyên Anh lại đến khóc lóc nhờ ông và linh mục Thiên Hổ (Nguyễn Quang Lăm, báo Xây Dựng ) đi t́m Duyên Anh v́ anh chàng căi nhau với vợ, đă bỏ nhà đi biệt. Hai vị niên trưởng lại phải cho người đi ḍ la tin tức Duyên Anh, rồi khuyên nhủ hắn về với gia đ́nh. Đă đành vợ chồng nhà nào cũng đôi khi có chuyện mà người ta gọi là “bát đĩa có khi xô”. Nhưng với Duyên Anh h́nh như t́nh trạng này không phải chỉ xảy ra “thỉnh thoảng”.

Sau này, khi đă lâm cảnh mất nước, mất nhà, thân đi tù đi tội, thế mà cũng vẫn c̣n cảnh xào xáo lục đục. Lắm khi tôi cứ giả thiết: nếu Duyên Anh lấy một người vợ tính t́nh nhu ḿ, biết cách chiều chồng, biết nhẫn nhịn chịu đựng, th́ có lẽ Duyên Anh đă không gây gỗ và có cuộc sống gia đ́nh thật hạnh phúc. Duyên Anh ham bạn, rồi khi có sẵn đồng tiền th́ lại ham chơi vung vít. Khi sống cuộc đời tỵ nạn ở Paris, không c̣n tiền để vung vít nữa, nhưng tính ham bạn vẫn c̣n. Cộng thêm hoàn cảnh sống g̣ bó cả tinh thần lẫn vật chất, nên càng thèm bạn và chỉ c̣n cách t́m sự khuây khỏa bằng ly rượu. Bởi vậy, trong một lá thư gửi cho tôi hồi cuối năm 1987 trước khi bỏ Paris sang Hoa Kỳ, Duyên Anh viết:





Đây là lần duy nhất Duyên Anh thổ lộ tâm sự với tôi, c̣n b́nh thường không hề hé môi.

Trước đó không lâu, Duyên Anh tỏ ra buồn và cô đơn v́ cuộc sống ở Paris không thích hợp với ḿnh, nên đă làm bài thơ Lưu Đầy gồm 100 câu gửi tặng tôi.






Hiểu rơ tâm trạng Duyên Anh, tôi đă viết trả lời bằng bốn câu có giọng hơi trách móc như sau:


Đến được đây ta ở lại đây
Có ai vui kiếp sống lưu đầy
Sao vội quên câu “sông có khúc …”
Địa ngục, Thiên đàng, ai tỉnh say?


Viết như vậy, nhưng tôi biết rất rơ rằng Paris không phải nơi có thể cầm chân Duyên Anh được. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn cho Duyên Anh biết rằng đất Mỹ cũng chưa hẳn sẽ là nơi thích hợp với anh. Bởi v́ bây giờ thời thế đă đổi khác. Những người bạn mà anh tưởng có thể chia bùi sẻ ngọt, những người trước kia đă nhờ vả anh hoặc tỏ ra hào sảng với anh; tất cả bây giờ đă đổi khác rồi. Sẽ khó trông mong ǵ ở họ. Có kẻ gặp vận may trở nên khá giả, nhưng họ làm mặt xa lạ chứ không nồng nhiệt với anh. Có những người c̣n t́nh nghĩa nhưng lâm cảnh “ốc chưa mang nổi ḿnh ốc làm sao mang cọc cho rêu”.

Tôi cũng nhắc nhở Duyên Anh rằng nếu vẫn cứ muốn đi Mỹ th́ phải rất thận trọng. V́ đất Mỹ vốn có lối sống rất bạo động, mà bằng cách ăn nói, viết lách đụng chạm, gây thù oán với nhiều người của Duyên Anh, th́ khó tránh được tai họa.

Nhưng sau khi đọc hai lá thư cuối cùng của Duyên Anh viết từ Paris, tôi mới hiểu rơ thêm những nguyên nhân thúc đẩy Duyên Anh có quyết định dứt khoát. Trước nhất là sự việc liên quan đến buổi ra mắt 3 băng cassette nhạc do Duyên Anh thực hiện. Trước đó một thời gian Duyên Anh viết cho tôi, nói rằng cần tiền để làm việc này. May mắn là một mạnh thường quân giúp một khoản lớn, một vài anh em khác ủng hộ những món nhỏ. Và Duyên Anh ngỏ ư “vay” tôi một khoản nhỏ, hứa bán xong cassette sẽ trả ngay. Tôi đă gửi “ủng hộ, chứ không vay mượn ǵ cả”.

Chẳng ngờ, khi buổi ra mắt băng nhạc được tổ chức khá xôm tụ với hy vọng tràn trề của Duyên Anh, th́ bất ngờ vợ Duyên Anh ập đến phá đám. Bởi v́ vị mạnh thường quân của Duyên Anh là một phụ nữ. Người này tôi đă biết, và khoảng nửa năm trước đă mời tôi cùng Duyên Anh về nhà ăn cơm. Đây là một phụ nữ đă có 2 con gái học trung học và đại học ở Mỹ. “Bị” mời th́ tôi đến, nhưng tôi không tỏ ư kiến tán thành hay phản đối mối liên hệ này của Duyên Anh. V́ tôi nghĩ bạn tôi đă quá khôn ngoan từng trải và nhiều tài hoa. Do đó đi đến đâu cũng có rất nhiều người mến mộ. Đó là chuyện … b́nh thường. C̣n tôi “tài hèn trí đoản”, nên chỉ biết an phận mà thôi.

V́ vụ đánh ghen bất ngờ đó mà Duyên Anh và vị mạnh thường quân được bằng hữu đưa vội ra cửa sau, biến mất; c̣n quan khách cứ tự động giải tán trong sững sờ. Sau đó, vợ Duyên Anh tịch thu hết băng nhạc, cho nên không ai mua được, và chỉ một số rất nhỏ bạn thân của Duyên Anh có được các băng nhạc đó mà thôi. Sau vụ này Duyên Anh viết cho tôi:







Tất nhiên, không khí gia đ́nh Duyên Anh càng kém vui hơn. Có lẽ sự dằn vặt của vợ đă khiến cho Duyên Anh đi đến quyết định dứt khoát là bỏ gia đ́nh, bỏ Paris để đi Mỹ, mặc dù chưa có quốc tịch Pháp, mà cũng chẳng có một thứ bảo hiểm nào cả, trong đó bảo hiểm du lịch là tối quan trọng. Chính v́ vậy mà khi bị hành hung ngày 30/4/ 1988, Duyên Anh lâm vào t́nh trạng rất bi đát.Trong lá thư cuối viết từ Paris để tỏ cho tôi biết quyết định dứt khoát, Duyên Anh viết: ….





H́nh như khi sang Mỹ, Duyên Anh đến ở với gia đ́nh Đặng Xuân Côn một thời gian ngắn, rồi đi gặp một số bạn cũ và mới, rồi cũng viết cho một hai tờ báo (hồi đó báo chí VN ở hải ngoại c̣n phôi thai lắm). Và dĩ nhiên, Duyên Anh cũng đả kích vung vít khá nhiều người. Đụng chạm lớn nhất có lẽ là với mặt trận Hoàng Cơ Minh mà nghe nói hồi đó đang phát triển mạnh lắm.

Những hệ lụy do Duyên Anh tạo ra khiến đưa đến vụ hành hung thô bạo. Tôi thương và buồn cho Duyên Anh. Không lâu sau khi Duyên Anh đến Paris từ Pulau Bidong, tôi đă sang ngay để phỏng vấn và tường thuật trên BBC. C̣n nhớ, tôi đă chỉ mặt Duyên Anh mà bảo:

“Thôi nhé. Từ nay hăy chôn bỏ những thằng Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập Nguyện v.v… mà chỉ giữ lại thằng Duyên Anh nhé! Để cho người ta thương và tránh gây thù chuốc oán. Vả lại, viết lách và làm báo ngoài này rất khác với trong nước như cách các ông quen làm trước 1975”.

Khi đó, Duyên Anh đă cười, trả lời, “Tôi hứa với ông và thề sẽ chỉ giữ lại một thằng Duyên Anh thôi”.

Và vợ Duyên Anh đă đúng khi nói:

“Anh Duyên Anh thề cá trê chui ống!”


Những huyền thoại quanh vụ Duyên Anh bị hành hung.

Đă 29 năm rồi, kể từ cái ngày định mệnh 30/4/1988, ngày nhà văn Duyên Anh bị đánh suưt vong mạng. Lúc đó là 5 giờ sáng giờ Luân Đôn. Chuông điện thoại reo, tôi ngạc nhiên bật dậy khỏi giường và lẩm bẩm, “Ai gọi sớm thế!” Đầu giây bên kia, tiếng vợ Duyên Anh khóc và kể rằng chồng bị người ta đánh hôn mê bất tỉnh, chắc là chết mất! Tôi sững sờ, hỏi xem t́nh trạng Duyên Anh ra sao. Chị Ngọc Phương vẫn mếu máo, bảo, “đưa vào nhà thương, nhưng v́ anh Duyên Anh không có giấy tờ, không có bảo hiểm, nên chúng nó vất nằm một xó như con chó, không biết ǵ cả. Anh làm ơn gọi ngay cho bệnh viện, bảo lănh cho anh Duyên Anh, th́ họa may họ mới chữa cho. Anh làm ngay đi!”

Tôi hỏi tên bệnh viện, số điện thoại, và tên bác sĩ trực hôm đó. Vợ Duyên Anh cho mọi chi tiết. Bây giờ tôi chỉ c̣n nhớ được ông bác sĩ hôm đó có tên Fernandez (?) nên đoán ông ta gốc Mễ. Tôi gọi ngay, xin nói chuyện với ông ta, xưng tên họ, là Senior Producer trong đài BBC London, cho số điện thoại sở cũng như nhà riêng, kèm theo địa chỉ. Tôi cho biết Duyên Anh là một nhà văn nổi tiếng của VNCH, từ Paris sang Mỹ chơi, chứ không phải một tên vô gia cư (homeless ). Và tôi thay mặt gia đ́nh Duyên Anh, hứa sẽ thanh toán mọi phí tổn của bệnh viện. Sau đó, tôi gọi luôn đại diện PEN CLUB International ở Mỹ, nói cho biết sự thể, và đề nghị họ cũng gọi cho bệnh viện để giới thiệu thân thế và sự nghiệp Duyên Anh. Tôi lại gọi đại diện Secours Catholique của Pháp (một Tổ chức Thiện nguyện Công giáo) yêu cầu họ làm tương tự. Rồi sau được biết là Đặng Xuân Côn và con trai lớn của Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Chương đă từ Texas bay sang ngay để săn sóc cho Duyên Anh và lo mọi thủ tục giấy tờ.

Tôi yên tâm v́ Đặng Xuân Côn và Thiên Chương đă có mặt ngay bên cạnh Duyên Anh. Rồi được biết là sau một thời gian chữa trị trong bệnh viện, Duyên Anh được cho về. Một mạnh thường quân dấu tên (sau này nghe nói là Bùi Bỉnh Bân ), đă bí mật đem Duyên Anh về tiếp tục săn sóc. Theo gia đ́nh Duyên Anh th́ người này phải giữ hoàn toàn bí mật, v́ vào thời điểm đó người Việt tỵ nạn sống ở Mỹ rất hoang mang sau vụ Duyên Anh bị hành hung. Trước đó đă thỉnh thoảng có người bị khủng bố hoặc sát hại v́ bày tỏ thái độ chính trị. Vợ con Duyên Anh c̣n sợ rằng kẻ thù sẽ tiếp tục truy t́m để làm cho Duyên Anh chết luôn hầu bịt miệng. Cơ quan FBI gặp bế tắc v́ cộng đồng người Việt tại Orange County không có ai dám hợp tác để giúp cho cuộc điều tra truy t́m hung thủ.

Người ta sợ và hèn!

Trong khi đó, lại không thiếu những tin đồn, những lời rỉ tai trong quần chúng cũng như trong giới cầm bút về t́nh trạng sức khoẻ của Duyên Anh. Những người bạn tốt muốn t́m hiểu sự thực cũng mù tịt, trong khi có người tung tin là Duyên Anh đă về Pháp rồi. Thậm chí có một vài ông trong giới cầm bút c̣n tuyên bố (như thật) rằng Tổng thống Mỹ ra lệnh dùng một chuyến bay riêng để đưa Duyên Anh về Pháp, có nhân viên FBI đi theo bảo vệ! Ông khác lại nói rằng Tổng thống Pháp ra lệnh đem một máy bay đặc biệt sang đưa Duyên Anh về Pháp. Ấy thế mà người Việt ḿnh quả thật quá dễ tính, cứ tin là có thật. Nực cười nhất là cho đến tận ngày nay mà vẫn c̣n có nhiều người tin như vậy.

Vậy sự thật ra sao? Sự thật là sau một thời gian chờ đợi cho Duyên Anh phục sức để có thể ngồi máy bay về Pháp, tổ chức thiện nguyện Secours Catholique của Pháp gửi tặng 2 (hai) vé máy bay. Một cho Duyên Anh và một cho một người thân đi theo săn sóc. Chỉ có vậy thôi. Và từ đó, tại Paris, mỗi tuần Duyên Anh phải vào bệnh viện mấy lần để cho bác sĩ theo dơi sức khoẻ, rồi được cho tập vận động nhẹ nhàng (physio therapy), nếu không th́ sẽ bị bại liệt luôn. Thế rồi, với thời gian, với việc tập vận động, lần lần Duyên Anh sử dụng được tay trái và chân trái. Nghĩa là nửa người bên trái phục hồi tuy không mạnh như xưa, c̣n nửa bên phải vẫn liệt.

Tôi lại luôn luôn gọi qua Paris khích lệ để Duyên Anh đừng nản chí. Tôi thường nhắc Duyên Anh về một thí dụ mà chính Duyên Anh đă viết trong truyện của ḿnh về tấm gương nghị lực và ư chí phấn đấu không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, đó là con gọng vó (một loài nhện nước chân dài lêu khêu trông như những gọng của cái vó đánh cá). Trong một đoạn văn, Duyên Anh tả con gọng vó đứng trên một ḍng nước chảy xiết. Nó bị ḍng nước cuốn xuôi, nhưng không chịu thua. Nó gắng hết sức vượt lên, ngược ḍng. Rất nhiều lần nó bị cuốn xuôi, nhưng nó nhất định không chịu khuất phục, lại vượt lên ngược ḍng. Và tôi đă nhắc Duyên Anh h́nh ảnh con gọng vó để cho Duyên Anh lên tinh thần, khắc phục nghịch cảnh. Duyên Anh hứa với tôi sẽ làm như con gọng vó. Qủa nhiên, một thời gian sau, Duyên Anh đă viết bằng tay trái khá nhanh, tuy không đẹp được như ngày xưa viết bằng tay phải. Ngày xưa Duyên Anh nổi tiếng viết khá nhanh, chữ nhỏ li ti như con kiến, và rất đều, thẳng tắp. Bây giờ viết tay trái không nhanh và đẹp bằng, nhưng chữ cũng nhỏ và đều đặn.






Họa Vô Đơn Chí

Duyên Anh bị hành hung 30/4/1988, c̣n đang thời kỳ phục hồi sức lực và gậm nhấm đau thương th́ thảm họa lại bất ngờ chụp xuống đầu anh một lần nữa. Đó là sự mất đi đứa con gái duy nhất mà Duyên Anh rất thương v́ cháu rất thông minh lanh lợi: Vũ Nguyễn Thiên Hương cùng chồng tử nạn trong chuyến máy bay trở về, sau chuyến đầu tiên về thăm quê nội làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái B́nh. Chồng của Thiên Hương là David McAree, một thanh niên hiền lành gốc Tô Cách Lan. David nói tiếng Việt khá giỏi và trước kia có thời gian làm cho đài BBC. Khoảng gần cuối năm 1988, một hôm vợ Duyên Anh gọi điện thoại than phiền với tôi rằng con gái muốn đem chồng về thăm quê nội, nhưng chị không muốn. Chị cố thuyết phục và ngăn cản, nhưng nó vẫn giữ ư định. Cuối cùng, chị nói, “Tao bảo mày không nghe, mày cứ đi, nếu mày có rớt máy bay mày chết, tao cũng không thương đâu!” Tôi kêu lên, “Sao chị ăn nói ǵ kỳ cục vậy? Nói gở như vậy, nếu rủi có chuyện ǵ xảy ra th́ chị sẽ ân hận suốt đời đấy!” Rồi v́ bận rộn công việc, tôi cũng quên chuyện đó. Cho tới một hôm, em trai của Thiên Hương là Thiên Sơn gọi điện thoại sang báo tin, “Bác ơi! Chị Hương cháu tử nạn máy bay rồi! Bố cháu bảo cháu báo tin cho hai bác.”

Tôi như bị điện giật, sững người đi một lát mới hỏi, “Sao? C̣n thằng David? Bố cháu nay ra sao?” Sơn đáp: “Cả anh David cũng chết luôn. Bố cháu chỉ ngồi yên, không nói ǵ.”



Nguồn: Wikipedia


Th́ ra, vợ chồng cháu Hương về Việt Nam, ghé về quê nội thăm họ hàng. Ở chơi ít ngày, David c̣n nhảy xuống tắm ở ao làng, cả làng ra xem. Không ngờ trên chuyến bay đến Bangkok trước khi về Pháp th́ máy bay đâm xuống ruộng lúa khi gần tới thủ đô Thái Lan làm 76 người thiệt mạng. Bà mẹ góa của David xin đem hài cốt của con trai và con dâu về chôn trong hai ngôi mộ cạnh nhau ở gần nhà, trên Tô Cách Lan. Một thời gian sau, vợ chồng Duyên Anh được Thiên Chương là con trai lớn cùng Đặng Xuân Côn từ Mỹ sang, đưa đi thăm mộ Thiên Hương trên Tô Cách Lan. Họ ghé nhà tôi ở Luân Đôn làm trạm nghỉ chân ít ngày. Vợ Duyên Anh không ngớt cằn nhằn chồng tại sao để cho bà suôi gia giành lănh hết tiền bồi thường của hăng hàng không. Phần Duyên Anh chỉ nói, “Cái mạng con ḿnh đă mất rồi, c̣n chẳng giữ được, tranh giành tiền bạc để làm ǵ?”


Những tháng năm cuối đời

Bị tàn tật, chỉ sử dụng có nửa người bên trái, lại bị thêm thảm họa mất con gái, Duyên Anh như chết lịm hẳn đi. Nay trong mắt người vợ, Duyên Anh mất giá hẳn. Cho nên Duyên Anh lại càng phải nghe những lới cằn nhằn vốn đă quá quen thuộc. Tôi không ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh rất muốn thoát khỏi không khí tù túng của gia đ́nh. Thỉnh thoảng Duyên Anh sang ở với tôi ít ngày. Trong những dịp như thế, tôi lại đưa lên thành phố Cambridge cho thăm ông Trần Kim Tuyến và nhà văn lăo thành Lăng Nhân Phùng Tất Đắc. Những lúc như thế, Duyên Anh vui lắm, cứ như cá gặp nước.

Tuy nhiên, tôi v́ bận công việc nên khó thu xếp thời giờ để luôn luôn giúp bạn vui. Ngay như ở Paris, không dễ ǵ để Duyên Anh có thể đi đây đi đó gặp gỡ bạn bè. Họa hoằn mới nhờ được người đem xe đến chở đi. Và người có ḷng tốt cũng lại ngại ngùng không muốn làm phật ḷng bà Duyên Anh. H́nh như bà không muốn chồng đàn đúm, vui vẻ với bạn bè. Ngày xưa Duyên Anh c̣n khoẻ mạnh, sẵn tiền bạc, danh vọng, th́ có lư do chính đáng để bà giữ chồng v́ sợ tính nết trăng hoa của chồng đă đành. Nhưng nay Duyên Anh đă tàn phế, thất thế, không tiền bạc, mà bà cũng không muốn cho chồng ra ngoài. Cho nên Duyên Anh lại càng buồn bực khổ sở.

Khoảng giữa năm 1995, chẳng hiểu v́ sao, Duyên Anh phải kéo lê cái va-ly nhỏ, được bà đầm hàng xóm kêu giùm cái xe taxi, để đến tá túc ở nhà bà Bích Thuận. Rồi bà Bích Thuận bị vợ Duyên Anh gọi điện thoại dùng lời lẽ khá bất nhă. May quá, dịp đó bác sĩ Tuyến đang có mặt ở Paris, liền mua vé máy bay cho Duyên Anh sang Luân Đôn, định đến ở nhà tôi. Nhưng lại gặp rủi, là v́ đúng ngày hôm sau tôi phải lên đường đi Việt Nam trong công tác của BBC kéo dài sáu tuần lễ. Nên Duyên Anh phải lên Cambridge ở 3 tuần với bác sĩ Tuyến. Sau đó ông lại mua vé cho Duyên Anh sang Mỹ. Sang California, Duyên Anh được một số đàn em cưu mang: ở với Vũ Trung Hiền một thời gian, rồi Nguyễn Kim Dung đón về ở một thời gian.

Trong những năm này, có lần Duyên Anh trở về Paris để lấy quốc tịch Pháp. Nghe nói cũng thời gian này, FBI cử nhân viên sang Paris gặp Duyên Anh, cho biết họ đă t́m ra kẻ hành hung Duyên Anh trước kia. Nếu Duyên Anh muốn th́ khởi tố, họ sẽ bắt và đưa hung thủ ra toà. Nhưng Duyên Anh trả lời rằng anh không muốn làm ǵ nữa. Người Mỹ làm việc quá chậm, c̣n anh th́ đă cảm thấy chán hết mọi chuyện rồi. Thôi hăy bỏ đi! Cho nên vụ án này ch́m và bị quên luôn! Không phải tới năm đó Duyên Anh mới “bỏ qua” vụ án. Năm 1991 Duyên Anh sang nhà tôi. Tôi đă phỏng vấn để phát trên đài BBC. Khi được hỏi về vụ bị hành hung, Duyên Anh trả lời không c̣n thù hận ǵ những kẻ hành hung ḿnh. Duyên Anh bảo họ cứ sống thản nhiên, đừng lo ngại. Theo anh, có thể người ta nghĩ rằng anh đă sợ. Nhưng ai muốn nghĩ sao tùy ư.

