Qua (Nguyễn Mộng) Giác, tôi làm quen với Hoàng Ngọc Tuấn và có lần đến thăm cả Nguyễn Hiến Lê. Cái chính là chúng tôi cảm thấy cùng thân phận. Tôi hay nói với Nguyễn Mộng Giác: Chúng tôi mà ở trong ấy, th́ cũng thành các anh. Mà các anh ở đây cũng thành chúng tôi. Hoàn cảnh quyết định hết!
—Không có các anh trong ấy (trong Nam) bao năm ǵn giữ, Hàn Mặc Tử chẳng hạn, rồi Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương… không thể trọn vẹn như ngày nay.
Hồi tôi c̣n học trung học phổ thông, tức là đầu những năm sáu mươi, trong sách giáo khoa văn học trích giảng, vẫn có những phần nhắc lại một cách sơ lược rằng ở các thành thị miền nam có một nền văn học của ḿnh – dù rằng nhắc để phê phán.
Năm 1959, Chế Lan Viên có bài đọc Hoa Đăng của Vũ Hoàng Chương, bài viết kèm theo nhiều trích dẫn. Trước đó trên báo Văn nghệ c̣n thấy in một lá thư, trong đó nhà văn Nguyễn Tuân thay mặt Hội văn nghệ mời các nhà văn miền Nam cùng dự Hội nghị các nhà văn châu Á tổ chức