Điều sót sa đau đớn cho Duyên Anh là trong những tháng năm cuối đời, khi đă thất thế, thân thể tàn tật, chỉ có thể sử dụng được tay trái và chân trái, nói năng cũng chậm chạp, đầu óc không c̣n minh mẫn như xưa, nên lắm khi cần phải có người giúp đỡ trong các sinh hoạt hàng ngày, tuy rằng vốn là người nhiều nghị lực và tự ái, Duyên Anh cố gắng, không muốn nhờ vả ai cả.

Ngay trong gia đ́nh đă thiếu đi t́nh thương yêu và sự an ủi săn sóc của một người vợ hiền. Cứ nh́n cảnh Duyên Anh ngồi ăn cũng đủ thấy hoàn cảnh bi đát của anh. Thường thường, Duyên Anh thích được ăn cơm để trong cái tô lớn, có chan canh, để có thể dùng tay trái xúc bằng muỗng mà ăn. Gặp những món ăn cứng, thái miếng to, hay phải gắp bằng đũa, th́ chịu chết! Đă vậy, c̣n bị đổ văi ngoài ư muốn. Có khi chỉ v́ một sự bất ưng ư nào đó, tô cơm đang ăn bị lấy đi, đem đổ vào thùng rác! Cho nên, đă từ lâu rồi, Duyên Anh chỉ muốn vùi đầu vào ly rượu để quên đời, quên sầu tủi.


Con người Duyên Anh

Cái xấu

Ai cũng biết rơ là Duyên Anh có quá nhiều kẻ thù. Ấy là do tính t́nh ngang bướng, cao ngạo. Nhưng tại sao Duyên Anh có giọng điệu cao ngạo, xem thường thiên hạ? Tôi đă hỏi thẳng Duyên Anh điều này th́ được trả lời,“Ông thấy tôi khi vào đời chưa nổi tiếng, chưa là cái ǵ cả, chỉ mới viết được có vài bài phóng sự gây tiếng vang, thế là linh mục Trần Du (nhật báo Hoà B́nh ) vội “đội” tôi lên. Rồi khi tôi “đánh” vài thằng tướng tá, chính khách tham nhũng và hèn, th́ chúng nó “cúp đuôi” lại. C̣n các bậc đàn anh mà tôi tin tưởng và quư trọng, hoá ra toàn là phường đạo đức giả hết. Thế th́ làm sao tôi không khinh chúng nó, tôi không lộng?”

Khi đă có “thế” rồi, Duyên Anh khinh đời, bắt đầu viết lách, ăn nói bừa băi, xem trời bằng vung, th́ thiên hạ lại càng ngán. Cũng có người giữ thái độ “tránh voi…” hoặc “không dây với hủi”. Tôi hỏi Duyên Anh rằng ngày xưa có bao giờ dùng ng̣i bút để tống tiền người ta không, th́ được trả lời, “Không. Nhưng khi tôi mới tung ra một bài điều tra về chuyện lem nhem ở một bộ - như Bộ Kinh tế chẳng hạn – th́ lúc tôi đang ngồi ở bàn phé, tên bộ trưởng cho anh thư kư đem đến cho tôi cái phiếu mua xe lambrette rẻ. Một lát sau, một anh khác đến xưng là người nhà của đối thủ của anh Bộ trưởng, đưa tôi một phong b́. Tôi đang thua phé, th́ dại ǵ không nhận hết? C̣n hôm sau tôi viết ǵ là chuyện khác! Tôi chẳng bênh thằng nào cả. Cần phang là tôi vẫn phang.”

Duyên Anh c̣n có lối ăn nói như vả vào mặt người đối thoại khi không bằng ḷng người ta, bất kể thân, sơ. Ví dụ một lần ngồi ăn ỏ Paris, trong cuộc tranh luận với Lê Trạch Lựu (tác giả bài Em Tôi) về âm nhạc và liên quan đến nhạc sĩ Lương Ngọc Châu. Lê Trạch Lựu lớn tiếng khoe:

“Mày nên nhớ là tao ở gần anh Lương Ngọc Châu mấy chục năm rồi nhé!”

Duyên Anh đáp liền:

“Mày ở gần anh ấy mấy chục năm th́ mày biết được anh ấy có mấy cái mụn ghẻ, chứ mày biết ǵ?”

Chúng tôi ph́ cười cả. Một lần khác, tôi và Duyên Anh đang ngồi trong quán th́ một anh tên M. ở Paris đă lâu nhưng chẳng có sự nghiệp ǵ cả, bước vào và đến bàn chúng tôi nói giả lả mấy câu. Chẳng ngờ Duyên Anh chặn liền:

“Thôi anh hăy đi về mà tắm đi đă, v́ anh hôi lắm không thể nói chuyện văn nghệ với chúng tôi được!”

Tôi đá nhẹ vào chân Duyên Anh dưới gầm bàn ra ư trách móc. Th́ Duyên Anh nói nhỏ:

“Thằng này chuyên đi ḍ la rồi báo với Pháp những quán ăn, cửa hiệu nào của người Việt trốn thuế, tôi khinh nó!”

Lại một lần khác trong quán của bà Đào Viên là bạn chúng tôi, một anh ăn mặc có vẻ diêm dúa, sán đến nịnh Duyên Anh:

“Tôi rất quí anh Duyên Anh. Tôi thích những anh em làm văn nghệ như anh.”

Ai ngờ Duyên Anh đập lại liền: “Anh biết ǵ về văn nghệ mà đ̣i nói chuyện văn nghệ với chúng tôi?”

Ngoài ra, Duyên Anh c̣n bị nhiều người ghét, v́ thói viết chửi bới người ta. Số người bị là nạn nhân của Duyên Anh không ít. Đến nỗi một lần mấy thân hữu ở Paris nói với tôi, “Ông Duyên Anh chửi hết mọi người, chẳng từ ai cả. Chỉ c̣n có ông Vĩnh Phúc là chưa bị chửi thôi. Chưa, chứ không hẳn là không đâu nhé!”

Tôi chỉ cười. Chứ c̣n biết nói sao? Tuy nhiên, h́nh như Duyên Anh có sự đối xử đặc biệt dành cho tôi? Có những lần bị tôi nói thẳng, sửa lưng, mà Duyên Anh không giận. Hay là Duyên Anh thấy tôi… vô hại, nên không chấp? Tôi thấy một điều là Duyên Anh rất thèm bạn, những người bạn chân t́nh, không dối trá.

Cái tốt

Nhân vô thập toàn. Ngoại trừ các bậc thánh, c̣n phàm nhân, ai cũng có một phần xấu và một phần tốt. Những bậc hiền sĩ, những người giàu ḷng khoan ḥa độ lượng th́ sẵn sàng bỏ qua cái xấu, lỗi lầm của tha nhân. Riêng tôi dễ chấp nhận một người bạn với cả cái xấu lẫn cái tốt, miễn là người đó thực ḷng với tôi. Có người hỏi tôi tại sao Duyên Anh tai tiếng và có nhiều kẻ thù như vậy mà tôi vẫn thân. Tôi chỉ có thể trả lời rằng chắc chắn tôi không thuộc số những người thù ghét Duyên Anh, và v́ tôi quí tài của Duyên Anh.

Theo tôi, Duyên Anh đa tài. Nếu tài của Văn Cao bao trùm ba lănh vực thi, nhạc, họa, th́ Duyên Anh cũng có khả năng cao khi viết văn, làm thơ, và sọan nhạc. Nhưng trước hết, cũng cần nói rằng Duyên Anh là người thông minh, lanh trí, óc tưởng tượng phong phú, và có một trí nhớ rất đáng nể (khi chưa bị đánh đến chấn thương năo bộ). Học hành chẳng có bằng cấp ǵ, nhưng chịu đọc, chịu học ở trường đời; và sự hiểu biết, sự suy nghĩ vượt xa nhiều người mang những học vị cao. Có lần ngồi uống rượu ở Paris, khi đă líu luỡi rồi, mà Duyên Anh c̣n có thể đọc liền một lúc 390 câu thơ anh đă làm trong tù. Ở nhà tôi bên Luân Đôn, Duyên Anh nói, “Ông cứ cho tôi uống rượu đi, tôi say, tôi đọc thơ cho ông nghe.”

Duyên Anh không thích rượu mạnh, chỉ uống rượu chát, và hai thứ anh ưa nhất là Côte du Rhône và Beaujolais. Tuy nhiên nếu bạn bè khui rựơu hiệu ǵ, Duyên Anh cũng hoan hỉ chấp nhận, không kén chọn.

Về tài năng làm thơ và viết tiểu thuyết của Duyên Anh, hiển nhiên tôi chẳng cần đề cập. Nhưng có lẽ rất ít người biết là Duyên Anh cũng viết nhạc. Và đáng lẽ đă có 3 băng cassette được tŕnh làng khoảng giữa năm 1987. Đó là các băng Ru Đời Phù Ảo, C̣n Thoáng Chiêm Bao, và Hôn Em Kỷ Niệm, nhưng buổi ra mắt ở Paris bất ngờ tan vỡ v́ bà vợ Duyên Anh đến phá khiến cho Duyên Anh và vị “nữ mạnh thường quân” phải biến mất qua cửa sau. Tất cả các băng nhạc bị vợ Duyên Anh thu hết không cho bán ra. Bởi vậy nhạc của Duyên Anh ch́m luôn, chỉ vài bạn thân c̣n giữ được do Duyên Anh gửi tặng từ trước. Sau này nhân một dịp Mai Hương được mời hát mấy bản ở California, nên có một số người được biết và c̣n nhớ. Nhạc của Duyên Anh mang nét đặc biệt khác lạ, từ những nốt đang hát khó đoán được những nốt kế tiếp. Chính Mai Hương đă nói rằng “nhạc của Duyên Anh khó hát. Nếu vô ư rất dễ rớt đài.” Ngoài ra, ư và lời đẹp, nhiều tính sáng tạo, giống như ư và lời trong văn và thơ của Duyên Anh vậy.





Nguồn: duyenanhvumonglong.wordpress.com


Theo tôi, trong Duyên Anh có hai con người. Nếu muốn cũng có thể bảo rằng hai con người đó tượng trưng cho hai mặt tốt và xấu của Duyên Anh. Mặt xấu chính là Duyên Anh làm báo, dưới những bút hiệu như Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập Nguyên, Mơ Báo v.v., v́ “đánh đấm” lung tung nên bị nhiều người oán ghét. C̣n Duyên Anh nhà văn, nhất là nhà văn của tuổi thơ, nhà văn viết cho tuổi ô mai, Duyên Anh chủ trương tuần báo Tuổi Ngọc, th́ trái hẳn lại, được nhiều người thương. Có ai đă đọc Con Sáo Của Em Tôi mà không thấy ḷng ḿnh chùng lại và dám nói là thù ghét Duyên Anh? Nguyễn Mạnh Côn là người đầu tiên đọc truyện ngắn này, thích quá, nên giới thiệu và chọn đăng ngay. Rồi Nguyễn Mạnh Côn bảo Duyên Anh, “Cậu viết hay quá! Nhưng tôi sợ rằng viết như thế này, cậu sẽ không thọ!”.

Và câu nói của Nguyễn Mạnh Côn đă như một lời tiên tri: Duyên Anh ĺa đời cách đây 20 năm, khi mới 63 tuổi. Vào thời buổi này, với những điều kiện vật chất văn minh và đầy đủ, mà sống có bấy nhiêu năm th́ quả là “yểu mệnh” thật.

Vĩnh Phúc
Tháng 2, 2017


Nguồn: _DCVOnline.net
Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập và minh hoạ.
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #5
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Tính nhân bản
trong bài học quốc văn tiểu học miền Nam trước 75
Nguyễn Văn Bon










Sau biến cố 30-4-1975, nhà cầm quyền ra lệnh tiêu hủy các loại sách của Miền Nam kể cả sách giáo khoa môn quốc văn các cấp. Do đó, việc sưu tập các sách quốc văn cũ rất khó khăn. Tài liệu sử dụng trong bài viết này gồm Bộ quốc văn giáo khoa thư, Luân lư giáo khoa thư do các nhà xuất bản nước ngoài tái bản, và một số bài trong các sách quốc văn bậc tiểu học được giảng dạy tại các trường miền Nam được vài nhà sưu tầm đưa lên trang mạng, thêm vào đó một số bài do trí nhớ hạn chế của người viết, nên chắc chắn những điều tŕnh bày c̣n thiếu sót.





I. Dẫn nhập

Mục đích của giáo dục không phải chỉ truyền thụ những kiến thức, mà là đào tạo con người toàn diện, không thể tách rời kiến thức và đạo đức. Đạo đức làm người phải được đề cao, như đức hiếu thảo, yêu thương gia đ́nh, ông bà cha mẹ, yêu thương họ hàng thân tộc, có lương tâm trong mọi sinh hoạt, có trách nhiệm với tha nhân, góp phần bảo vệ cuộc sống cho xă hội.

Muốn đạt được mục đích này, không thể không quan tâm đến vai tṛ của sách giáo khoa. Khi đề cập đến vai tṛ của sách giáo khoa bậc tiểu học, nhiều nhà giáo dục luôn nhắc đến bộ sách Quốc văn giáo khoa thư của Trần Trọng Kim, Đỗ Thận, Nguyễn Văn Ngọc và Đặng Đ́nh Phúc, xuất bản từ những năm 1930 – 1940, là một trong những sách giáo khoa Việt ngữ được dạy ở các trường tiểu học Việt Nam trong suốt những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ 20.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, nước Việt Nam tạm thời chia đôi ở vĩ tuyến 17, thành hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc xây dựng một nền giáo dục hướng mục tiêu đến Chủ nghĩa xă hội. Trong khi đó, tại Miền Nam theo chính thể tự do. Các nhà giáo dục Miền Nam tỏ ra rất thận trọng. Họ chủ trương cải tổ từ từ, chọn lọc để thích ứng với hoàn cảnh mới. Những ǵ người Pháp thiết lập không bị hủy bỏ ngay. Hệ thống giáo dục Pháp từ cấp tiểu học đến đại học được từ từ Việt hóa.

Chương tŕnh giáo dục Việt Nam cũ ban hành năm 1945, dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, được gọi là chương tŕnh Hoàng Xuân Hăn, vẫn c̣n áp dụng cho đến giữa thập niên 1950. Dưới thời Đệ nhất Cộng Ḥa, chương tŕnh Việt mới bắt đầu thay thế chương tŕnh Pháp.

Nhờ quyết định đúng đắn và thận trọng của những nhà giáo dục miền Nam mà sự chuyển sang một nền giáo dục mới không bị trục trặc.

Riêng chương tŕnh môn Quốc văn bậc tiểu học, dựa theo nội dung các bài học về đạo đức trong bộ sách Quốc văn giáo khoa thư và Luân lư giáo khoa thư làm cơ sở rồi soạn một chương trỉnh phù hợp với hoàn cảnh mới, nhằm rèn luyện cho thế hệ tương lai cả đức lẫn tài để chuẩn bị trở thành những con người hữu dụng đối với bản thân, gia đ́nh và xă hội.

Theo chủ trương một chương tŕnh, nhiều sách giáo khoa, chỉ cần theo chương tŕnh và hướng dẫn của Bộ Giáo dục, các soạn giả sách giáo khoa được tự do chọn bài, trích dẫn từ những tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng hoặc có thể tự ḿnh sáng tác những bài thơ, bài văn theo chủ đề giảng dạy để đưa vào sách, và giáo viên cũng có quyền chọn quyển sách giáo khoa để giảng dạy. Nhờ vậy, các soạn giả cố gắng để soạn ra những sách giáo khoa có giá trị. (1)

Thông thường, ở trang b́a của quyển sách, soạn giả ghi: “Soạn theo chương tŕnh hiện hành của Bộ Quốc gia Giáo dục”… Có thể kể một số tên sách như:

-100 bài tập đọc Lớp Nhất và Lớp Nh́ (Một Nhóm Giáo Viên. NXB: Việt Hương),
- Nhị thập tứ hiếu (Lư văn Phức.NXB: B́nh dân thư quán),
- Quốc văn Lớp Nh́, Quốc văn Lớp Nhất (Một nhóm Giáo viên. NXB: Việt Hương),
- Quốc văn toàn thư, Lớp Ba (Phạm trường Xuân & Yên Hà -Kinh Dương & Một Nhóm giáo viên. NXB: Việt Hương),
- Việt ngữ tân thư, Lớp Nhất, Việt Ngữ Tân Thư, Lớp Nh́ (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Sống Mới),
- Việt văn Tân thư, Lớp Nh́ (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Sống Mới),
- Việt văn Toàn thư (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Nhật Tảo),
- Tân Việt Văn, Lớp Bốn (Bùi văn Bảo. NXB: Sống Mới),
- Quốc văn Toàn Tập, Lớp Nhất (Bùi văn Bảo, Đoàn Xuyên. NXB: Sống Mới),
- Giảng văn, Lớp Đệ Thất (Đỗ văn Tú, NXB: Việt Nam Tu Thư),
- Tiểu Học Nguyệt san (NXB: Nha Học Chánh Bắc Việt) (2)

Ngoài những sách giáo khoa, giáo viên có thể sử dụng những tác phẩm của những nhà văn có uy tín để bổ sung cho bài học trong lớp, như cuốn:

Tâm Hồn Cao Thượng (nguyên tác Grand coeurs của Edmond de Amicis. Dịch giả: Hà Mai Anh, 1952. NXB: Mai Đ́nh),

Thơ ngụ ngôn (Les Fabres de la Fontaine, Dich già: Nguyễn văn Vĩnh)…

Trong phạm vi bài viết ngắn, xin trích dẫn một số bài học về bổn phận đối với xă hội trong các sách “Quốc văn Giáo khoa Thư”, “Tâm Hồn Cao thượng” và một số sách giáo khoa của tác giả khác. Những bài học nói lên tinh thần nhân bản của nền giáo dục miền Nam trước năm 1975. Bài viết gồm:


•Khái niệm về nhân bản và triết lư nhân bản của nền giáo dục Miền Nam trước năm 1975.
•Nội dung các bài học mang tính nhân bản trong sách quốc văn bậc tiểu học.


II. Khái niệm về nhân bản và triết lư nhân bản của nền giáo dục Miền Nam trước năm 1975.

Từ năm 1959, nền giáo dục miền Nam (Việt Nam Cộng Ḥa) đă lấy nguyên tắc căn bản: Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng làm triết lư giáo dục, và được ghi lại trong hiến pháp 1967.

Ba nguyên tắc căn bản: Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng là mục đích và tôn chỉ của nền giáo dục Miền Nam. Chính những nguyên tắc này đă giữ cho truyền thống dân tộc được bảo tồn và phát triển vững vàng, nhưng không bảo thủ, và từng bước theo kịp đà tiến triển của nhân loại.

Nền giáo dục nhân bản lấy con người làm gốc, tôn trọng giá trị của con người, đề cao giá trị siêu việt của con người. Con người khác hơn các sinh vật khác, con người có suy tư, có sáng tạo và làm cho đời sống càng ngày càng nâng cao. Con người cần được no cơm ấm áo, tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng.






Trong xă hội có những cá nhân khác biệt, nhưng không thể đánh giá con người qua sự khác biệt đó để kỳ thị giàu nghèo, giới tính, tôn giáo, địa phương, chủng tộc…Mọi người đều được hưởng đồng đều về giáo dục (3). Đường hướng của nền giáo dục nhân bản là rèn luyện con người có nhân cách, có thái độ sống phù hợp với nguyên tắc đạo lư mà mọi người thừa nhận.

Do đó, một con người có nhân cách sẽ có ḷng yêu thương: yêu gia đ́nh, yêu đồng bào đồng loại và yêu quê hương đất nước. Nói cách khác, giáo dục không phải chỉ dạy kỹ năng nghề nghiệp hay kiến thức mà phải dạy làm người.

III. Nội dung các bài học mang tính nhân bản trong sách quốc văn bậc tiểu học

Nội dung, tư tưởng trong các sách giáo khoa tác động đến h́nh thành và phát triển nhân cách của trẻ thơ, nó in sâu vào tâm năo trẻ thơ ngay trong giai đoạn đầu cắp sách đến trường cho đến lúc trưởng thành.

Các sách giáo khoa bậc tiểu học của miền Nam (Việt Nam Cộng Ḥa) trước 1975 chú trọng những vấn đề luân lư đạo đức truyền thống, vẫn hàm chứa nội dung đạo đức trong các sách giáo khoa cũ của thế hệ 1940.

Sau đây là một số bài tiêu biểu về t́nh thương yêu đồng bào, đồng loại, ḷng biết ơn đối với mọi người trong xă hội, t́nh yêu quê hương đất nước và t́nh yêu nhân loại.

1. T́nh thương yêu đồng bào, đồng loại

Từ buổi đầu dựng nước và giữ nước, người dân Việt Nam đă trải qua biết bao gian nan thử thách. Tổ tiên chúng ta đă đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn phức tạp, vừa khắc phục mọi trở lực khắc nghiệt của thiên nhiên để mở mang bờ cơi giang san, vừa phải chiến đấu giữ nước, chống kẻ thù mọi phía, đặc biệt là thế lực hùng mạnh phương bắc. Để tồn tại và phát triển, tổ tiên chúng ta đă ư thức cần phải đoàn kết thật sự, cần phải nương tựa vào nhau và thương yêu nhau như những người con cùng một mẹ.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên ḥn núi cao


Tinh thần đoàn kết này tạo thành truyền thống lưu lại cho con cháu mai sau.

Theo truyền thống của người Việt Nam, t́nh thương yêu không chỉ dành cho trong gia đ́nh, mà mở rộng đến cả đồng bào và đồng loại. Một giá trị tốt đẹp của con người là ḷng nhân đạo. Muốn sống cho đúng nghĩa, con người phải biết thương yêu lẫn nhau. Khi thấy người hoạn nạn, đau yếu phải giúp đỡ bằng t́nh thương yêu chân thành. Quốc văn giáo khoa thư mượn bài thơ trong gia huấn ca để dạy học sinh:


Thấy người hoạn nạn th́ thương,
Thấy người tàn tật lại càng trông nom,
Thấy người già yếu ốm ṃn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa
Nguyễn Trăi(Gia huấn ca)


Có nhiều câu ca dao tục ngữ ẩn chứa triết lư t́nh thương được giảng dạy trong nhà trường, đă in sâu trong tâm khảm người Việt Nam:

“Lá rành đùm lá rách”
“Thương người như thể thương thân”
“Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng” (4)


Người trong một nước phải thương yêu nhau như con một nhà. Bài học về “Cậu bé miền Nam” trong quyển Tâm hồn cao thượng đă dạy học sinh về ḷng thương yêu, không phân biệt Bắc Nam.

Một cậu bé miền Nam lên miền Bắc theo học. Được thầy giáo giới thiệu với các học sinh trong lớp, và được các học sinh nhiệt t́nh chào đón.

Thầy giáo nói với cả lớp:

“….Cho được các kết quả nói trên, nghĩa là làm cho đứa bé xứ Nam ra ở xứ Bắc cũng như ở nhà ḿnh, và đứa bé ở xứ Bắc vào xứ Nam cũng tựa như về quê ḿnh, nước ta phải chiến đấu trong 50 năm trời và đă hy sinh trên ba vạn người mới khôi phục được quyền tự do ấy. Vậy các con phải coi nhau như con một nhà, yêu nhau như anh em ruột thịt. Kẻ nào thấy người bạn mới không phải là người xứ ḿnh mà đem ḷng khinh rẻ, kẻ ấy không xứng đáng ngẩng mặt nh́n ngọn quốc kỳ đi qua…”(5)

Các bài học về t́nh thương yêu đồng bào, đồng loại đă nhắc nhở học sinh phải tôn trọng mạng sống của con người, có ḷng nhân ái, biết trọng của người và không vọng ngữ. Đây là thước đo tiêu chuẩn đạo đức, nhân cách của con người

1.1. Tôn trọng mạng sống của con người

Mạng sống của các sinh vật rất quí. Mạng sống của con người có giá trị tối cao. Nếu mỗi cá nhân biết quí mạng sống của ḿnh, th́ không thể xem thường mạng sống của kẻ khác. Một dân tộc được coi là văn minh là một dân tộc biết đề cao giá trị nhân phẩm của con người. Một người có ḷng lương thiện không bao giờ sát hại đến sinh mạng của đồng loại và sinh mạng của cả sinh vật khác. Chỉ có con người dă man mới coi thường mạng sống của con người. Không sát sinh là cách chặn đứng ḷng tham dẫm lên sinh mạng con người và sinh vật để mưu cầu tư lợi cho bản thân ḿnh. Không sát sanh c̣n là nuôi dưỡng ḷng trắc ẩn, từ bi đối với muôn loài.

“Trọng cái tính mệnh của người ta, là đừng làm điều ǵ phạm đến thân thể và quyền tự do của người ta. Người ta ở đời, không có ǵ trọng hơn cái tính mệnh, hễ phạm đến, là một tội đại ác.Không những là giết người mới có tội, cậy quyền cậy thế mà hà hiếp người ta, làm mất cái quyền tự do của người ta, cũng là một điều trái với lẽ công b́nh, người có lương tâm không ai làm.”(6)

1.2. Ḷng nhân ái

Không phạm đến tính mệnh, của cải, danh giá, sự tự do và sự tín ngưỡng của người. Nhưng đó chỉ là giữ không làm điều ác mà thôi. Như thế vẫn chưa đủ bổn phận làm người. Phải có ḷng nhân ái.

Nhân ái là ḷng từ thiện, thương người đói khát, giúp người hoạn nạn. Có ḷng nhân ái, th́ mới làm những việc như bố thí, cứu giúp kẻ nghèo khổ, mới biết thân yêu mọi người và quên ḿnh mà làm điều thiện. Người có ḷng nhân ái dám hy sinh cứu người trong lúc nguy nan như người thầy thuốc không sợ lây khi chữa những bệnh truyền nhiễm; người lính liều sống chết ở chỗ chiến trường để giữ lấy nước nhà. Họ v́ ḷng nhân ái mà ra sức làm nghĩa vụ.

Bổn phận người ta đối với xă hội, thường chia làm hai mối là: công b́nh và nhân ái. “Không hại người” tức là công b́nh, “làm hay cho người” tức là nhân ái.

Câu “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” trong sách Luận Ngữ, tức là công b́nh. C̣n nhân ái th́ ta có thể nói được rằng: “kỷ sở dục giả, khả thi ư nhân”. Người ta mà không công b́nh, chẳng những có tội đối với lương tâm, mà luật pháp lại c̣n trừng trị nữa. Giết người th́ phải thế mạng; trộm cắp th́ phải ngồi tù, xưa nay ở đâu cũng vậy.

Con người mà không có ḷng nhân ái, th́ tuy đối với luật pháp không có tội lỗi, nhưng đối với lương tâm, th́ là không phải. Gặp người đói khó, mà ḿnh không giúp người ta, cũng không ai bắt được ḿnh, nhưng trong bụng không đành.(7)

Người có ḷng nhân ái th́ không những là chỉ thương xót đồng loại mà thôi, lại c̣n thương xót đến cả loài vật nữa.

…Những loài vật đă giúp việc cho ta mà ta phải thương xót, là cái nghĩa vụ của ta. Nhưng đối với loài cầm thú khác, ta cũng nên có ḷng nhân ái mới phải đạo làm người. Cầm thú tuy là giống không biết thiện ác và phải trái như người, nhưng nó cũng biết đau, biết khổ như ḿnh…(8)

V́ t́nh nghĩa đồng bào mà phát tâm bố thí, cứu giúp người đói khổ, hoạn nạn; chia xẻ miếng ăn, manh áo cho người khốn khổ. Sống đạm bạc, cứu giúp người đồng loại là hành đông của con người có ḷng nhân ái.

Người có ḷng nhân ái, không chỉ bố thí miếng cơm manh áo hay tiền bạc khi thấy người đói khổ, mà v́:

Nghĩa đồng bào khiến ta thương yêu mọi người như là thương yêu anh em ruột. Bao giờ ta cũng sẵn ḷng giúp đỡ mọi người, để người ta làm tṛn cái nghĩa vụ ở đời. Ta phải dạy bảo những người ngu dốt, khuyên người làm điều lành, răn người làm điều ác. Ta nên che chở cho những người bị oan ức và bênh vực những người hèn yếu. Ta phải ăn ở thế nào cho đứa con mồ côi có thể coi ta như cha, người quá phụ coi ta như ân nhân. Ta làm mắt cho kẻ mù, làm chân cho kẻ què, làm tai cho kẻ điếc. Lúc nào cũng sẵn ḷng nhân từ mà giúp đỡ mọi người trong lúc nguy hiểm.(9)

Khi thấy ai nghèo đói, khổ sở, ḿnh cho cơm ăn, áo mặc, hoặc cho tiền bạc để giúp đỡ người ta đỡ khổ trong một lúc. Nhưng việc bố thí này phải “… tự nhiên, không cầu kỳ, không khoe khoang, mà có phần thiệt tḥi cho ḿnh th́ mới quí. Không cứ cho ít hay cho nhiều, miễn là ḿnh có ḷng thành thực, biết thương xót kẻ nghèo khổ, th́ mới là phải cái nghĩa bố thí.”(10)

Ngoài việc bố thí, “người có ḷng nhân ái thường hay nghĩ đến việc thiện, như là thấy ai nghèo khổ th́ đỡ đần, t́m công việc cho người ta làm, hoặc cứu giúp những cô nhi, quả phụ cho người ta khỏi đói rét, vất vả.”(11)

Lời một bà mẹ nói với đứa con trong bài “Kẻ khó” (Tâm Hồn Cao Thượng) không chỉ làm rung động tâm hồn của trẻ thơ, mà ngay đối với người lớn tuổi cũng không khỏi bùi ngùi.

Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó th́ thiếu hết. Khi con mong sao được sung sướng th́ người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một khu có bao nhiêu nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn c̣n thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay! Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô t́nh th́ từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó mà không cho ǵ!(12)

Bài thơ “Cách ăn ở” và “Những đứa trẻ mồ côi” là bài học luân lư về ḷng nhân đạo mà học tṛ bậc tiểu học được học nằm ḷng. Khi thấy người hoạn nạn, đau yếu phải giúp đỡ bằng t́nh thương yêu chân thành. (13)


Cách ăn ở

Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người cô quả cô đơn
Thương người đói rách lẩm than kêu đường.
Thấy ai đói rét th́ thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên
Nguyễn Trăi(Gia huấn ca)


Những đứa trẻ mồ côi

Có những con người đang thời hoa nở,
Sống trong niềm đau khổ: kiếp lầm than.
Cặp chân non ngày tháng những lang thang,
Trên đường phố ngút đầy bao gió bụi.
Tuổi niên thiếu dệt trong ngàn sầu tủi,
Không gia đ́nh, cha mẹ, khát t́nh yêu.
Ôi long đong, thân trẻ nhỏ sớm chiều,
Ngàn cực nhục cũng chỉ v́ cơm áo!
Tuổi niên thiếu lớn dần trong khổ năo,
Mặt trẻ trung đầy những nét đau thương.
Sống lầm than, dầu dăi nắng mưa sương,
Thân c̣m cơi không đủ đầy nhựa sống.
Những trẻ ấy dưới bầu trời cao rộng,
Đưa mắt nh́n thèm khát cảnh yên vui.
Có chăng ai, chỉ một phút ngậm ngùi,
Cho thân phận con người xấu số.
Xuân Chính
(Tiểu học nguyệt san, tháng 3/1959)

1.3. Trọng của người

Người lương thiện, có đạo đức là người biết trọng tài sản, của cải của người khác. Tài sản là huyết mạch, liên hệ đến mạng sống của con người. Hăy b́nh tâm suy nghĩ, chúng ta không muốn ai cướp đoạt tài sản của ḿnh, th́ không thể nào chúng ta lại đi chiếm đoạt tài sản, của cải của người khác. Các hành vi bất lương dùng đủ mọi mưu mô, mánh khóe, lường gạt để chiếm đoạt đều là trộm cướp. Người được coi là đạo đức, dĩ nhiên là không trộm cướp, không tán thành và không giúp đỡ những người có hành động trộm cướp.

Của cải của ai, là người ấy có quyền chi dụng và có quyền để lại cho con cháu. Ta không nên phạm đến của cải của người ta. Không phải chỉ những đứa ăn trộm ăn cắp mới là người bất lương mà thôi. Điên đảo giả dối để đánh lừa người ta, đi vay vỗ nợ, bắt được của rơi mà không trả, cũng là bất lương cả.

Ta phải biết rằng cái ǵ đă là không phải của ḿnh th́ ta đừng đem ḷng tham mà chực lấy không, v́ rằng lấy không của người ta, là một sự rất trái với đạo công bằng. (14)

1.4. Không vọng ngữ

Dùng lời lẽ, ngụy biện để làm sai lạc sự thật, nhầm đem lại lợi lộc cho ḿnh, làm hại người khác đều là nói dối, vọng ngữ. Người đạo đức là người tôn trọng sự thật, không có tâm tham ác, không tán thành sự nói dối. Chuyện không nói có, chuyện có nói không, dựa vào những nguồn tin vu vơ để kết tội người khác là vọng ngữ. Trong gia đ́nh và trong xă hội mà con người thiếu ḷng tin với nhau th́ cuộc sống ấy vô cùng đau khổ. Tuy nhiên cũng có những trường hơp v́ mục đích cứu người lương thiện, bất đắc dĩ phải nói lời không thật; đây là một ngoại lệ (một vị bác sĩ phải dùng lời an ủi bịnh nhân).

Không nói dối bao gồm cả không nói lời ác khẩu, nói xấu, nói vu, chửi mắng, nhục mạ xúc phạm đến phẩm giá con người; không dùng lời trao chuốc, phù phiếm nhầm làm cho người khác có suy nghĩ sai lầm, đi đến hành động sai trái.

Sự nói xấu là cái tật cứ đi bới móc chuyện xấu của người ta mà nói. Người nói xấu là có ác ư hoặc để thỏa ḷng ghen ghét, hoặc để khoe cái hay và che cái dở của ḿnh. Người nói xấu là người hèn hạ đáng khinh, v́ chỉ nói những lúc vắng mặt người ta, để làm cho người ta mất danh giá.

Vậy không những ta không nên nói xấu ai, mà cũng không nên nghe chuyện người ta nói xấu nhau.(15)

Nói vu là đặt chuyện ra mà vu cho ai để hại người ta, hay là làm cho người ta mất danh giá. Những người nói vu là người hèn mạt, bày đặt ra chuyện nọ tṛ kia để làm cho người ta mang tai mang tiếng, phải những điều oan ức, khó ḷng mà rửa sạch được.

Ta đi học, đă biết điều phải trái, th́ ta chớ hề nói vu cho ai bao giờ. Ta nên cho những điều ấy là điều hèn mạt, đáng khinh bỉ.(16)

Ngoài ra, chúng ta nên nhớ rằng:

Của cải của người ta, không phải chỉ nói riêng về tiền bạc, ruộng nương, nhà cửa, đồ đạc mà thôi, lại có một thứ của cải quí giá hơn nữa là cái danh giá ở đời. Danh giá tức là danh thơm tiếng tốt của người biết tự trọng ḿnh, biết quí cái tư cách làm người, mà khinh bi những điều hèn mạt đê tiện.

Của cải mất đi th́ c̣n làm ra được, chớ cái danh giá đă mất th́ khó ḷng mà lấy lại được. Thánh nhân dạy rằng “Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác”, nghĩa là người quân tử làm thành tiếng hay cho người, chớ không làm thành tiếng xấu cho ai bao giờ. Vậy bổn phận ḿnh trong xă hội là phải trọng cái danh giá của người ta, đừng có nói xấu ai, nói vu cho ai điều ǵ.(17)

2. Ḷng biết ơn mọi người trong xă hội

Mọi người sống trong xă hội đều có tương quan nhau. Do nương nhờ nhau mà cuộc sống của mỗi cá nhân mới an ổn. Trong gia đ́nh th́ cha mẹ, vợ con, anh em nương tựa nhau. Ngoài xă hội, mọi người không thể sống lẻ loi. Tách rời mọi người ra, chúng ta không có cuộc sống an toàn. Cho nên đối với mọi người, chúng ta phải biết ơn, không được làm tổn hại. Câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn,” nói lên tinh thần biết ơn, là truyền thống đạo lư của con người Việt Nam.

Người làm ruộng có trồng trọt cấy cày, th́ ta mới có thóc gạo mà ăn. Thợ nề, thợ mộc có làm nhà, th́ ta mới có nhà mà ở. Thợ dệt có dệt vải, thợ may có may áo, th́ ta mới có đồ mặc vào ḿnh. Quyển sách ta học cũng phải có người làm, người in. Cái đường ta đi cũng phải có người sửa, người quét. Nói tóm lại, nhất thiết một chút ǵ ta cần dùng đến, cũng là có người chịu khó làm việc mới nên.(18)

Thật vậy, trong xă hội muốn sinh tồn th́ mọi người phải có bổn phận đem sức ḿnh giúp vào sự ích lợi chung. Bài “Giấc mộng” dạy học sinh biết yêu mến và nhớ ơn mọi người.

Nằm mộng thấy nông phu lại bảo:
“Ra công làm kiếm gạo từ đây.
Tao thôi chẳng có nuôi mầy,
Phải lo trồng trọt cấy cày cho siêng.”
Người dệt cửi dặn mỉnh làm áo;
Chú thợ hồ lại bảo cầm bay!
Bơ vơ chẳng kẻ đoái hoài,
Tôi mang thơ thẩn đọa này cùng nơi.
Tôi túng thế vái trời cứu thử,
Lại thấy kia sư tử trên đàng!…
Tỉnh ra, thấy sáng, mơ màng!
Tiểu công hút gió, rộn ràng trên thang;
Nghe máy dệt rần rần tiếng chạy;
Ruộng đâu đâu cũng cấy đă xong.
Phận ḿnh nghĩ lại thong dong,
Mới hay dưới thế ai không nhờ người.
Từ ngày rơ cuộc đời đắp đồi,
Cám thương người xă hội như nhau.
Dập d́u kẻ trước người sau,
Sức riêng một ít giúp vào lợi chung.
Nguyễn ngọc Ẩn
(100 Bài Tập đọc, Lớp Nhất và Lớp Nh́)

Bài học “Nên giúp đỡ lẫn nhau” cho thấy h́nh ảnh hai cậu bé phụ đẩy xe giúp ông lăo, là bài học nhắc nhở học sinh về t́nh tương thân tương ái.

Trời nắng to. Đường th́ dốc. Một ông lăo đẩy chiếc xe lợn. Trên chiếc xe có có ba bốn con lợn to, chân trói, bụng phơi và mồm kêu eng-éc. Ông lăo cố đẩy cái xe, mặt đỏ bừng, mồ hôi chảy, mà xe vẫn không thấy chuyển.

Mấy cậu bé đang chơi trên bờ đê, thấy thế, vội chạy tới, xúm lại, buộc dây vào đầu xe mà kéo hộ.

Xe lên khỏi dốc, ông lăo cám ơn các cậu và các cậu cũng lấy làm vui ḷng, v́ đă giúp được việc cho người.(19)

Trong quá tŕnh dựng nước và giữ nước, những bậc tiền nhân đă đổ biết bao nhiêu xương máu để vun bồi và tô điểm cho mảnh giang san gấm vóc. Họ là những vị anh hùng dân tộc. Anh hùng, không phải chỉ có những người có chiến công hiển hách, có tài năng nổi bật làm những việc phi thường được ghi công trong sách sử, mà c̣n biết bao nhiêu người, đủ mọi tầng lớp, mọi giai cấp đă âm thầm cống hiến đời ḿnh cho quê hương dân tộc, không bao giờ được nhắc đến tên tuổi. Họ là:

Anh hùng vô danh

1. Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.

2. Họ là kẻ tự ngh́n muôn thuở trước,
Đă phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu,
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dăy san hà gấm vóc…

3. Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi,
Trong loan ly như giữa lúc thanh b́nh,
Bền một ḷng dũng cảm, chí hy sinh,
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.

4. Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vang, bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên,
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.
Nhưng máu họ đă len vào mạch đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non song,
Và anh hồn cùng với tấm tinh trung
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.

(20 & phụ lục)Việt Tâm(100 Bài tập đọc Lớp Nhất & Lớp Nh́)

3. T́nh yêu quê hương đất nước

T́nh thương yêu gia đ́nh, cha mẹ anh em và người thân là t́nh cảm khởi đầu cho t́nh yêu đồng bào, t́nh yêu quê hương đất nước.

“…Con sẽ cảm thấy t́nh yêu nước, khi con ở nước ngoài, và chợt nghe thấy một người trong đám thợ thuyền nói tiếng nước con, theo ḷng con xúi dục, tự nhiên con đến hỏi chuyện người bạn không quen ấy. Con sẽ cảm thấy t́nh yêu nước khi con nghe người ngoại quốc lăng mạ xứ sở con, ḷng tức giận sẽ làm cho con nóng mặt…” (21)






Nhằm hun đúc tinh thần yêu nước cho học sinh, đề cao ḷng tự hào dân tộc, ca ngợi những chiến công oanh liệt bảo vệ tổ quốc của các bậc tiền nhân, bài thơ sau đây nhắc nhở học sinh chăm chỉ học để sau này nối chí tiền nhân (22 & phụ lục):
Giờ Quốc sử

Những buổi sáng, vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ Quốc sử.
Thầy tôi bảo: “Các em nên nhớ rơ,
Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng thưở trước của giang san,
Đă đổ máu v́ lợi quyền dân tộc.
Các em phải đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này nối được chí tiền nhân.
Ta chắc rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân tộc Việt sẽ là dân hùng liệt.
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam.
Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm,
Đầy chiến thắng, đầy vinh quang máu thắm."

Đoàn Văn Cừ
(Tập đọc lớp Nhất)

4. T́nh yêu nhân loại
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”


Con người cùng sống trên quả địa cầu, không phân biệt màu da, chủng tộc. Tất cả đều là nguời như nhau, sao nỡ giết hại nhau. Chuyện kể hai người lính của hai quốc gia đối nghịch giao chiến nhau. Sau chiến trận, cả hai đều bị thương, nằm lại trên chiến trường… (23)

T́nh nhân loại

Sau một trận giao tranh ác liệt,
Giữa sa trường xác chết ngổn ngang.
Có hai chiến sĩ bị thương,
Hai người hai nước hiện đương nghịch thù.

Họ đau đớn khừ khừ rên siết,
Vận sức tàn cố lết gần nhau.
Phều phào gắng nói vài câu,
Lời tuy không hiểu, hiểu nhau nỗi ḷng:

Họ hai kẻ không cùng Tổ quốc,
Nhưng đă cùng v́ nước hy sinh.
Cả hai ôm ấp mối t́nh,
Yêu thương đất nước, gia đ́nh, quê hương.

Đêm dần xuống, chiến trường sương phủ,
Một thương binh hơi thở yếu dần.
Trước khi nhắm mắt từ trần,
Xót thương người bạn tấm thân lạnh lùng.

Anh cởi áo đắp trùm lên bạn,
Rồi tắt hơi! thê thảm làm sao!
Cho hay khác nghĩa đồng bào,
Nhưng t́nh nhân loại c̣n cao hơn nhiều!

Đặng Duy Chiểu
(Quốc văn mới)

IV. Kết luận

Dù thời gian có trôi qua, hoàn cảnh có biến đổi, nhưng giá trị đạo đức làm người trong các trang sách quốc văn, như kính yêu cha mẹ, t́nh thầy tṛ, bè bạn, ḷng yêu quê hướng đất nước, t́nh yêu đồng bào và t́nh nhân loại… vẫn in sâu trong kư ức của các học sinh qua bao thế hệ.

Thương yêu con người, biết quư trọng đích thực cuộc sống an b́nh của con người là nét đặc sắc nhất của nền văn hóa dân tộc Việt Nam hàm chứa trong các sách giáo khoa môn quốc văn của nền giáo dục Miền Nam trước 1975.

Tóm lại, trong giai đoạn trước năm 1975 nội dung các sách giáo khoa môn quốc văn của nền giáo dục miền Nam chú trọng đến những vấn đề đạo đức truyền thống, hướng tới triết lư giáo dục của Việt Nam Cộng Ḥa: Nhân bản – Dân tộc – Khai phóng.


Nguyễn Văn Bon, PhD (UWS)
Đăng lại từ Ngo-Quyen.org


Ghi chú:

1.- Trần Văn Chánh (2012) Những bài học thuộc ḷng một thuở. Tạp chí Tia Sáng-Tạp chí Nghiên Cứu và Phát Triển, số 6 (… http://tiasang.com.vn/. ). Sau này ghi là Trần Văn Chánh

2.- H́nh ảnh xưa: Sách giáo khoa trước 1975. Việt Nam Cộng Ḥa
(http://namrom64.blogspot.com.au/)

3.- Nguyễn Thanh Liêm (2006). Giáo dục ở Nam Việt Nam. Từ đầu thập niên1970 đến 1975. Giáo dục ở miền Nam tự do trước 1975. Lê Văn Duyệt Foundation, CA (USA), trang 22-26.

4.- (Nguyển Văn Bon (2009). Tiếp chuyển những nét đặc sắc trong văn hóa Việt Nam sang thế hệ trẻ tại hải ngoại. Tập san 3, Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long

5.- Hà Mai Anh: Cậu Bé miền Nam, Tâm Hồn Cao thượng. Nhà xuất bản: Mai Đ́nh, trang 13. Sau này ghi là Hà Mai Anh.

6.- Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đ́nh Phúc, Đổ Thận…Trọng cái tính mệnh của người ta. Luân lư giao khoa thư. Lớp Sơ Đẳng. Nhà xuất bản: Nha Học Chánh Đông Pháp, 1941, in lần thứ ba. Nhà xuất bản: Quê Mẹ, Paris in lại (không ghi năm), trang 53. Sau này ghi Quốc Văn Giáo Khoa Tư. Luân Lư-Sơ Đẳng

7.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng. Công b́nh và nhân ái, trang 51

8.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng.Ta nên thương loài vật, trang 71

9.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng.Nghĩa đồng bào, trang 65

10.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng Bố thí, trang 62

11.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng. Việc thiện, trang 64

12.- Hà Mai Anh: Kẻ khó, trang 43.

13.- Trần văn Chánh (2012)

14.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư /Sơ Đẳng. Trọng của người, trang 54

15.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng. Sự nói xấu, trang 57.

16.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng Sự nói vu, trang 58

17.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng. Trọng danh giá người, trang 55-56.

18.- Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đ́nh Phúc, Đổ Thận (1935). Người ta phải làm việc. Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Lớp Dự Bị Nha Học Chính Đông Pháp. In lần thứ mười. Nhà xuất bản: Quê Mẹ Paris (Pháp), in lại năm 1983 trang 9. Sau này ghi Quốc Văn Giáo Khoa Thư/Lớp Dự Bị

19.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Lớp Dự Bị, trang 27.

20.- Trích tử bài thơ Anh Hùng Vô Danh của Nguyễn Ngọc Huy có bút hiệu Đằng Phương và Việt Tâm, Xem phần phụ lục,

21.- Hà Mai Anh: Ḷng ái quốc, trang 70.

22.- Có ư kiến cho rằng bài thơ Giờ Quốc Sử của Đoàn Văn Cừ được trích từ bài thơ “Bản đồ nước Việt” của cùng tác giả để đưa vào sách giáo khoa (?). (Xem phần phụ lục)

23.- Trần Văn Chánh (2012).



PHỤ LỤC

Anh hùng vô danh

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.

Họ là kẻ tự ngh́n muôn thuở trước
Đă phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dăy san hà gấm vóc

Họ là kẻ không nài hiểm hóc,
Không ngại xa, hăng hái vượt trùng sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam Tiến mở giang san lớn rộng.

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng,
Đă xông vào khói lửa, quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho Tổ Quốc,

Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc,
Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống ḷng son không biến chuyển.

Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm,
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa,
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối.

Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi
Trong loan ly như giữa lúc thanh b́nh
Bền một ḷng dũng cảm, chí hy sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.

Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.

Nhưng máu họ đă len vào mach đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông.
Và anh hồn cùng với tấm tinh trung
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.

Nguyễn Ngọc Huy
(Đằng Phương/Việt Tâm)

***
Bản đồ nước Việt

Tôi sẽ giữ suốt đời trong trí nhớ
Quăng ngày xanh học tập tại quê hương
Trong căn nhà nho nhỏ dưới cây bang
Có tấm biển đề “An thôn học hiệu’’

Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử

Thầy tôi bảo: “Các em nên nhớ rơ
Nước chúng ta là một nước vinh quang
Bao anh hùng thủa trước của giang san
Đă đổ máu v́ lợi quyền dân tộc.

Các em phải đêm ngày chăm chỉ học
Để sau này nối được chí tiền nhân
Ta chắc rằng sau một cuộc xoay vần
Dân nước Việt lại là dân hùng liệt

Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam
Bên những trang lịch sử bốn ngh́n năm
Đầy chiến thắng vinh quang, đầy máu thắm

Ta sẽ phải suốt đời đau uất hận
Nếu Việt Nam địa giới phải chia rời,
Dân Việt Nam huyết mạch rẽ đôi nơi
Người Nam, Bắc không cùng chung cội rễ

Ta nhất định không bao giờ chịu thế
Núi sông nào cũng của nước Việt Nam!’’
Tiếng thầy tôi suốt buổi học vang vang
Trên án sách, bên những hàng cửa kính

Giờ tôi tưởng như đương ngồi dự thính
Thầy tôi đương hùng biện giữa thanh niên
Đương những v́ quyền lợi giống Rồng Tiên
Thề giữ vững bản đồ non nước Việt.

Đoàn Văn Cừ




Nguyễn Văn Bon, PhD (UWS)
Đăng lại từ Ngo-Quyen.org
Thứ Hai, 16/07/2018
https://trithucvn.net/van-hoa/tinh-n...-truoc-75.html



Cổ nhân đă nói:

Không HỨA bậy ... ḿnh không phụ người ...
Không TIN bậy ... người không phụ ḿnh ...



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------









Quick Navigation Văn Học Sử Top
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #6
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Buồn vui thời điêu linh: Thời Đốt Sách !
Nguyen Ngoc Chinh









Xuống đường Bài trừ Văn hóa "Đồi trụy & Phản động" trong thời điêu linh



“Nơi nào người ta đốt sách th́ họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.

Theo Sử kư Tư Mă Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lư Tư đă đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lư Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.

Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lư Tư) đều bị đốt sạch. Lư Tư c̣n đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lư và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành h́nh. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.

Lư Tư tấu:

“Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ th́ trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư th́ chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay th́ giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.

Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đă từng b́nh phẩm về ḿnh liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn c̣n ghi nhớ. Không riêng ǵ người Hán mà cả nhân loại lên án.

Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lư Tư đều biết rất rơ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.

Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại th́ rất ít. Nguyên nhân chính là v́ quân nhà Minh bên Tàu đă ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đă gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đă trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.

Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đă được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đă in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đă bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.

Hồi kư của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tiếp quản miền Bắc:

“Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi t́m thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đă đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đă phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quư, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê b́nh, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.

Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đă nêu rơ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ h́nh thức được coi là ‘đồi trụy theo h́nh thức tư bản’.

Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài G̣n như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.

Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lănh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…

Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lư, Trương Văn Ch́nh, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lăng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm...

Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê.... Phê b́nh văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh...

Đông đảo nhất là văn chương với Vơ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doăn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, B́nh Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Vơ Hồng, Túy Hồng, Nhă Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đ́nh Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh...

Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (c̣n một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xă, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.

Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài G̣n. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt.

Trong hồi kư Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:

“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng c̣n hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay c̣n đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô t́nh! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.

Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với danh ngôn: “Đường đi khó, không khó v́ ngăn sông cách núi mà khó v́ ḷng người ngại núi e sông”, người được giới văn học đánh giá là một trong những cây bút đầu tiên viết truyện ngắn hiện đại bằng chữ quốc ngữ trong văn học Việt Nam. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.

Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.

Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền h́nh Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.

Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi ḷng, có tựa đề là "Con sáo của em tôi" đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lư hoặc du côn du đăng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.

Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:

“… Một số người như Duyên Anh, Nhă Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.

Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ư thức. Ư thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xă hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản...

Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ng̣i bút của ḿnh phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đă có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví ḿnh là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doăn Quốc Sĩ coi ḿnh như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’...”

Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra ṭa tại Sài G̣n với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển h́nh để đe dọa các nhà văn miềnNam nhưng bất thành v́ áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doăn Quốc Sĩ mức án tử h́nh hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lư Thụy Ư (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).

Tính ra Hoàng Hải Thủy (c̣n có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó t́m đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, b́nh luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đă già nhưng vẫn c̣n viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog của HHT

Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lănh vực báo chí, Sài G̣n vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đă xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài G̣n Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saig̣n càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài G̣n có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.








Nhật báo Tiền Tuyến và Tiếng Chuông



Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc h́nh thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngă ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?

Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doăn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài G̣n, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giă từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.


Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta c̣n thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/60)










Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài G̣n sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đ́nh Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.

Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Vơ Phiến, Nguyễn Ngu Ư, Vũ Hạnh, Vơ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, B́nh Nguyên Lộc.... Theo Vơ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.







Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đ́nh Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, B́nh Nguyên Lộc... Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, c̣n có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.

Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số th́ đ́nh bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.

Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.

Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lư lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.

Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy...). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Vơ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Vơ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Vơ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lư Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhă Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...

Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mă có Hành Tŕnh, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài ṿng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lăng làm chủ tịch.

Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rơ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đ́nh Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang...

Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đ́nh vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàig̣n như Vạn Hạnh, Minh Đức...”

Những nhà văn trẻ đă trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xă hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ v́ bị động viên hay quân dịch... Do đó, họ có lối nh́n thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nh́n của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Tŕnh, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.

Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, B́nh Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhă Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam... đều sống bằng ng̣i bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.

Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đă viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công tŕnh sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, B́nh Nguyên Lộc, Mai Thảo... cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.

Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ băo thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhă Ca v́ họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lăng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đ̣i hỏi người đọc một tŕnh độ trí thức cao. Quần chúng b́nh dân thích Lê Xuyên, Tùng Long... Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.

Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhăn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài' văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…

Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhăn ‘nhà văn nữ giầu t́nh dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của t́nh lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…















Chân dung một số văn nghệ sĩ Miền Nam


Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những ǵ với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần

Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, t́m chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật tŕnh. Người b́nh dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đă là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.

Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ v́ mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.

Người đọc có thể t́m loại sách IC (Information & Culture) dưới h́nh thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài G̣n trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể t́m đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…

Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai tṛ áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng ǵ sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp th́ có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng th́ chưa”.

Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.

Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của ḿnh. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.

Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quư, hiếm’.

Tôi c̣n giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes,Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe,The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…







Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đă được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn t́m hiểu và phục hồi lại nền văn học đă mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đă xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mớicũng được phép in một số mục từ về B́nh Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng...Vơ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lư Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhă Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...

Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đă biến mất sau đại họa 1975 và chỉ c̣n lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới h́nh thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.

Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ư thơ của Vũ Đ́nh Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:



Năm nay đào lại nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?




Nguyen Ngoc Chinh (Hồi ức một đời người)
© Diễn Đàn Người Dân ViệtNam
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #7
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Ai muốn đánh cắp “Nỗi Lòng Người Đi” của Anh Bằng?
Nhạc sĩ Anh Bằng và bản nhạc “Nỗi Ḷng người Đi” !








Phạm Trần (Danlambao) – Vấn đề suy thoái đạo đức, ăn gian nói dối, mua bán bằng cấp và chạy chức chạy quyền trong xă hội thời Cộng sản không c̣n ngạc nhiên mà là thói quen của một bộ phận cán bộ, đảng viên, ngay cả trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Lănh đạo đảng và nhà nước đă nhiều lần nh́n nhận như thế nhưng không sao cải thiện được.

Giáo sư Hoàng Tụy, nhà toán học nổi tiếng của Việt Nam từng nói: “Giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng đă có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xă hội ở các tầng nấc.” (trích Phỏng vấn của báo Dân Trí)





Giáo sư Hoàng Tụy

Ông Hoàng Tụy, người có Anh hùng Hoàng Diệu là Bác ruột c̣n nói với báo điện tử Việt Nam Quality (VieQ.VN) ngày 03/03/2014:

“Việc sử dụng bằng giả, bằng thật mà chất lượng dỏm có hại trực tiếp đến cơ quan nhà nước, làm ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống của chúng ta. Muốn nâng cao chất lượng bộ máy nhà nước, không có cách nào khác phải chống bằng giả, phải bảo đảm giá trị thật của bằng cấp. T́nh trạng bằng giả chỉ chui được vào cơ quan nhà nước theo cách nói của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận không phải là khám phá ǵ mới mẻ, chẳng qua quan chức nói ra th́ nghe… lạ tai, chứ dân chúng th́ biết rơ điều này. “Nhất hậu duệ, nh́ quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ” là câu vè nghe chướng tai nhưng lại rất thực tế.”


Thực tế đă chứng minh số người có bằng giả đă hoặc đang làm việc trong các cơ quan nhà nước không hiếm ở Việt Nam. Người nổi tiếng trong vụ khai gian bằng Tiến sĩ là Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang nay đă bị sa thải. Ông Quang khai đă có bằng Tiến sĩ tại Đại học Uppsala, Thụy Điển, nhưng sự thật th́ trường này, theo báo chí Việt Nam, chỉ cấp chứng chỉ về nghiên cứu Khoa học Dược phẩm tự nhiên cho ông Cao Minh Quang, chứ không phải văn bằng.

Báo ********* viết ngày 16/9/2011:

“ĐH Uppsala xác nhận: “Ông Cao Minh Quang, sinh ngày 6/6/1953, đạt chứng chỉ “Licentiatexamen” về nghiên cứu khoa học dược phẩm tự nhiên vào ngày 26/10/1994. Đây là chứng chỉ chứ không phải văn bằng. Theo quy định của trường Uppsala chứng chỉ nói trên cần phải đạt được để tham dự khóa học tiến sĩ”.

Bằng chứng này đă xác nhận một thực trạng ai cũng biết đang diễn ra trong xă hội Việt Nam: Ở bất kỳ địa vị nào trong xă hội, nhất là những kẻ có chức có quyền, cũng có thể gian dối để đạt lợi ích cá nhân mà không cần phải hổ thẹn với lương tâm.

Trường hợp của “Nỗi Lòng Người Đi”

V́ vậy khi đem bi kịch gian dối lồng vào sự bất lực của nhà nước trong cuộc chiến pḥng, chống tham nhũng từ bao nhiêu năm mà nay vẫn c̣n “nghiêm trọng” cũng không phải là một ngoại lệ. Nếu sự dối gian này cũng đă lan sang lĩnh vực Văn nghệ trong thời gian 2 năm qua đối với Tác phẩm Âm Nhạc nổi tiếng “Nỗi ḷng người đi” của Nhạc sĩ Anh Bằng th́ cũng không ai ngạc nhiên.

Tuy chuyện “tranh quyền Tác giả" bài ca lịch sử này đă râm ran từ lâu nhưng không mấy người quan tâm cho đến khi Đài Truyền h́nh VTV1 loan báo có chương tŕnh Giai điệu tự hào mang chủ đề Người Hà Nội lúc 20h ngày 24/10 (2014), và Ca khúc Nỗi ḷng người đi – của nhạc sĩ hải ngoại Anh Bằng sẽ lên sóng VTV1.

V́ vậy ông Khúc Ngọc Chân – nguyên nhạc công cello Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam đă làm to chuyện rằng chính ông ta mới là Tác giả của “Nỗi Ḷng Người Đi”, có tên gốc là “Tôi Xa Hà Nội” viết năm 1954!

Câu chuyện bắt đầu như thế này:




Nhạc sĩ Anh Bằng, người có tên thật là Trần An Bường, sinh năm 1926 tại Nga Điền, Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa cùng quê với Nhà thơ Hữu Loan, Tác giả của Bài Thơ bất tử “Mầu tím hoa sim”.

Khi bước sang tuổi 88 năm 2014, Nhạc sĩ Anh Bằng đă có một gia tài gần 700 ca khúc nhạc t́nh, nhạc dân tộc và nhạc trẻ nổi tiếng, trong đó có “Nỗi ḷng người đi” ra đời ngày 15/04/1967.

Khi Tác phẩm này in ra, ai cũng thấy chỉ có một ḿnh tên Tác giả Anh Bằng in trên Bản nhạc.







Và trong suốt 47 năm qua, qua tŕnh diễn của nhiều thế hệ ca sĩ từ trong nước ra hải ngoại, không có bất cứ một ai dám “cả gan” tranh chấp chủ quyền với ông.

Tại sao? Bởi v́ ông đă viết ra “Nỗi Ḷng Người Đi” cho cả một thế hệ người Bắc di cư vào Nam năm 1954, trong đó có gia đ́nh ông, sau khi Việt Nam phải chia đôi đất nước tại Hội nghị Geneve tháng 07/1954.






Nội dung bài hát nói lên tâm trạng rời bỏ quê hương Hà Nội của một thanh niên đă phải bỏ lại người yêu đi t́m tự do v́ không thể nào có thể ở lại miền Bắc sống chung với quân Việt Minh thời ấy.

Lư do dễ hiểu v́ Anh Bằng thuộc một gia đ́nh chống Cộng sản như Tiểu sử ông đă cho biết:

“Năm 1935 ông xa gia đ́nh để học Tiểu chủng viện Ba Làng tại huyện Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hóa, sau đó ông lại tiếp tục theo học trung học ở Hà Nội. V́ gia đ́nh anh em ông chống Việt Minh, vào thời kỳ Kháng Pháp, ông bị Việt Minh bắt giam ở trại Lư Bá Sơ. Các anh em ông bị tuyên án tử h́nh nhưng sau được thả, riêng người anh Trần An Lạc bị Việt Minh thủ tiêu. Ông theo gia đ́nh di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống ở khu Bà Chiểu, Sài G̣n cho đến năm 1975.”

Chuyến ra đi lịch sử của Anh Bằng năm 1954 và cuộc di cư vào Nam trong thời gian 300 ngày của trên 1 triệu người dân miền Bắc đă in đậm trong tâm khảm người Việt Nam thời ấy. V́ vậy, mỗi khi nghe ai hát “Nỗi ḷng người đi” là người dân gốc Bắc, dù ở trong nước hay hải ngoại suốt 60 năm qua (20/7/1954 – 20/07/2014), cũng phải rưng rưng nước mắt!

Thế nhưng, tuy đă gần đến tuổi 50 kể từ ngày ra đời 1967, “Nỗi ḷng người đi” vẫn không thoát khỏi một tai nạn không ai có thể ngờ tới xẩy đến năm 2012 qua “một việc làm chung” của 2 người ở Hà Nội, Nhà báo phê b́nh âm nhạc Nguyễn Thụy Kha và Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân, người tự nhận chính ông mới là “tác giả thật” của “Nỗi Ḷng Người đi” đă được ông Anh Bằng đặt thay cho “tên nguyên thủy” là “Tôi Xa Hà Nội”.



Nguyễn Thụy Kha – Khúc Ngọc Chân






Lập luận của 2 ông Kha và Chân có một số điểm “rất nên thơ” nhưng họ lại không chứng minh được:

Thứ nhất, hăy nghe ông Nguyễn Thụy Kha kể:

“Một buổi sáng cuối thu Hà Nội, có một người nhỏ thó đến văn pḥng tôi làm việc ở 59 Tràng Thi – Hà Nội. Ông tự giới thiệu là Khúc Ngọc Chân.

Tôi nh́n măi mới nhận ra ông đă từng là nghệ sĩ đàn cello ngồi ở Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam từ những năm mới thành lập. Các anh em của ông là Khúc Phác và Khúc Ka Hoàng cũng đều là dân nhạc nổi tiếng từ lâu. Ông Chân họ Khúc, đích thị là con cháu Khúc Thừa Dụ ở Ninh Giang – Hải Dương rồi. Ông nói rằng ông có bài thơ về tổ tiên được khắc trên bia đá tại đền thờ họ Khúc ở quê. Dần dà, ông bắt đầu kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của ca khúc “Nỗi ḷng người đi” mà chính ông là tác giả với cái tên đầu tiên là “Tôi xa Hà Nội.”

Thế rồi chuyện t́nh của Tác giả “Tôi Xa Hà Nội” Khúc Ngọc Chân được ông Kha kể:

“Vốn yêu âm nhạc, ông Chân t́m đến học đàn với thầy Wiliam Chấn ở gần Hồ Tây. Lúc ấy, cả nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và Tạ Tấn cũng đều đến học thầy Chấn nổi tiếng. Qua học thầy mà ông Chân quen với một thiếu nữ Hà Nội tên là Nguyễn Thu Hằng, kém ông hai tuổi. Rồi t́nh yêu nhen lửa. Họ đă có những ngày đầu yêu thương thật thơ mộng bên bờ Hồ Gươm. Không thể quên những chiều ngồi bên bờ hồ té nước đùa vui với nhau.

Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải kư hiệp định Genève. Ông Chân phải theo gia đ́nh về quê. Nỗi nhớ nhung người yêu khiến cho ông cảm xúc bâng khuâng.

Khi trở về Hà Nội, ông Chân mới biết gia đ́nh người yêu đă xuống Hải Pḥng, ở khách sạn Cầu Đất chờ di cư vào Nam. Ông t́m xuống Hải Pḥng để sống cùng người yêu, chờ tiễn nàng xuống tàu. Những ngày đó, với cây guitar luôn mang theo bên ḿnh, Khúc Ngọc Chân viết Tôi xa Hà Nội tại khách sạn Cầu Đất – Hải Pḥng, viết lại những ǵ đă bâng khuâng trong suốt những ngày tháng qua, những ngày tháng xa Hà Nội:

(1) “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói bay theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai bên hồ
Khua nước chơi như ngày xưa.”

Trong khi Anh Bằng viết:

“Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa.”

Bài của Nguyễn Thụy Kha viết tiếp như ông viết Truyện t́nh thơ mộng của Khúc Ngọc Chân:

“Chàng tṛn 18 tuổi. Nàng tṛn 16 tuổi. Khi ấy, tuổi ấy yêu đương là b́nh thường. Nếu nỗi nhớ thương người yêu ngày đó đă khiến cho Hoàng Dương viết ra Hướng về Hà Nội nổi tiếng, th́ Khúc Ngọc Chân cũng viết Tôi xa Hà Nội nổi tiếng không kém. Chàng lại tiếp tục dào dạt trở lại cái cảm xúc ấy, cái giai điệu ấy nhịp 3/8 hát chậm và t́nh cảm (Lento – Espressivo):

(2)“Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tṛn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian t́nh ái em đong thật đầy
Bạn ḷng ơi! Thuở ấy tôi mang cây đàn
Quen sống ca vui bên nàng
Nàng khóc tơ duyên ĺa xa…”

Nhạc Anh Bằng:

“Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tṛn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian, t́nh ái em đong thật đầy
Bạn ḷng ơi! Ngày ấy tôi mang cây đàn quen sống ca vui bên nàng
Nay khóc tơ duyên ĺa tan.”

Nguyễn Thụy Kha c̣n bi thảm hóa cuộc gặp của đôi t́nh nhân Nguyễn Thu Hằng-Khúc Ngọc Chân với những ḍng:

“Không biết trong những ngày ngắn ngủi bên nhau ở Hải Pḥng, nàng đă khóc bên chàng bao lần. Chỉ biết rằng họ vẫn an ủi nhau, nàng cứ vào trước, chàng hứa hẹn rằng sẽ vào sau, sẽ t́m nàng ở Sài G̣n. Nàng hăy gắng chờ đợi giữa đô hội phồn hoa:

(3)“Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết t́m về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa ḍng đời
Ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ.”

Nhưng đoạn này lại giống hệt như lời của Anh Bằng:

“Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết t́m về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa gịng đời ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ.”

Nhưng đến đoạn chót của Bài hát th́ ông Khúc Ngọc Chân thay đổi:

(4)“Hôm nay Sài G̣n bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu năo đi trong bùi ngùi
Sài G̣n ơi! Mộng với tay cao hơn trời
Ai nhắn thay tôi đôi lời, chỉ ước mơ mong đẹp đôi.”

Trong khi Anh Bằng đă viết:

“Hôm nay Sài G̣n bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi
Sài G̣n ơi! Mộng với tay cao hơn trời
Tôi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi.”

Những mặt trái bị lộ

Đến đây th́ chân tướng không thật bắt đầu lộ ra với giọng văn tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Kha:

“Ca khúc được viết xong, Khúc Ngọc Chân đă tập cho nàng hát thuộc ḷng, hát đi hát lại đến chan chứa cảm xúc. Khi ấy đă là cuối tháng 11.1954.

Ngày đưa tiễn nàng và gia đ́nh xuống tàu há mồm di cư vào Nam, chàng và nàng cùng xuống một chiếc thuyền con ở bến Bính để đi ra nơi tàu đậu ngoài cửa biển. Thuyền cứ trôi, c̣n chàng th́ cứ bập bùng guitar và hát Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe. Nàng th́ vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên mạn thuyền. Một cảnh tượng chia tay thật lăng mạn như trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Và rồi con tàu đă rời xa đất liền, trôi măi vào biển cả mênh mang, mang theo nàng và mối t́nh đầu day dứt cùng giai điệu đượm buồn kia. C̣n chàng th́ quay về, rồi trở lại Hà Nội. Nhưng nỗi nhớ nàng th́ cứ thắp sáng trong những đêm trường cô đơn.”

Lối “tả chân” của Nhà văn Nguyễn Thụy Kha chất chứa đầy đủ những hoạt cảnh cần thiết cho một khúc phim t́nh cảm của thời b́nh trên chiếc du thuyền, nhưng chắc chắn không thể có “trong chuyến đ̣” di cư của người miền Bắc vào Nam của thời 1954. Tất nhiên vào khi ấy, không người di cư tất tưởi nào lại c̣n đủ bản lănh để thư thái mà “bập bùng guitar và hát Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe” , và nàng cũng “ung dung”, chả quan tâm ǵ đến bố mẹ và gia đ́nh ngồi quanh để “vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên mạn thuyền”!

Về trường hợp của cô Nguyễn Thu Hằng, qua ng̣i bút điêu luyện không cần có chứng minh, ông Nguyễn Thụy Kha viết:

“C̣n nàng, khi vào Sài G̣n, v́ mưu sinh, với khả năng văn nghệ và vẻ đẹp của ḿnh, nàng đă đến đầu quân cho một quán bar. Ở đó, nàng vừa làm việc, vừa nhớ người yêu. Ca khúc của chàng đă được nàng tự hát trong những đêm thương nhớ. Hát để nhớ chàng, hát để chia sẻ với bao người khác có tâm trạng nhớ nhung như nàng. Và đương nhiên, một ca khúc hay như thế đă lọt vào thẩm âm của nhiều nhạc sĩ lúc đó cũng đă ĺa xa Hà Nội. Chắc chắn trong đó có nhạc sĩ Anh Bằng. Ca khúc đă có một số phận khác khi được nhạc sĩ nhận thức và t́m cách xử lư. C̣n ở Hà Nội, Khúc Ngọc Chân đâu ngờ gia đ́nh ông bao đời không chịu làm cho Tây đă không theo ḍng người di cư mà ở lại Hà Nội vừa giải phóng. Vậy là lời hứa với nàng đành lỡ dở theo thời gian.”

Đến đây th́ “mùi sắc” chính trị “làm cho Tây” và “Hà Nội vừa giải phóng” đă được Nguyễn Thụy Kha lồng vào âm nhạc. Chả lẽ Nguyễn Thụy Kha không biết đâu phải hơn 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư xuống Nam là v́ đă “làm cho Tây” nên đă đi theo Tây vào Nam?

Cũng chẳng lẽ ông Kha không biết lực lượng Việt Minh đă “tiếp quản” thành phố Hà Nội từ tay quân đội Pháp sáng ngày 10/10/1954 chứ đâu có đánh đấm ǵ mà bảo là “giải phóng” như Ban Tuyên giáo đảng CSVN đă viết tài liệu tuyên truyền trong dịp kỷ niệm 60 năm mới đây (10/10/1954 – 10/10/2014)?

Không dừng ơ đây mà Tác giả Nguyễn Thụy Kha đă cùng với Khúc Ngọc Chân đong đưa tiếp với nhiều huyền thoại:

Nhà báo này viết:

“Ở lại Hà Nội, năm 1956, ông Chân vào học đàn cello ở Trường Âm nhạc Việt Nam. Khi tốt nghiệp th́ về công tác tại Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam. Ngày thống nhất đất nước, khi Dàn nhạc Giao hưởng vào biểu diễn ở Sài G̣n vừa giải phóng, ông Chân đi t́m người yêu qua họ hàng thân thiết th́ biết tin người yêu ṿ vơ đợi chờ ngày gặp lại đă mất v́ mắc bệnh hiểm nghèo năm 1969, khi mới vào tuổi “tam thập nhi lập”. Theo người thân của người yêu, ông đă t́m đến mộ nàng và thắp hương, thầm khóc cho cuộc t́nh chia phôi bất hạnh. Chính v́ người yêu đă mất, nên ông không sao hiểu nổi bằng cách ǵ mà ca khúc Tôi xa Hà Nội của ông lại lọt vào tay nhạc sĩ Anh Bằng, được ông sửa thành nhịp 4/4 theo điệu Slow và phổ biến “quá trời” tại Sài G̣n.”

Rồi ông Kha và ông Chân kể tiếp như người chết đuối vớ được phao giữa ḍng nước xoáy:

“Ông Chân nói rằng đó là điều may mắn. Khi ấy, nếu ca khúc lan ra mà lại ghi tên ông là tác giả, chắc ông khó mà ngồi yên ở Dàn nhạc Giao hưởng cho đến khi về hưu. Nhưng v́ ca khúc ghi là của tác giả Anh Bằng, nên những ca từ rất thực của ông diễn tả nỗi phấp phỏng trong ḷng Hà Nội tạm bị chiếm lại trở thành một vệt đen mang đậm nỗi ấm ức của bao người di cư ở bên kia chiến tuyến. Lại nữa, v́ Anh Bằng đổi tên ca khúc thành Nỗi ḷng người đi nên vệt đen kia hóa thành có thực khi đất nước bị chia cắt. Cũng chính v́ thế mà cho đến nay Nỗi ḷng người đi (vốn là Tôi xa Hà Nội) vẫn chưa được cho phép hát lại.”

Nhưng làm sao mà ông Chân có thể “hát lại” được, bởi v́ Trung tâm bảo vệ quyền Tác giả Âm Nhạc Việt Nam ở Hà Nội (Vietnam Center for Protection of Music Copyright , VCPMC) đă bác lời xin bảo vệ quyền lợi cho ông v́ ông “đă không chứng minh được quyền Tác giả” của ḿnh.

Nguyên văn điện thư của Bà Đinh Thị Thu Phương, Phó quản lư, đặc trách ngoại vụ của Trung Tâm gửi Nhạc sĩ Anh Bằng về tác quyền như sau:

From: “Dinh Thu Phuong”
Date: September 24, 2014 at 1:08:06 AM PDT
To: ,
Subject: Fwd: NOI LONG NGUOI DI

Kính gửi Nhạc sĩ Anh Bằng,

Cháu nhận được email kèm theo bản nhạc của bác đă lâu, nhưng phải chờ thẩm định, rồi lại v́ bận nhiều việc quá nên hôm nay cháu mới hồi âm tới bác được, mong bác thứ lỗi.

Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân ủy quyền cho VCPMC ca khúc Tôi xa Hà Nội từ ngày 24.4.2014, tuy nhiên sau đó phát hiện có sự song trùng với ca khúc Nỗi ḷng người đi của bác. VCPMC đă yêu cầu 2 bên cung cấp chứng cứ bằng văn bản, nhưng ông Khúc Ngọc Chân không có, v́ vậy VCPMC đă quyết định ngừng bảo vệ, quản lư và khai thác ca khúc Tôi xa Hà Nội. Điều đó có nghĩa VCPMC chỉ công nhận tính hợp pháp của ca khúc Nỗi ḷng người đi của nhạc sĩ Anh Bằng. Cháu xin chúc mừng bác ạ.

Đây là việc thường xuyên phải giải quyết của VCPMC, mong bác giải thích với mọi người rằng chỉ thuần túy là việc tranh chấp dân sự b́nh thường, ai không đủ chứng cứ là thua, có thế thôi, không phải là âm mưu chính trị ǵ đâu (như có bài viết ở hải ngoại phỏng đoán) v́ sự việc nó quá tầm thường không đáng để suy diễn làm ảnh hưởng đến chính sách đại đoàn kết dân tộc của Nhà nước Việt Nam.

Để thực hiện khoản 1, 2 Điều 3 của Hợp đồng ủy quyền (mà cô Trương Mỹ Dung – học tṛ của bác ở Việt Nam đă thay mặt bác kư với VCPMC) một lần nữa cháu đề nghị bác vui ḷng gửi qua email cho cháu toàn bộ ca khúc của bác mà bác đang có, nếu đă là xuất bản phẩm trước 1975 tại Sài G̣n th́ bác scan cho cả mặt ngoài và mặt trong của bản nhạc khổ giấy A3, ca khúc nào chưa xuất bản hoặc viết sau 1975 chưa in th́ bác gửi cho cháu bản chép tay cũng được. Cháu cảm ơn bác trước.

Cháu xin gửi kèm theo đây 1 quyết định của Giám đốc VCPMC và 1 mẫu Hợp đồng ủy quyền để bác tham khảo.

Trân trọng kính chào bác – người nhạc sĩ tài danh mà tác phẩm luôn hướng tới và dành cho t́nh yêu con người cùng quê hương đất nước Việt Nam. Chúc bác vui khỏe và dồi dào sức sáng tạo.

Kính thư,

Dinh Thi Thu Phuong (Ms)
Deputy Manager of External Relations Divison,
Cellphone: +84 91 660 5156
Vietnam Center for Protection of Music Copyright (VCPMC)
66 Nguyen Van Huyen Str, Cau Giay District., Hanoi, Vietnam
Phone: +844 3762 4718 (ext: 268) / Fax: +844 37624717
Office hour: 8am – 5pm GMT+7, Mon-Fri
www.vcpmc.org.

Ngoài ra, Giám đốc Trung Tâm, Nhạc sĩ Phó Đức Phương cũng ra Quyết định ngày 12 tháng 09 năm 2014 có 3 điểm, nguyên văn như sau:

Điều 1: Ngừng bảo vệ quản lư và khai thác 1 ca khúc “Tôi xa Hà Nội” của Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân.

Điều 2: Những ca khúc khác của Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân vẫn được bảo vệ, quản lư và khai thác b́nh thường.

Điều 3: Quyết định này có hiệu lực từ ngày kư. Các phóng ban chức năng của Trung tâm chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

(Phó Đức Phương-Kư tên và đóng dấu).



Posted on Tháng Mười 22, 2014
https://tunhan.wordpress.com/2014/10...long-nguoi-di/


.

TIẾP TỤC SAI LẦM

Bài viết của Nguyễn Thụy Kha c̣n tiếp tục sai lầm rằng:

“T́m hiểu về nhạc sĩ Anh Bằng qua nhiều luồng thông tin, qua trang mạng Google th́ thấy rằng điều ông Chân thổ lộ rất có cơ sở. Nhạc sĩ Anh Bằng tên khai sinh là Trần An Bường. Ông sinh năm 1925 tại thị trấn Bỉm Sơn thuộc Ninh B́nh. Ông học trung học tại Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Sau ngày 30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ, cư trú tại Houston, bang Texas . Ông vẫn hoạt động văn nghệ trong cộng đồng người Việt và hiện là cố vấn T T Asia Entertainment tại Houston.”

Ngay trong đoạn này, ông Kha đă “khẳng định chuyện kể của ông Chấn “rất có cơ sở”, căn cứ theo những ǵ ông Kha t́m được trên mạng điện tử Google, nhưng ông lại nói sai “Sau ngày 30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ, cư trú tại Houston, bang Texas. Ông vẫn hoạt động văn nghệ trong cộng đồng người Việt và hiện là cố vấn Trung tâm Asia Entertainment tại Houston”, trong khi gia đ́nh Nhạc sỹ Anh Bằng và Trung tâm Asia chưa bao giờ sinh sống hay xây dựng sự nghiệp âm nhạc ở Houston, Texas.

Tuy vậy, tác gỉa Nguyễn Thụy Kha cứ “đong đưa” với chữ nghĩa để tiếp tục thêu dệt rằng :

“ Ngày ấy, khi vào Sài G̣n, theo thiển nghĩ của tôi, Anh Bằng chưa được biết đến như Chung Quân, Cung Tiến. Nghe được ca khúc Tôi xa Hà Nội do một thiếu nữ làm ở quán bar hát những khi chia sẻ mà lại khơng biết xuất xứ. Với khả năng âm nhạc của ḿnh, Anh Bằng đă thuộc được giai điệu này. Ông thấy rất hợp tâm trạng của ít nhất là những thanh niên vừa phải xa Hà Nội di cư vào Sài G̣n. Vậy là cuộc sử dụng một giai điệu mang tâm trạng của thanh niên xa Hà Nội, nhưng để hợp thời thế, Anh Bằng đă chuyển nhịp 3/8 gốc của ca khúc Tôi Xa Hà Nội thành nhịp 4/4 dùng tiết điệu Slow.”

Tệ hại hơn, Thụy Kha c̣n dựa vào lời nói của người duy nhất tự nhận là Tác giả “Tôi Xa Hà Nội” Khúc Ngọc Chân để bịa ra rằng :

“C̣n về ca từ, Anh Bằng đă khéo léo gắn vào đó tên của một nhà thơ t́nh nổi tiếng là Nguyễn Bính"...

Nhưng Nhạc sỹ Anh Bằng, đă trả lời câu hỏi của tôi (Phạm Trần) về chuyện Nguyễn Bính như sau:

“Cảm ơn Anh đă tỏ ra rất quan tâm đến ca khúc NỖI L̉NG NGƯỜI ĐI của tôi đang bị cướp đọat một cách trắng trợn.
Anh đă xem Bản nhạc được in và phát hành năm 1967 tại Sài G̣n chỉ có tên Tác giả là ANH BẰNG trong ca khúc NỖI L̉NG NGƯỜI ĐI. Tuyệt đối không có tên Thi sĩ Nguyễn Bính in bên cạnh như kẻ gian manh, xáo quyệt, vô lương tâm, vô liêm sỉ bịa đặt. ANH BẰNG xin minh xác như vậy để anh yên tâm.”

Nhạc sỹ Lê Dinh, người bạn tâm giao của Anh Bằng trong nhóm 3 Nhạc sỹ Lê Minh Bằng (Lê Dinh-Minh Kỳ-Anh Bằng) phản ứng về chuyện này:

“Bài viết này, của báo trong nước, tôi cũng đă đọc cách nay một tuần. Đây chỉ là một bài viết lập lại những lư luận mà họ đă lải nhải như trong nhiều bài trước, không có ǵ mới lạ.

Nhưng họ không đá động ǵ tới việc cô Đinh thị Thu Phương, Vietnam Center for Protection of Music Copyright (VCPMC / thuộc Trung Tâm Bảo Vệ Quyền Tác Giả) đă xác nhận với Anh Bằng, qua thư đề ngày 24-09-14, rằng: “Sau khi thẩm định, VCPMC đă quyết định ngừng bảo vệ, quản lư và khai thác ca khúc Tôi Xa Hà Nội (của Khúc Ngọc Chân tự nhận, v́ không cung cấp chứng cứ bằng văn bản).
Và VCPMC chỉ công nhận tính hợp pháp của ca khúc Nỗi Ḷng Người Đi của nhạc sĩ Anh Bằng”.

Như vậy, chúng ta xem như việc này đă kết thúc qua lá thư của cô Đinh thi Thu Phương (CVPMC) gửi cho Anh Bằng ngày 24-09-14 (được trích trên đây)

“…Việc lên tiếng của VCPMC là một tiếng chuông cảnh cáo những kẻ giả mạo để ăn cướp công lao của những nhạc sĩ sáng tác, v́ không ǵ dễ bằng, cứ lấy một tác phẩm cũ nổi tiếng nào đó, của một nhạc sĩ nổi tiếng nào đó, chép bằng máy vi tính, sửa lại vài chữ và nói đây là bài nhạc của tôi sáng tác năm đó, năm đó… ông nhạc sĩ này lấy bài nhạc của tôi làm và nói là của ổng. Chủ nhà trở thành kẻ cướp và kẻ cướp trở thành chủ nhà, quá dễ.
May mà có sự quyết định sáng suốt của Trung Tâm Bảo Vệ Quyền Tác Giả, nếu không th́ sẽ có loạn trong làng âm nhạc Việt Nam, chứ chẳng không.”

TẠI SAO ĐẾN 2012 MỚI BIẾT ?

Về chủ quyền bài hát, ông Khúc Ngọc Chân tỏ ra lúng túng khi phĩng viên báo Thể thao-Văn Hóa Việt Nam (Thethaovanhoa.vn) hỏi ngày 15/10/2014 rằng :

“Tại sao đến tận bận bây giờ ông mới nhận Nỗi Ḷng Người đi là của ḿnh. Ông có bằng chứng ǵ thuyết phục rằng đó chính thức là ca khúc của ḿnh không? Ông đă sáng tác ca khúc đó trong hoàn cảnh nào và liệu ông có c̣n nhạc bản ngày xưa hay không?”

Ông Chân đáp gọn:

“Bản nhạc ngày xưa sao mà giữ được. Ca khúc của tôi sáng tác hồi đó chính ra chỉ có 2 người biết với nhau là tôi và cô người yêu thôi.”

Về chuyện bảo Anh Bằng ghi tên Nhà thơ Nguyễn Bính vào bản nhạc, ông Chân lại ú ớ khi được báo Thanh niên-Văn Hóa (TTVH) hỏi:

“Sau này rồi có ai biết có bài nào nhác nhác như thế của ông Nguyễn Bính không?”

Khúc Ngọc Chân:

“Không có. Gia đ́nh Nguyễn Bính ở Nam Định cũng không c̣n ai, con cháu đi hết rồi. Tất cả các tuyển tập thơ Nguyễn Bính không có bài nào như thế. May cho tôi là khi kể chuyện này với nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha và một số người bạn, có người lên mạng đă copy được bản nhạc Anh Bằng sáng tác đề rằng Nỗi Ḷng Người Đi, nhạc Anh Bằng, thơ Nguyễn Bính. Tuy nhiên, sau bài viết đầu tiên của Nguyễn Thụy Kha được đưa lên mạng th́ đến ngay cả Thụy Kha đi t́m bản đề thơ Nguyễn Bính cũng không c̣n nữa mà chỉ đề là tác giả Anh Bằng thôi, bỏ phần thơ đi. Nếu mà sự thực phổ thơ Nguyễn Bính th́ vẫn để nguyên chứ. Giả dụ là thơ của Nguyễn Bính thật th́ không sao, không th́ tôi phải là Nguyễn Bính chứ không phải Anh Bằng, bởi Anh Bằng chỉ phổ nhạc thôi mà.”


Nhưng tại sao ông Khúc Ngọc Chân (KNC) không yêu cầu ông Nguyễn Thụy Kha và “một số người bạn” trưng ra bằng cớ về chuyện “đă copy được bản nhạc Anh Bằng sáng tác” có tên Nguyễn Bính trên đó?

Báo TTVH:

“Ông nói rằng Nỗi Ḷng Người Đi không phải của Anh Bằng, vậy chỉ cần ông đưa ra bằng chứng xác đáng đó là của ông và nếu thực sự là của ông th́ dù cho nhiều người chưa biết th́ sẽ biết đến ca khúc này là của ông?

KNC:

” Người yêu của tôi đă mất, do vậy tôi không tranh chấp quyền tác giả. Tôi chỉ muốn nói về một số phận khác khi ca khúc được một nhạc sĩ nhận thức và xử lư và đă thành một ca khúc hay, đó là điều may mắn. Khi xưa, lúc tôi biết Anh Bằng phổ nhạc, tôi cũng không dám nói ra, bởi Tôi Xa Hà Nội với những ca từ rất thực diễn tả nỗi phấp phỏng trong ḷng Hà Nội tạm bị chiếm của tôi lại trở thành một vệt đen th́ sao?”

CHÂN TRÁI ĐÁ CHÂN PHẢI

Trong khi đó, Nguyễn Mạnh Hà (báo Tiến Phong, 11-10-2014) viết:

“Khúc Ngọc Chân khẳng định, măi tới năm kia (2012) ông mới biết đến sự tồn tại của Nỗi Ḷng người đi. Bởi ông không thích và rất ít nghe nhạc hải ngoại.

Qua lời kể của ông Chân th́ thậm chí Nguyễn Thụy Kha cũng biết đến “nghi án” Nỗi Ḷng Người đi. Ông Chân thuật lại lời ông Kha trong cuộc gặp lần đầu tiên của hai người:

“Anh có cái bài Nỗi Ḷng Người Đi bên kia người ta nói là bài của anh?!”

Nhưng Nguyễn Thụy Kha lại khẳng định không hề biết đến nghi án này cho tới khi Khúc Ngọc Chân kể ra. Tuy nhiên, ông Kha vẫn cảm thông với cách tŕnh bày hơi khó hiểu của ông Chân:

“Người ta không phải người ăn nói với công chúng. Nhưng ḿnh biết được cái lơi của vấn đề. Tôi bằng trực giác biết chắc chắn bài này của ông ấy rồi!”.

“Phổ thơ cũng được nhưng đấy là cái sai lầm nhất của Anh Bằng. Tồn bộ gia tài Nguyễn Bính không có bài thơ nào như lời bài “Nỗi Ḷng người đi”. Mà lúc đấy Nguyễn Bính tập kết ra Bắc ra Hà Nội rồi, không dính dáng đến miền Nam nữa mà viết cái đó. Đấy là kẽ hở của câu chuyện.

Thế rồi Nguyễn Mạnh Hà nhận xét:

“Sự vô danh của Khúc Ngọc Chân là một điều bất lợi khi đặt cạnh Anh Bằng- tác giả của hàng trăm bài hát trong đó có Khúc Thụy Du, Nếu Vắng Anh, Anh C̣n Nợ Em, T́nh Là Sợi Tơ… Một điểm yếu nữa trong câu chuyện của Khúc Ngọc Chân mà những người đứng về phía Anh Bằng xoáy vào là có nhiều h́nh ảnh tư liệu cho thấy tàu “há mồm” đưa người vào Nam cập sát cảng Hải Pḥng. Trong khi ông Chân kể, ông vẫn c̣n hát Tôi Xa Hà Nội cùng người yêu trên thuyền từ bến Bính ra “phao số không” để tiễn nàng lên tàu há mồm. Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha, người gốc Hải Pḥng, cho hay Thu Hằng vào Nam là đợt đầu tiên, tháng 11/1954. Lúc đó tàu há mồm chưa cập vào cảng Hải Pḥng. “

Với những ǵ chúng ta đọc được quanh “vụ án Nỗi Ḷng Người Đi” của Nhạc sỹ Anh Bằng cho thấy đă có những thay đổi nguy hiểm trong tâm tư của cả giới làm văn nghệ ở Việt Nam trong thời đại “gian dối đă ngự trị trên, không những con người mà cả nền tảng văn hóa truyền thống lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của dân tộc làm kim chỉ nam cho đời sống hàng ngày.”

Một nền văn hóa loạn xạ như thế phải là mối lo nhức nhối của mọi người, v́ như Giáo sư Hoàng Tụy đă báo động: “Giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối.” -/-


Phạm Trần (10/2014)


Ghi chú:

1- H́nh b́a trong và ngoài ca khúc NỖI L̉NG NGƯỜI ĐI (1967) (Tinh Hoa Miền Nam phát hành 1967) không có tên Nguyễn Bính như lời phát biểu sai lạc

2- Có thể t́m nghe qua youtube NỖI L̉NG NGƯỜI ĐI qua rất nhiều tiếng hát trên bốn thập niên qua, Đặc biệt là tiếng hát Ninh Cát Loan Châu, một hậu duệ của làng Điền Hộ- Thanh Hóa của gia đ́nh họ Trần. Tiếp đến là ca khúc tiếp nối: “Nỗi Ḷng Người Đi” đó là: ”NHỚ ĐÊM MƯA SÀIG̉N” phổ thơ BH (2013) do sự đề nghị trân trọng của người cháu là đạo diễn Trần Thăng, để nhạc sĩ viết nối tiếp một ca khúc mang tên Thành Phố SàiG̣n, nay đă rời xa…. Định cư tại Hoa Kỳ, nhưng Sài G̣n vẫn măi trong trái tim, như sau năm 1954, di cư vào SàiG̣n, mà Hà Nội vẫn luôn trong trái tim.
Ca khúc ”NHỚ ĐÊM MƯA SÀIG̉N” dựa theo tinh thần của một ngày vào quán Kentucky ở SàiG̣n, nhớ Cali… và bao nhiêu ngày tháng ở Cali-Hoa Kỳ vẫn măi nhớ thương SàiG̣n. Các ca khúc này được lưu trữ qua các website, youtube t́m qua Google. Các youtube: với Lâm Nhật Tiến (DVD ASIA Mùa Hè Rực Rỡ 2014 và CD ASIA mang cùng tên: “Nhớ Đêm Mưa SàiG̣n“), ngoài ra c̣n có MTV của Y Phương, Trang Mỹ Dung, Xuân Thanh . v.v…


http://www.nvnorthwest.com/2014/10/2...c-si-anh-bang/
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #8
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Nỗi ḷng người đi” hay “Tôi xa Hà Nội”?
Mặc Lâm, biên tập viên RFA










Ảnh minh họa chụp tại Hà Nội ngày 11/07/2011.
RFA PHOTO/Trung Khang

“Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa.”

Bộ sưu tập có thể đang bị hoen ố?

Những gịng nhạc mà quư vị vừa nghe có lẽ hơn một nửa nước Việt Nam đă từng biết tới, nhất là đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 bỏ lại tất cả tài sản, mồ mả cha ông để theo đoàn quân chân đất hơn 1 triệu người vào Nam lập nghiệp. Ca khúc “Nỗi ḷng người đi” được biết dưới cái tên của nhạc sĩ Anh Bằng ra đời trong hoàn cảnh đó, người nhạc sĩ cắt ruột từ giă người yêu để khi tới Sài G̣n dưới ánh đèn hoa lệ bỗng dưng thấy trơ trọi và mọi thứ biến thành khói mây phù du của một cuộc chia tay.

Những ca từ đậm màu nước mắt ấy được người yêu nhạc tiền chiến cất giữ nó như một tuyệt phẩm trong bộ sưu tập của họ.
Bộ sưu tập ấy hôm nay có thể đang bị hoen ố khi nổ ra vụ Khúc Ngọc Chân, một nhạc công Cello trong dàn nhạc giao hưởng Việt Nam lên tiếng khẳng định ca khúc “Nỗi ḷng người đi” nguyên ủy là của ông với cái tên “Tôi xa Hà Nội”. Việc đ̣i hỏi bản quyền này được nhà báo chuyên về âm nhạc Nguyễn Thụy Kha viết thành bài chứng minh từ những điều mà ông Chân kể lại.


Câu chuyện nhuốm vẻ tiểu thuyết lăng mạn thời Thơ Mới của ông Khúc Ngọc Chân và cô gái mang tên Nguyễn Thu Hằng khiến nhạc phẩm trở nên huyền ảo hơn. Nhân vật Thu Hằng tuy đă mất vào năm 1969, bốn năm sau khi nhạc phẩm của Anh Bằng xuất hiện tại Sài G̣n như mọi người yêu nó đều biết, được nhắc lại bằng một cái tên mới và sinh nhật nó cũng mới: “Tôi xa Hà Nội” của Khúc Ngọc Chân được sáng tác vào tháng 10 năm 1954 tại Cầu Đất Hải Pḥng, khi tác giả lặn lội từ Hà Nội về Hải Pḥng để tiễn nàng và gia đ́nh vào Nam. Trong không khí buồn bă u ám của buổi chia tay, nhạc phẩm ra đời và Thu Hằng mang theo với nàng vào Sài G̣n hoa lệ.

Ông Khúc Ngọc Chân tŕnh bày với chúng tôi về sự việc này:

“Lúc bấy giờ tôi có người yêu là cô Thu Hằng, tôi được tin cô Hằng đi theo gia đ́nh để chuẩn bị di cư vào Nam. Tôi mới hỏi xem ở đâu, sau đó tôi biết ở Cầu Đất dưới Hải Pḥng và cũng gặp được ngay. Tôi biết cô ấy lúc bấy giờ mới 16 tuổi c̣n tôi đúng 18 tuồi. Trong hoàn cảnh đất nước vừa giải phóng và tôi th́ không thể nào theo được. Chúng tôi có gặp nhau và chúng tôi cũng có đề cập với cô ấy là thôi th́ cứ vào trước trong ấy v́ cô mới 16 tuổi c̣n tôi mới trường thành không thể nào tách rời gia đ́nh được.”

Khi được hỏi ca khúc này được sáng tác vào lúc nào ông Chân cho biết:

“Tôi quen sống vui ca đàn nhạc nên luôn luôn mang theo cây đàn và tiện đó tôi sáng tác bài đó về cô và cũng là bài đầu tiên tôi sáng tác nhạc t́nh yêu. Tôi viết là “Tôi xa Hà Nội năm lên 18…” viết đúng với hoàn cảnh rất tự nhiên của chúng tôi. Cô Hằng này th́ đúng 16. Sáng tác xong th́ tôi để cho cô ấy trong hoàn cảnh phải chờ đợi. Hoàn cảnh của tôi là tôi xa Hà Nội xuống Hải Pḥng để t́m cô ấy chứ không có ư nghĩ nào muốn đi Sài G̣n cả.

Đến mấy năm sau nữa th́ tôi vào công tác th́ thấy có một bài hát mà của riêng tôi với cô ấy sáng tác với nhau mới biết. Bạn bè tôi lúc ấy vào năm 1954 cũng biết sau khi cô ấy đi tôi vẫn c̣n sáng tác mấy bài nữa v́ nhớ cô ấy. Đến hai năm sau nữa tôi biết rằng rất khó mà gặp nhau lắm.”

Xa Hà Nội khi nào?




Ảnh minh họa chụp tại Hà Nội ngày 11/07/2011.
RFA PHOTO/Trung Khang.


Nhà báo Nguyễn Thuy Kha nói về nguyên nhân khiến ông viết bài khẳng định “Tôi xa Hà nội” là của Khúc Ngọc Chân:

“Tôi lâu nay vẫn nghĩ bài này là của ông Anh Bằng tất nhiên tôi cũng hơi lạ, là v́ cái “air” nhạc của ông ấy không phải là cái “air” như thế. Nhạc của ông Anh Bằng là “Tôi c̣n nợ em”, “Nếu vắng anh”, “Khúc thụy du”… Tôi cũng rất t́nh cờ, anh em ở giàn nhạc giao hưởng họ mới nói anh Khúc Ngọc Chân là nên tới gặp tôi để mà làm th́ anh Chân anh ấy tŕnh bày tất cả các lư do anh ấy sáng tác bài này như thế nào đối với người yêu của anh ấy là cô Nguyễn Thu Hằng. Tôi xem cái âm nhạc của anh Chân, v́ anh Chân viết nhịp 3/8 th́ tôi thấy rằng như vậy th́ cái cậu bé 18 tuổi viết cái này nó có vẻ hợp lư hơn v́ năm 1954 th́ ông Anh Bằng đă 29 tuổi rồi, lúc ấy ông Anh Bằng chưa nổi tiếng mặc dù bằng tuổi với ông Nguyễn Văn Quỳ, ông Đoàn Chuẩn nhưng lúc ấy ở Hà Nội chả biết ông Trần Anh Bường (Anh Bằng) là ai cả. Tôi thấy rất hợp lư là v́ anh Chân nói với tôi từng chi tiết một tại sao tôi viết như thế này, tại sao tôi viết như thế kia, thế nhưng nó có khó khăn là sau đó là giải phóng thủ đô cho nên các tài liệu của anh Chân do anh ấy chép buộc ḷng phải hủy đi là v́ t́nh h́nh Hà Nội lúc ấy không phải là dễ dàng. Anh Chân công tác ở giàn nhạc giao hưởng và trong giàn nhạc giao hưởng anh em vẫn biết như anh Hồ Quang B́nh, anh Quang Tôn… tất cả mọi người đều vẫn biết bài này là của anh Khúc Ngọc Chân từ năm 1954, họ vẫn hát với nhau mà…”

Riêng nhạc sĩ Anh Bằng dĩ nhiên là ông rất tức giận khi biết có người cho là ông ăn cắp nhạc người khác. Mặc dù đă gần 90 tuổi và không c̣n nghe được ông vẫn trả lời cuộc phỏng vấn do hệ thống SBTN thực hiện về vấn đề này. Nhạc sĩ giải thích tại sao tới năm 1965 ông mới tung bài hát này ra thị trường âm nhạc mặc dù ông đă sáng tác nó 10 năm về trước:

“Khi lên tàu di cư vào miền Nam năm 1954, tôi đă có cảm hứng viết nhạc phẩm này. Nhưng đâu phải viết một lần là xong mà phải mất tới mười năm, sửa chữa nhiều lần và đến năm 1965 mới cho phổ biến bản này. Khi bản Nếu Vắng Anh phát hành được công chúng yêu chuộng th́ tôi hứng khởi hoàn tất bản Nỗi Ḷng Người Đi để tiếp tục cái đà sáng tác đang đi tới.

Thực ra bản này được thai nghén đầu tiên trong sự nghiệp âm nhạc của ḿnh khi từ giă miền Bắc vào Sài G̣n. Hồi c̣n trẻ cũng có viết mấy bản nhạc đầu tay nhưng không được phổ biến, cho nên bây giờ cũng không c̣n nhớ rơ, và coi như là Nỗi Ḷng Người Đi là đứa con đầu ḷng mặc dù nó ra mắt chậm hơn bản Nếu Vắng Anh.

Thật ra lúc đó tôi 28 tuổi, nhưng không lẽ câu hát viết " Tôi xa Hà Nội năm lên hăm tám " th́ nốt nhạc không xuôi tai, cho nên phải đổi lại thành " năm lên mười tám" vừa xuôi tai, vừa nghe lăng mạn hơn. Có thể nói tôi thích cả bài này từ lời ca cho đến nét nhạc.”

Để chứng minh luận điểm của ḿnh là xác thực nhà báo Nguyễn Thụy Kha cho biết:

“Và sau đó th́ tôi có xem thêm một số bài hát nữa của anh Chân khi chị Hằng vào Nam như bài Biển, bài Mùa thu cho em …cái air nhạc của ảnh th́ tôi biết ngay, ḿnh làm nhạc ḿnh biết, ḿnh thấy nó đúng một cái air như vậy.



Tôi nói với anh Chân như thế này: Tôi nghĩ anh không có bằng chứng ǵ cả để kết luận bài này là của anh nhưng anh có nhân chứng, anh hăy gặp tất cả những nhân chứng đă từng hát bài này của anh từ năm 1954 tại v́ ông Anh Bằng từ năm 1967 ông ấy mới đưa bài này ra. Tôi nghĩ ông ấy rất là khôn tại v́ năm 1954 có rất nhiều bạn bè của bà Hằng cũng sẽ cùng thuộc bài này v́ vậy nếu khai ngay trong thời Đệ Nhất đế chế th́ có thể không ổn lắm cho nên ông ấy để tới năm 1967 mới đăng kư bài này. Cho tới nay tôi đă gửi rất nhiều lá thư sang cho ông Anh Bằng rồi nhưng không hề có một sự trả lời nào cả. Tôi nghĩ rằng nếu như ông ấy là người thực sự viết bài này th́ ông ấy sẽ từ tốn nói chuyện tôi viết như thế nào, ra làm sao nhưng hoàn toàn ông ấy không có một ư kiến ǵ cả, tôi thấy cũng hơi kỳ ở chỗ đó.”

Bà Đặng Thị Thu Phương, Phó Quản lư, đặc trách ngoại vụ của Trung Tâm bảo vệ quyền Tác giả Âm Nhạc Việt Nam ở Hà Nội (Vietnam Center for Protection of Music Copyright -VCPMC) cho chúng tôi biết việc tranh chấp của hai tác giả này:

“Cơ quan ḿnh có yêu cầu các bên đưa ra chứng cứ thực tại v́ chứng cứ thực chính là material mà họ có thể show được. Bên Anh Bằng th́ có đầy đủ chứng cứ về nhạc phẩm của ḿnh c̣n phía c̣n lại th́ không. Thật ra vấn đề này nó cũng không có ǵ là quá phức tạp tại v́ mọi thứ nó đều rơ ràng chứ không c̣n ǵ để có thể tranh căi hơn nữa. Bên nào có chứng cứ xác thực nhất th́ ḿnh sẽ căn cứ vào đấy v́ Trung tâm được thành lập để bảo vệ quyền lợi của nhạc sĩ và quyền này là quyền nhân thân cơ bản nhất của các nhạc sĩ v́ vậy phải dựa vào tính minh bạch nhất không thiên vị ai cả.”

Ông Phan Phương, người phụ trách mảng tác giả tác phẩm của Trung Tâm kể lại những ǵ ông biết:

“Tôi là người phụ trách mảng tác giả và tác phẩm trong Trung tâm bản quyền Việt Nam. Tôi phát hiện ra sự song trùng của hai bài ấy và cảm thấy tất cả những bài do ông Thụy Kha viết về ông Khúc Ngọc Chân nó chỉ là một bài văn hư cấu chứ không phải là phóng sự điều tra để khẳng định rằng đây là tác giả chính hay tác giả phụ.

V́ nó là bài văn hư cấu có nghĩa là nó không đáng tin cậy, có nghĩa như chúng ta viết văn th́ có thể tưởng tượng được cái này hay cái khác. Đây không phải là một phóng sự điều tra v́ phóng sự điều tra th́ nó phải có đầy đủ chứng cứ. Trong luật th́ anh biết rồi nhất là luật sở hữu trí tuệ quốc tế nó quy định cứ anh nào có bằng chứng th́ anh ấy thắng.

Việc này đâu chỉ riêng Việt Nam mới có đâu mà ở Mỹ cũng đă có những trường hợp như thế. Việc này cơ quan của chúng tôi phải thực thi pháp luật rất nghiêm chỉnh. Tôi cũng xin báo cho anh biết không có một âm mưu chính trị nào trong cái bài viết ấy đâu mà đây chỉ là một sự cẩu thả.”

Theo nhà báo Thụy Kha th́ nhịp 4/4 mà Anh Bằng viết cho Nỗi ḷng người đi hoàn toàn không thích hợp với ḍng nhạc của người nhạc sĩ nổi tiếng này. Thay vào đó nhịp 3/8 mà ông Khúc Ngọc Chân sử dụng có thể hợp lư hơn cho hoàn cảnh tuổi tác của người sáng tác. Ông Kha nói:

“Tôi làm việc này hết sức công tâm. Tối mai tôi có phát biểu ở truyền h́nh nó có đưa cái này lên. Tôi nói rằng dù là cha nuôi hay cha đẻ th́ bài hát này nó cũng đă được sống một thời gian rất là dài và rất cảm ơn anh Anh Bằng nhưng mà cái ǵ của Cesar th́ phải trả cho Cesar.

Truyền h́nh Việt Nam sẽ phát bài này hát ở nhịp 3/4 sau đó là 6/8 anh thấy nó khác với hoàn toàn với điệu slow của ông Anh Bằng. Hoàn toàn khác.”

Việc tŕnh diễn trên truyền h́nh VTV mà nhà báo Nguyễn Thụy Kha nêu ra được ông Phan Phương cho biết ư kiến:

“Cái vụ ông Kha với cô Phan Huyền Thư làm chương tŕnh Giai Điệu Tự Hào này đưa tác giả Khúc Ngọc Chân lên cách đây đă lâu khi tôi chưa xử lư vụ Anh Bằng-Khúc Ngọc Chân, nó đă thu h́nh từ trước đó rồi. Bây giờ sáng nay nếu đúng là VTV phát h́nh th́ tôi sẽ gọi điện cho đài truyền h́nh và cái này th́ lỗi nếu có là do sự vô t́nh của đài truyền h́nh là cứ tin vào ông Thụy Kha thôi. Nhưng về pháp luật th́ chả có giá trị ǵ cả.”

Bằng tất cả mọi sự dè dặt chúng tôi chỉ đưa mọi thông tin có được đến cho người yêu nhạc biết thêm một vấn đề trong hàng ngàn câu chuyện đạo văn, đạo nhạc từ xưa tới nay. Hy vọng “Nỗi ḷng người đi” sẽ sớm được thanh thản và tiếp tục vuốt ve kỷ niệm buốt nhức của những ai từng xa Hà Nội…

2014-11-01
http://www.rfa.org/vietnamese/progra...014080030.html
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #9
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải kư hiệp định Genève. Ông Chân phải theo gia đ́nh về quê. Nỗi nhớ nhung người yêu khiến cho ông cảm xúc bâng khuâng.

Khi trở về Hà Nội, ông Chân mới biết gia đ́nh người yêu đă xuống Hải Pḥng, ở khách sạn Cầu Đất chờ di cư vào Nam. Ông t́m xuống Hải Pḥng để sống cùng người yêu, chờ tiễn nàng xuống tàu. Những ngày đó, với cây guitar luôn mang theo bên ḿnh, Khúc Ngọc Chân viết Tôi xa Hà Nội tại khách sạn Cầu Đất – Hải Pḥng, viết lại những ǵ đă bâng khuâng trong suốt những ngày tháng qua, những ngày tháng xa Hà Nội:

Chuyện hoang đường quá!!!

Tính thời gian vào lúc cô bé 16 tuổi mà mối t́nh của hai người đă sâu đậm như thế th́ cô bé phải "yêu" từ trước khá lâu... có thể một hai năm trước ...

Tôi là một người con gái 18 tuổi vào năm 1954, tôi có người yêu đă trên một năm trước đó, nhưng chúng tôi chưa hề cầm tay nhau mà chỉ gặp nhau nói bâng quơ rồi cười và nh́n nhau. Lần đầu tiên chúng tôi nắm tay nhau là khoảng 10 ngày sau Hiệp Định Geneve (20/7/1954), khi đó gia đ́nh chàng và gia đ́nh tôi chưa quen biết nhau. Trong khi cả nhà cuống cuồng thu xếp hành lư để di cư vào Nam th́ tôi xin cha mẹ cho ở lại, viện cớ "Ở lại để coi nhà".

Cha tôi sinh nghi cái lư do vô lư đó nên ḍ hỏi trong gia đ́nh, biết v́ chàng mà tôi định không theo gia đ́nh vào Nam, bèn thân hành đến nhà chàng xin bố chàng cho chàng đi theo gia đ́nh tôi (v́ gia đ́nh chàng ở lại). Bố chàng sợ con trai mới 18 tuổi, một ḿnh đến xứ xa lạ sẽ bơ vơ, nên yêu cầu hăy làm lễ kết hôn trước khi cho con trai theo gia đ́nh tôi vào Nam.

Khi cha tôi trở về báo tin cho cả nhà biết, tôi quá vui, vội đạp xe đến nhà chàng, gặp nhau là chụp ngay tay chàng mà mừng rỡ kể lại sự t́nh. Đó là lần đầu tiên một cô gái Hà Nội thời 54 nắm tay người yêu, một t́nh yêu đă kéo dài 16 tháng trường (từ tháng 3/53 đến tháng 7/54), 16 tháng trời gặp nhau chỉ nh́n nhau tṛ chuyện và ... cười ...

Làm ǵ có chuyện một ''cô bé Hà Nội 1954'', mới 16 tuổi, trong hoàn cảnh bi thảm "quốc phá gia vong" như thế, bản thân phải bỏ chạy từ Hà Nội xuống Hải Pḥng vào giờ thứ 25, mà lại có thể thản nhiên cùng người yêu đàn đúm trên một cái thuyền con:





Ngày đưa tiễn nàng và gia đ́nh xuống tàu há mồm di cư vào Nam, chàng và nàng cùng xuống một chiếc thuyền con ở bến Bính để đi ra nơi tàu đậu ngoài cửa biển. Thuyền cứ trôi, c̣n chàng th́ cứ bập bùng guitar và hát Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe. Nàng th́ vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên mạn thuyền. Con gái Hà Nội 16 tuổi của thời 1954 không thể như thế trong hoàn cảnh đất nước tan tành như thế (y như Tháng Tư năm 1975 tại Sai G̣n), chẳng ai c̣n bụng dạ nào mà làm chuyện hoang đường ấy đâu!!!

ĐPK
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #10
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Văn học Sài G̣n
đă đến với Hà Nội từ trước 1975



Hồi tôi c̣n học trung học phổ thông, tức là đầu những năm sáu mươi, trong sách giáo khoa văn học trích giảng, vẫn có những phần nhắc lại một cách sơ lược rằng ở các thành thị miền Nam có một nền văn học của ḿnh – dù rằng nhắc để phê phán.

Năm 1959, Chế Lan Viên có bài đọc Hoa Đăng của Vũ Hoàng Chương, bài viết kèm theo nhiều trích dẫn.

Trước đó trên báo Văn nghệ c̣n thấy in một lá thư, trong đó nhà văn Nguyễn Tuân thay mặt Hội văn nghệ mời các nhà văn miền Nam cùng dự Hội nghị các nhà văn châu Á tổ chức ở Ấn Độ cuối năm 1956. Lá thư có cái giọng thực sự chân thành và trân trọng “Thân gửi các bạn nhà thơ nhà văn miền Nam… Chúng tôi lấy làm sung sướng chuyển vào các bạn lời mời của Ban trù bị Hội nghị… Hội Văn nghệ Việt Nam trong khi cử ba bạn nhà văn nhà thơ miền Bắc sang dự Hội nghị cũng rất thiết tha mong mỏi được gặp các bạn để trao đổi những kinh nghiệm sáng tác của chúng ta.”

Bước vào chiến tranh, những thông tin rộng răi kiểu đó không c̣n nữa. Tuy nhiên trong những năm ấy, nhiều tờ báo nhiều cuốn sách bên kia giới tuyến vẫn có mặt, sách báo ở Sài G̣n ở các thành thị miền Nam vẫn len lỏi trở đi trở lại trong câu chuyện của giới viết văn ở Hà Nội.

Sự tiếp xúc xảy ra âm thầm lưa thưa lót đót, khi được khi chăng, nhưng không bao giờ chấm dứt. Và khởi đi từ những năm chống Mỹ, nó sẽ có lúc bồng bột cuộn lên mạnh mẽ (mà cũng là xô bồ tung tóe, nhếch nhác hơn, đầy trắc trở hơn) trong những năm hậu chiến và kéo măi đến ngày nay.

Tại sao những người viết văn năm ấy đang c̣n trẻ mà bọn chúng tôi lại chú ư đến mảng văn học đó? Nếu có người hỏi như vậy, chính tôi cũng sẽ lúng túng và nói bừa rằng thích th́ làm vậy. Rồi người ta có thể kể người này có biết ǵ đâu, chẳng qua học đ̣i; người kia lúc nào cũng kín kín hở hở khoe rằng ḿnh đă đọc để làm dáng... Tất cả những cái đó có cả.

Thế nhưng ngồi nghĩ lại ở đây c̣n có một cái ǵ sâu xa hơn mà dần dần trong thời gian nó mới bộc lộ. Có thể, vâng, tôi lờ mờ cảm thấy không chừng những con người đó và những cuốn sách đó sở dĩ có sức thu hút với bọn tôi là v́ những lẽ vừa xa xôi vừa thiết thực. Trong sự chờn vờn có có không không lẫn lộn, “nó” giống như một thách thức mà khi nghĩ tới, thúc đẩy chúng tôi làm tốt hơn công việc trước mắt. Bằng cách đưa ra những trang viết khác hẳn chúng tôi đang viết, “nó “ gợi ư về những việc có thể làm, nhớ lấy rồi ra lúc khác sẽ làm. Ấy là không kể -- điều này th́ chắc chắn chứ không c̣n nghi ngờ ǵ nữa --, “ nó “ mở ra cho chúng tôi một chân trời mới về kiến thức văn học và thức dậy những ham hố phiêu lưu. Đại loại đó là sự ṭ ṃ của tuổi trẻ hoặc cái khao khát được sờ vào những trái cấm. Mà …tuổi trẻ bao giờ chẳng thế, trách chúng tôi th́ “trách cả nhân loại “!

Hồi ấy trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, có cả một chương tŕnh dành cho người nghe ở các đô thị, trước tiên là văn nghệ sĩ Sài g̣n. Nhiều nhà văn tên tuổi như Tô Hoài Xuân Diệu và các cây bút loại trí thức như Nguyễn Thành Long thường được mời viết cho chương tŕnh này. Muốn người ta viết th́ phải có cái cho người ta đọc. Tự nhiên là có nhu cầu phải t́m sách và có sự truyền tay sách vở. Trong bọn chúng tôi có anh Trúc Thông làm ở chương tŕnh đô thị của đài. Gần như cả giới văn chương trẻ Hà Nội biết điều đó. Cứ nghĩ rằng nếu lân la t́m đến ngôi nhà 16 Hồng Phúc sẽ được ngó ngàng vài số tạp chí từ trong kia mang ra, ḷng đă run rẩy và có phải đi xa mấy để đọc cũng chẳng ai thấy ngại.

Mấy năm gần đây một vài anh thích nhắc đến thơ Thanh Tâm Tuyền. Nhưng chính hồi ấy, chúng tôi biết đến nhiều hơn là một Thanh Tâm Tuyền ở văn xuôi. Một lần nào đó đi họp với các cụ nhà văn tiền chiến một bạn trẻ của tôi chợt phát hiện ra Nguyễn Tuân với Cát lầy của Thanh Tâm Tuyền. Vâng chính là nhà văn ấy, đang đọc cuốn sách ấy. Anh về kháo với anh em chúng tôi. Tự nhiên là chúng tôi cũng bị lôi cuốn bảo nhau ṃ mẫm đi t́m. Đến cả Nguyễn Khải cũng t́m. Cát lầy, theo Nguyễn Khải, ăn ở sự ma quái của ḿnh.

Cũng như sau này Nguyễn Minh Châu nói rằng thích Thần tháp rùa của Vũ Khắc Khoan v́ ở đó có yếu tố tượng trưng. Cả hai nhà văn Hà Nội của tôi viết theo lối thực, nhưng ở chỗ riêng tư, các anh bao giờ cũng nhấn mạnh rằng một thứ văn xuôi thăng hoa mới là điều đáng ao ước, và chúng tôi cũng học theo các anh mà nói vậy. Ai mà chẳng muốn khác đi một chút so với những ǵ ḿnh đang có! Sau Thanh Tâm Tuyền, thấy rộ lên trường hợp Nguyễn Thị Hoàng. Có lúc nghĩ lại thấy h́nh như truyện chẳng có ǵ, chỉ ăn ở cái lạ là mối t́nh của một cô giáo với một học tṛ, nó quá ư là “công”, là ngược với thói quen đạo đức c̣n nặng chất phong kiến của dân Hà thành. Nhưng nên nhớ hồi ấy, cả Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng không ai được đọc. Th́ cái chất mùi mẫn kia lại đâm có sức quyến rũ. Và trong sự chăm chú đọc, người ta nhận ra ở nó cả những yếu tố c̣n lờ mờ, nhưng đă có ở chính ḿnh. Sổ tay tôi c̣n ghi nhiều cuộc tṛ chuyện với Nguyễn Minh Châu, trong đó có những nhận xét của anh Châu về Ṿng tay học tṛ. Về nghệ thuật, anh Châu bảo “văn chương nó viết nhuyễn thật. Không phải là uốn éo đâu mà với nội dung ấy th́ phải viết kiểu ấy, nó mới nói hết được cái phức tạp của con người bây giờ “
( xem Tṛ chuyện với Nguyễn Minh Châu, tạp chí Nhà văn số 4-2008).

Ai đó nghĩ Nguyễn Minh Châu chuyên viết chiến tranh sao lại có thời giờ lưu ư phần nhân bản trong trang viết. Nhưng đúng anh Châu là thế, nên anh mới cắt nghĩa Ṿng tay học tṛ theo kiểu liên hệ Ṿng tay học tṛ với Dấu chân người lính của ḿnh:

“Có một đoạn, Nguyễn Thị Hoàng tả cô Trâm này với tay Minh ra gieo đỗ, nói về sức sống trong ḷng đất. Tôi thấy ḿnh cũng gặp nó ở chỗ ấy, trong một đoạn tôi viết Xiêm đi lấy thóc và tự hỏi tại sao không lấy gạo mà lại lấy thóc?...”.

Vậy là việc đọc Ṿng tay học tṛ với Nguyễn Minh Châu, là một hành động nghề nghiệp nghiêm chỉnh. Anh ngầm bảo rằng những tác phẩm của phía bên kia kích thích anh, như một lời mời gọi thú vị:

“Đọc những tay này, tự nhiên ḿnh dậy lên một thứ thâm thù: Ḿnh cũng phải viết được cái ǵ để làm cho nó khiếp về ḿnh mới được.“

Cũng không nhớ hết là nguồn ở đâu ra chỉ biết là những cái tên như Nguyễn Thị Hoàng và Nguyễn Thị Thụy Vũ, Mai Thảo và Duyên Anh, Doăn Quốc Sĩ và Thế Uyên… đă đến với chúng tôi rất sớm. Sau này đọc lại thấy sự hiểu biết của ḿnh cũng lỗ mỗ chả bao nhiêu, nhưng lại chả cái ǵ là không thấp thoáng có mặt. Và có cả những cái tên những quyển sách mà có thể số đông chẳng có mấy ư nghĩa, nhưng với một số người nào đó lại có duyên nợ riêng. Thật là trớ trêu, nhưng quả thật với tư cách một người mới làm quen với văn, cái mà tôi nhớ hơn cả từ văn chương Sài G̣n năm ấy lại là những tác phẩm viết về thân phận của người cầm bút.

Lần ấy, đọc Một ngày làm việc của Chiêu Hoàng truyện ngắn của Trùng Dương Nguyễn Thị Thái (in trên bán nguyệt san Văn 4-1973) tôi chỉ nghĩ người đàn bà viết văn ở đây sao gần ḿnh. Cũng đau đớn mà làm nghề, vừa viết để thỏa măn cái tôi muốn tự khẳng định, lại vừa lo kiếm sống. Những vui buồn ngổn ngang lấp đầy cuộc sống hàng ngày sao mà cũng na ná như tâm trạng của chúng tôi.

Một lần khác, tôi t́m thấy h́nh ảnh của chính ḿnh trong bóng dáng những người viết văn miền Nam, đó là một đoạn văn của Mai Thảo viết về Vũ Khắc Khoan , in trên tạp chí Vấn đề, 1969 Vũ Khắc Khoan. Một mái tóc đă chiều của một tâm hồn c̣n sớm. Những buổi chiều Sài G̣n buồn bă. Những buổi chiều Đà Lạt mù sương. Mỗi ngày qua thêm một sợi bạc. Âm thầm đe doạ, lặng lẽ tràn đầy. Ly rượu nửa khuya là ly thứ mấy. Quạnh hơi thu lau lách đ́u hiu. Muốn một thời đại hoàng kim. Thèm một tấm ḷng bè bạn. Mỗi cơn say là một cảm khái ngà ngà. Vũ Khắc Khoan. Của một tự hỏi, tự hoài nghi và tự bâng khuâng lắm lắm về cái b́nh sinh mà ḿnh chưa đạt. Ta đă dùng chi đời ta chưa? Ai đă dùng chi đời ta chưa? Ngó ra cái chung, cái đại cuộc cái toàn thể, nh́n trở vào cái riêng tây, rừng ấy mung lung, núi ấy chập chờn, nghe từng phiến đá tâm linh rụng dần những giấc mơ không thành tựu.... Và tôi, một trong ít những người bạn của Vũ Khắc Khoan, tôi muốn nh́n ngắm anh như một cần thiết. Trong cuộc sống hàng ngày thôi, có rất nhiều những giờ phút buồn bă của chúng tôi có Vũ, người ta nhớ thêm được những điều đáng nhớ, quên mau được những điều đáng quên, và cuộc đời xem được là nhẹ hơn hoặc coi được là nặng hơn cái trọng lượng tầm thường và phí lư của nó.

Ngày 5-5-1975, vào Sài G̣n, sau khi đi thăm hiệu sách Khai trí, tôi nhờ một sinh viên dẫn đến ṭa soạn Bách Khoa, gặp Lê Ngộ Châu rồi nhờ ông Châu nhắn gặp Nguyễn Mộng Giác. Có mấy lư do thứ nhất theo tôi đọc được, anh Giác cũng là dân cũng học qua sư phạm như tôi và cách viết cũng nhiều chất trường ốc; và thứ hai, Giác năm ấy so với những Vũ Hạnh, Vơ Phiến … cũng là cánh trẻ. Qua Giác, tôi làm quen với Hoàng Ngọc Tuấn và có lần đến thăm cả Nguyễn Hiến Lê. Cái chính là chúng tôi cảm thấy cùng thân phận. Tôi hay nói với Nguyễn Mộng Giác: Chúng tôi mà ở trong ấy, th́ cũng thành các anh. Mà các anh ở đây cũng thành chúng tôi. Hoàn cảnh quyết định hết! Không riêng ǵ tôi! Nghiêm chỉnh và sâu sắc, những kỷ niệm loại này, hẳn có ở nhiều bạn khác.

Và cả những kỷ niệm về hiểu lầm nhau, nghĩ sai về nhau, đánh đ̣n hội chợ chuyện này, thù sâu oán nặng chuyện kia, thật cũng là cái phù vân nhảm nhí của cuộc sống đâu mà chẳng có. T́nh trạng rón vào từng cục chẳng ai chịu ai là phổ biến của làng văn Việt Nam, cả giữa các nhà văn trong ấy, lẫn chúng tôi ngoài này. Th́ trách nhau măi sao tiện. Nhưng thôi, hăy kể ít chuyện cũ đă.

Khoảng 1971-73 ǵ đó, có lần anh Nguyễn Thành Long khoe với tôi là nhân muốn tṛ chuyện với Thế Uyên, phải lặn lội về tận làng Bằng ở Hà Đông lấy tài liệu để viết một bài về Thạch Lam. Đoạn cuối truyện ngắn Cô hàng xén có câu “Tâm dấn bước. Cái ṿng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện ra trước mặt, tối tăm và dày đặc“. Hè 1972, có mặt ở Quảng Trị lúc thành phố chưa bị ném bom hủy diệt tôi mang về nhiều bài báo xé ra từ các số bán nguyệt san Văn, trong đó có bài Tự truyện viết sớm của E. Evtouchenko. Chính là hồi đó, loại tài liệu này cũng là của hiếm với. Sẵn bản dịch của Vũ Đ́nh Lưu, các bạn như Lưu Quang Vũ, Nghiêm Đa Văn, Lâm Quang Ngọc, … truyền tay nhau để đọc.

Tôi kể lại hai chuyện này để thấy sự chia sẻ của chúng tôi với văn học đô thị miền Nam c̣n là ở hai điểm. Thứ nhất sự chi chút gia tài văn học quá khứ. Không có các anh trong ấy bao năm ǵn giữ, Hàn Mặc Tử chẳng hạn, rồi Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương… không thể trọn vẹn như ngày nay. Thứ hai, sự tiếp nhận văn học nước ngoài từ các lư thuyết văn học tới các tác giả cụ thể. Các tạp chí ở Sài G̣n đă làm công việc này một cách tự nhiên và cuộc hội nhập với thế giới mà các bạn trẻ đầu thế kỷ XXI này đang làm là tiếp tục đi theo cái mạch đó.


30-04-2009
_http://vuongtrinhan.blogspot.com/
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #11
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Phạm Cao Củng, một văn nghiệp không tầm thường
của văn học Việt Nam thế kỷ 20









Sự nghiệp tôi tầm thường,
th́ ái t́nh cũng rất tầm thường
Phạm Cao Củng






Đó là lời tự nhận xét của nhà văn Phạm Cao Củng, cha đẻ nhân vật thám tử Kỳ Phát, trong Hồi kư của ḿnh do Nhà Xuất bản Nhă Nam ấn hành năm 2012 tại Hà Nội. Ông đă tṛn 100 tuổi vào tháng 10/2012 và tạ thế ngày 17/12 tại Florida, Hoa kỳ.

Có một điều đáng tiếc là thế hệ người Việt Nam sinh ra ở miền Bắc từ sau năm 1954, và trong cả nước sau năm 1975, không mấy người biết tới nhà văn Phạm Cao Củng, cũng như nhiều nhà văn có tiếng khác trong nền văn học nước nhà nửa đầu thế kỷ trước sau khi họ chuyển vào miền Nam sinh sống và, sau đó nữa, đi ra nước ngoài. Vậy mà tác phẩm của họ là những nét son trong sự h́nh thành nền văn học hiện đại nước nhà.

Ngày ấy, khoảng 100 năm về trước, chữ Việt hiện đại theo mẫu tự La tinh, được đưa vào sử dụng đại trà và tạo nên cả một sự thay đổi trong đời sống người Việt. Chữ Việt hiện đại dễ học, lại có khả năng phản ánh được đầy đủ những suy nghĩ của người Việt, nên sự lan truyền của chữ Việt mới rất nhanh chóng, nhất là sau khi các sĩ phu của phong trào Duy tân đặt tên là chữ quốc ngữ. Nhưng đấy mới chỉ là tiềm năng, c̣n để chữ quốc ngữ trở thành một công cụ, một thuộc tính của người Việt th́ c̣n cần tới cả một lớp những người có học, các văn nghệ sỹ và trí thức, ứng dụng chữ quốc ngữ vào việc thể hiện đời sống thường ngày cũng như đời sống tinh thần chúng ta. Cũng như làm việc hàng ngày bằng chữ quốc ngữ.







Nhờ sự nỗ lực của nhiều thế hệ mà tới khoảng giữa thế kỷ trước chữ quốc ngữ đă làm tṛn được trọng trách của ḿnh như một công cụ thể hiện hoàn hảo đời sống và tâm tư, t́nh cảm của người Việt. Và nhất là khi các cụ Hoàng Xuân Hăn, cùng các cụ khác trong Hội Truyền bá Quốc ngữ, nghĩ ra cách học chữ theo kiểu i tờ, rất nhanh gọn, th́ việc biết đọc biết viết trở nên thật sự dễ dàng cho tất cả mọi người.

Nh́n lại, mới thấy rằng trong khoảng có hơn 20 năm, từ giữa những năm 20 tới năm 45, có cả một cao trào người Việt lao vào báo chí, văn học và thơ ca như sự hứng khởi tột cùng với một công cụ mới là chữ quốc ngữ. Quốc ngữ được thể hiện trong đủ mọi lĩnh vực của văn học: thơ mới, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dài, kịch... và cả truyện trinh thám nữa. Những người viết khởi đầu đó toàn là những thanh niên, độ tuổi trên dưới 20, tŕnh độ học vấn thường là chừng chưa qua trung học cơ sở, theo cách xác định bây giờ. Họ cũng chẳng tự nhận ḿnh là những người viết văn trẻ v́, đơn giản, chẳng có ai già hơn họ để lên giọng cha chú chỉ bảo họ phải viết như thế nào. Họ thấy trong văn chương có cơ hội để họ thể hiện những khát khao của ḿnh với cuộc sống, và cũng để kiếm sống.

Do một sự ngẫu nhiên của số phận, Phạm Cao Củng đă bắt đầu viết những ǵ mà toà soạn Hải Pḥng Tuần báo đề nghị, những chuyện kiếm hiệp theo cốt chuyện của Tàu. Buổi giao thời lúc đó, chữ Hán chưa qua nên hơi hướng kiếm hiệp Tàu vẫn c̣n ăn khách. Nhưng Phạm Cao Củng đă viết những chuyện theo phong cách Tàu đó bằng một thứ ngôn ngữ Việt hiện đại, thích hợp hơn cho độc giả Việt. Và ông đă thành công. Sau khi thôi học trường Bách Nghệ Hải Pḥng ông đă sống được bằng nghề viết. Cũng không hiểu sao ngày ấy có lẽ Việt Nam kém phát triển hơn bây giờ nhiều, nhưng nhuận bút lại trả đủ để cho người ta sống đàng hoàng bằng ng̣i bút. Và cũng chẳng hiểu v́ sao ngày ấy giới văn nghệ sỹ cũng chẳng bao giờ lại yêu cầu Nhà nước có chính sách cho họ! Mà có yêu cầu cũng không được v́ Nhà nước bảo hộ thuộc địa Pháp và nhà văn, cả hai, đều quan niệm văn chương chỉ là một nghề như tất cả những nghề khác trên đời, cũng như mỗi người phải làm cái ǵ đó để kiếm sống.

Nhưng tư duy logic phương Tây trong các nhà trường Pháp, văn học Pháp, sau vài chục năm thâm nhập vào Việt nam đă bắt đầu phát huy ảnh hưởng.

Đỉnh cao của tư duy lo gic đó được thể hiện trong các truyện trinh thám, nơi các thám tử phá án bằng tư duy logic của ḿnh. Như những con người hiện đại, họ thu thập bằng chứng, diễn giải tŕnh tự sự việc, phát hiện những uẩn khúc, những mâu thuẫn và... phá án. Logic suy luận của họ đôi khi chưa thật nhuyễn nhưng cũng không có ǵ là huyền hoặc và cũng chẳng có ǵ siêu nhiên. Họ cũng không quên cân nhắc tới các yếu tố tâm lư con người khi hành động, những ảnh hưởng xă hội chi phối hành vi ứng xử của kẻ phạm tội...cũng như các yếu tố công nghệ mà thời đại của họ có thể cung cấp cho họ. Những yếu tố công nghệ này đă đem lại sức hút và vẻ mới mẻ cho các câu chuyện của họ.

Những con người trẻ tuổi như Phạm Cao Củng, không bị ràng buộc bởi những niêm luật nào cũng như những quy ước trong sáng tạo nào, đă cảm nhận ngay được sự chuyển đổi trong tư duy của thế hệ người Việt mới đi học, biết đọc biết viết, những người đang là động lực cho một Việt Nam thay đổi, dù rằng dưới sự cai trị của người Pháp. Họ cũng cảm nhận được nhu cầu hiện đại hoá của toàn thể xă hội Việt Nam từ nông thôn tới đô thị, từ tầng lớp thấp đến tầng lớp cao, từ nam giới đến nữ giới: trở thành người tân thời như cách gọi thủa ấy, đang âm thầm lan toả và chi phối tâm tư t́nh cảm của mỗi người. Vậy th́ phải viết các câu chuyện trinh thám, h́nh sự trên cơ sở những ǵ đang diễn ra trên đất Việt, theo tư duy người Việt và bằng ngôn ngữ Việt. Tại sao không?







Những câu chuyện trinh thám của Phạm Cao Củng đáp ứng được đúng nhu cầu của xă hội lúc đó. Ông viết ngày, viết đêm.

“Không phải tự kiêu, chứ nếu chỉ kể số nhiều th́ với bảy tám chục bộ truyện kiếm hiệp “Tàu giả hiệu”, có bộ dày tới ba ngh́n trang, khoảng hai chục cuốn trinh thám Kỳ Phát, ba chục cuốn trinh thám kỳ t́nh (kư bút hiệu Phượng Tŕ), bốn, năm chục cuốn truyện ngắn chọn lọc, mười mấy cuốn khảo cứu khoa học thực hành và khoa học huyền bí (bút hiệu Trần Lang) và không biết bao nhiêu loại sách , truyện ngắn linh tinh khác...”, nhà văn nhớ lại.

Truyện của ông dễ hiểu cho mọi người, ly kỳ so với tŕnh độ hồi đó nhưng hợp lư, và nhất là tân kỳ bằng văn phong, t́nh tiết đời thường nhưng không lạm dụng những thứ kỹ thuật siêu hiện đại Âu Tây, những cái nước nhà không có vào thời ấy.

Những câu truyện trinh thám thuần Việt của một thời khai mở.

Và có một sự chia cắt mạnh mẽ đă diễn ra ở đây trong văn học nước nhà: chia tay với nền kiếm hiệp Tàu. Cho đến lúc ấy phần lớn người Việt đều đọc truyện Tàu thể loại kiếm hiệp v́ quả thực văn học giải trí, đời thường Trung Quốc cũng chẳng có ǵ hơn. Tiểu thuyết vơ hiệp Tàu, mà sau này được canh tân và đưa lên đỉnh cao bởi Kim Dung, đă làm say mê độc giả Việt bao đời với những t́nh tiết thường là không thực, nhất là với các thể loại vơ công có tính huyền hoặc. Các cốt truyện thường là những t́nh tiết éo le và cũng ...siêu thực. Đơn giản là những t́nh tiết đó, xét riêng biệt, có thể là có thật nhưng thường là t́nh huống cực đoan trong đời sống, và chúng được xâu chuỗi lại theo một logic ly ḱ, ít thực tế ở mức tối thiểu, để thành một cái ǵ không thực, nhưng lại có tính khêu gợi trí ṭ ṃ, làm dịu tâm thần người đọc và giải trí. Kiểu tiểu thuyết đó chẳng mấy phù hợp với một xă hội đang hăm hở lao lên phía trước v́ hạnh phúc trên trần gian này.

Điều đáng buồn cho các văn tài Việt Nam là cuộc đời sáng tác tích cực của họ không lâu, trừ nhà văn Tô Hoài. Khoảng không quá 20 năm ǵ đó với các tác phẩm đỉnh cao. Sau đó phần đông vẫn kiếm sống bằng nghề viết, nhưng tác phẩm ghi dấu ấn th́ không. Riêng Phạm cao Củng lại chuyển hẳn sang ngă rẽ khác. Ông đi làm công an phụ trách điều tra h́nh sự cho ngành công an Việt Nam khi chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà mới thành lập. Ông phá nhiều vụ án. Rồi ông tham gia kháng chiến, vẫn làm công an, rồi có lúc đi tù v́ những trắc trở nào đó để rồi sau đó ra Hà nội, vào Sài G̣n mưu sinh bằng nghề chụp ảnh. Thời cuộc đưa ông đến với nước Mỹ lúc tuổi đă cao, có lúc kiếm sống bằng nghề ấp trứng vịt lộn và nhiều nghề không gọi rơ được tên. Ông sống bằng sức lao động của ḿnh, ngay cả lúc phải sinh tồn trên đất Mỹ xa lạ...

Văn nghiệp ông cũng dần bị lăng quên...một cách đáng tiếc. Dù rằng ngày nay đọc lại tác phẩm của ông vẫn đủ lư thú của truyện trinh thám mà lại c̣n tràn đầy cảm giác nhẹ nhàng, tươi sáng của văn chương Việt lúc khởi đầu thời hiện đại, cũng như cảm nhận về một nước Việt vẫn c̣n nhiều nét truyền thống, đẹp một cách đầy mê hoặc.

Nh́n lại cũng để thấy Phạm Cao Củng quả là một trong những người đứng ở hàng đầu khai phá trong văn nghiệp nước nhà lúc đó, cùng với những Nguyễn Công Hoan, Khái Hưng, Nguyễn Tường Tam, Thạch Lam, Thế Lữ, Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Lê Văn Trương, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài... khoảng 20 văn tài, đă vạch ra những hướng đi và bước những bước đi ban đầu cho nền văn học quốc ngữ nước nhà. Những t́m ṭi, thử nghiệm của họ thật là sáng láng mà giờ đây, trong cuộc khủng hoảng toàn diện của văn học nước nhà, mới thấy rằng thời các nhà văn tiền chiến quả là một bước khởi đầu rực rỡ và không thể may mắn hơn cho văn học Việt Nam.

Trân trọng tưởng nhớ nhà văn Phạm Cao Củng!

Phạm Bích San

31/12/2012



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------









Quick Navigation Văn Học Sử Top
florida80_is_offline   Reply With Quote
Old 05-04-2019   #12
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,009
Thanks: 7,276
Thanked 45,824 Times in 12,744 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Cuối cùng th́ ông Mai Quốc Liên
đă công nhận miền Nam có văn hoá
Nhật Tiến


Nhà xuất bản Huyền Trân vừa chuyển cho tôi mấy cái Email liên tiếp quanh vụ “Văn nghệ Sĩ miền Nam tham dự khóa bồi dưỡng chính trị” mùa hè năm 1976 tại Sài G̣n, do một người viết kư tên “Người Việt ĐCPN” nhắc lại qua chủ đề “Nên sám hối nếu nói như thế” để chất vấn ông Mai Quốc Liên khi ông tuyên bố trong khóa bồi dưỡng kể trên rằng “Miền Nam các anh các chị làm ǵ có văn hóa!”

Trong một Email mới nhất đề ngày 20 tháng 11-2012, gửi đi từ ṭa soạn báo Hồn Việt tức Tạp chí điện tử Hồn Việt có trụ sở ở đường Trần Quốc Thảo, Quận 3, Sài G̣n (do ông Mai Quốc Liên làm Tổng Biên Tập), ông Mai Quốc Liên đă trả lời “Người Việt ĐCPN” mấy điều tóm tắt như sau:

- Ông Nhật Tiến bịa nhưng không khôn. Lâu quá rồi, 40 năm rồi, không có ghi âm, ghi chép bằng trí nhớ và sự thù hận của ông, để câu khách th́ ông tha hồ bịa.

- Khi đó, tôi là 1 cán bộ thường, ngoài Đảng, tôi có phải lănh đạo đâu mà dám nói câu giáng bề trên: “Khóa học này mở ra để các anh, các chị hiểu biết về xă hội mới thôi, chứ đừng trông mong ǵ vào việc cầm bút trở lại”.

- C̣n “bởi v́ miền Nam các anh, các chị làm ǵ có văn hóa” th́ là 1 câu ngu ngốc mà không ai dại ǵ nói! Nên nhớ tôi là 1 người nghiên cứu văn hóa cổ - Hán Nôm- là chính, mà lúc ấy tôi c̣n khá trẻ, tôi phải biết ở SG có những nhà nghiên cứu nào chứ (như Trần Ngọc Ninh – không kể người viết văn)

- Chắc là hồi đó có sự hiểu lầm trong phát biểu sao đó, tôi cũng không c̣n nhớ.


***
Tôi xin trả lời từng điểm một, không phải v́ lư do tôi muốn tranh căi với một người như ông Mai Quốc Liên, nhưng đối với những độc giả vốn đă từng đọc tôi từ 60 năm qua, tôi không thể làm phụ ḷng tin cậy của họ khi nghe có người kết án tôi là “bịa chuyện” để ‘câu khách” (Nghe sao nó “lùn” và ấu trĩ đến thế!).

Vâng, tôi không thể để bỏ qua câu chuyện liên hệ tới vấn đề văn hóa ở miền Nam trước 1975 này, dù nó đă từng xẩy ra 40 năm trước và cho dù thời đó chẳng có máy ghi âm, chỉ ghi chép bằng trí nhớ. Các Cụ ta ngày xưa đâu có máy ghi âm mà biết bao nhiêu giai thoại văn chương, bao nhiêu chứng tích lịch sử, văn hóa từ cả ngàn năm trước vẫn c̣n lưu truyền cho tới nay. Chẳng lẽ ông Mai Quốc Liên cũng lấy cớ không có máy móc mà đ̣i xổ toẹt hết cả hay sao? Rồi ông lại c̣n bảo tôi v́ ‘thù hận”. Làm sao tôi lại thù hận đích cái tên của ông được, trong khi ông ngồi quan sát sinh hoạt của Tổ Văn, Thơ trong Khóa Bồi dưỡng Chính trị, không xưng tên tuổi, chúng tôi chẳng biết ông là ai, đến từ đâu.

Rồi ngay cả khi ông buông một câu xanh rờn “Miền Nam làm ǵ có văn hóa” th́ chúng tôi cũng c̣n chưa biết kẻ tuyên bố như thế là ai? Cho đến khi Ban Chủ tọa tuyên bố nghỉ giải lao, ra sân rồi hỏi ra mới biết đến cái tên “Mai Quốc Liên” mà tôi được nghe lần đầu. Như vậy th́ giữa tôi với ông đâu có ǵ liên đới để đến nỗi sinh thù hận làm tôi phải “bịa chuyện” cho ông như thế!

Trước sau, tôi chỉ đ̣i trả lại sự công bằng cho những người đă từng hao tâm, tổn trí trong nhiều năm đă gây dựng nên một nền văn hóa được gọi là “Văn Hóa Miền Nam trước năm 1975” mà thôi.

Sau đây tôi xin đi sâu vào mấy điểm mà ông Mai Quốc Liên đă nêu ra:

1) Ông Mai Quốc Liên nói rằng tôi bịa một câu chuyện đă lâu tới 40 năm, không có ghi âm, chỉ ghi chép bằng trí nhớ và sự thù hận của tôi và để “câu khách” chắc là ám chỉ mấy cuốn sách của tôi vừa mới ra.

Xin thưa rằng, câu chuyện này không phải chỉ được nói ra trong thời điểm này 2012, trong cuốn Hành Tŕnh Chữ Nghĩa và Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác vừa được phát hành trong năm nay.

Nhưng hơn 30 năm trước, nhà văn Hồ Trường An ở Paris, nhà văn Tuấn Huy ở California cũng đă tường thuật quanh đề tài “Khóa bồi dưỡng chính trị cho Văn nghệ sĩ miền Nam ngay sau khi chế độ miền Nam sụp đổ”. Rồi trong thời gian cộng tác với tờ tuần báo Việt Tide xuất bản ở Nam Cali (2001-2010), tôi cũng đă từng nhắc lại chuyện này trong mục Sổ Tay Văn Học, mà vào thời kỳ đó Việt Tide cũng đă có bản digital, độc giả có thể coi dễ dàng trên internet.

Lại nữa, trên đài Little Saigon ở Nam Cali, một thời gian dài đă phát thanh về tới VN, trong đó kư giả Đinh Quang Anh Thái cũng đă phỏng vấn tôi về khóa Bồi Dưỡng Chính Trị này. Thế mà ông Mai Quốc Liên chưa bao giờ lên tiếng cải chính được lấy một lời!

Mặt khác, khi “bịa chuyện” th́ ai dại ǵ đi bịa một chuyện có sự hiện diện đầy đủ các nhà văn, nhà thơ tên tuổi tham dự khóa học mà ai cũng có thể dễ dàng kiểm chứng, nhất là khi loạt bài của Hồ Trường An, của Tuấn Huy in ra từ hơn 30 năm trước, dữ kiện c̣n rất mới trong tâm trí mọi người.

Tôi xin kể tên những vị sau đây đă chứng kiến việc Mai Quốc Liên nhục mạ văn hóa miền Nam nhân trả lời nhà văn Nguyễn Thị Hoàng khi cô này ví ḿnh như trẻ sơ sinh (mới giải phóng có 1 năm, so với các anh đă từng vượt Trường Sơn trước đó nhiều năm), cần thời gian học tập để viết trở lại. Đó là các vị: Nguyễn thị Vinh, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Tường Linh, Phạm Thiên Thư, Đỗ Phương Khanh, Vũ Hạnh, Nguyễn Hữu Đống, Hồ Trường An, Tuấn Huy….và nhiều vị khác nữa, nhất thời tôi không thể liệt kê ra hết.

2) Ông Mai Quốc Liên nói khi đó, ông là 1 cán bộ thường, ngoài Đảng, có phải lănh đạo đâu mà dám nói câu giáng bề trên: “Khóa học này mở ra để các anh, các chị hiểu biết về xă hội mới thôi, chứ đừng trông mong ǵ vào việc cầm bút trở lại”.

Về sự kiện ông Mai Quốc Liên chỉ là một cán bộ thường, ngoài Đảng th́ có lẽ là đúng. Cho nên ngay sau khi ông tuyên bố câu nhục mạ văn hóa miền Nam và bị nhiều người phản ứng, ban Chủ tọa khóa học đă tuyên bố nghỉ giải lao ngay lập tức, và chiều hôm đó, Mai Quốc Liên không được tham dự nữa với lời giải thích của chủ tọa đoàn:

“Mai Quốc Liên chỉ tham dự với tư cách dự thính, không có quyền phát biểu”!

3) Người phản ứng đầu tiên ngay sau khi Mai Quốc Liên buông câu nhục mạ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, biên tập viên các báo Dân Chủ, Ḥa B́nh, Tân Phong, Đông Phương, Thiếu Nhi. Đỗ Phương Khanh đă đứng phắt dậy, chỉ vào mặt Mai Quốc Liên và cao giọng:

“Anh vào Nam bao lâu, đọc được bao nhiêu cuốn sách rồi mà anh nói miền Nam không có văn hóa....Có một cuốn sách rất mỏng là cuốn Những Giọt Mực của Lê Tất Điều, anh đă đọc chưa?”

Mai Quốc Liên không thể trả lời câu hỏi này, trong khi tôi và Nguyễn Thụy Long cùng đứng dậy để chất vấn thêm về câu tuyên bố mục hạ vô nhân này, nhưng Chủ tọa đoàn đă vội vă tuyên bố nghỉ giải lao v́ bầu không khí sục sôi của nhiều người tham dự.

Một cán bộ, tôi không nhớ tên, đă tới ngay bên Nguyễn Thụy Long để kè anh đi ra. C̣n tôi cũng bị nhà văn Vũ Hạnh kèm sát ra sân sau và nói:

“Anh đừng có nóng! Anh phản ứng như thế người ta sẽ cho là anh phá hoại khóa học”. (Nhà văn Vũ Hạnh hiện c̣n sinh sống ở Sài G̣n)

Với tất cả những chi tiết cùng những nhân chứng có tên tuổi kể trên, ta có thể coi là “bịa chuyện” để “câu khách” được chăng?

4) Ông Mai Quốc Liên cuối cùng cũng đă thú nhận rằng:

“Chắc là hồi đó có sự hiểu lầm trong phát biểu sao đó, tôi cũng không c̣n nhớ.” Và “….tôi là 1 người nghiên cứu văn hóa cổ - Hán Nôm- là chính, mà lúc ấy tôi c̣n khá trẻ, tôi phải biết ở SG có những nhà nghiên cứu nào chứ (như Trần Ngọc Ninh – không kể người viết văn)”

Nghiên cứu văn hóa cổ - Hán Nôm - là chính mà chỉ liệt kê được có mỗi một tên Trần Ngọc Ninh, trong khi c̣n nhiều tên tuổi lẫy lừng khác thuộc lănh vực này của miền Nam th́ không nhắc tới, th́ tôi cũng có thế đánh giá khả năng hiểu biết của ông Mai Quốc Liên ở mức độ nào rồi.

Tuy nhiên, đó chỉ là chuyện bên lề. Điều chính yếu, thật t́nh tôi chỉ muốn nghe, cần nghe là ông Mai Quốc Liên công khai thú nhận rằng “Miền Nam cũng có Văn Hóa”.

Và cho tới bây giờ, ông đă phải công nhận rằng: “bởi v́ miền Nam các anh, các chị làm ǵ có văn hóa” th́ là 1 câu ngu ngốc mà không ai dại ǵ nói!”.

Đúng trăm phần trăm! Chỉ những kẻ ngu dốt, dại dột mới nói lên câu đó. Đây chính là lời của ông Mai Quốc Liên phát biểu năm 2012.

Rất đáng tiếc là tôi đă chờ câu nói này suốt 40 năm qua, sau các bài báo của chính tôi, của Hồ Trường An, của Tuấn Huy..v..v.. mà ông vẫn giữ im lặng. Phải chi ông lên tiếng sớm hơn th́ tôi đă không nhắc đến chuyện này trong cuốn sách mới ra của tôi. Không phải là tôi mong mỏi kết hợp, ḥa giải ǵ với những người cầm bút cực đoan như ông, và tôi cũng không trông mong ǵ ở cái sự nhà nước giang tay đón các văn nghệ sĩ trở về hợp tác với chế độ.

Khi đất nước c̣n dậy trời tiếng kêu than của dân oan, khi các thanh niên, sinh viên, các người VN yêu nước chỉ v́ lên tiếng đ̣i bảo toàn lănh thổ mà c̣n bị cầm tù…th́ tôi không thấy cần phải tự hỏi “Tại sao dân tộc, đất nước chúng ta suy vi đến thế về đạo đức từ người lănh đạo đất nước đến giới trẻ tương lai của dân tộc....” như vị kư tên “Người Việt ĐCPN” nêu ra trong E-mail, nhưng tôi phải cám ơn vị này, v́ ḷng công chính đối với vấn đề văn hóa nên ông đă bức xúc lên tiếng, đ̣i hỏi kẻ nào hỗn hào với văn hóa phải thành tâm mà xin tạ lỗi.


Nhật Tiến
Garden Grove, California ngày 20-12-2012

_http://www.namuctuanbao.net
florida80_is_offline   Reply With Quote
Reply

User Tag List

Thread Tools

Facebook Comments


 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 01:10.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.95985 seconds with 13 queries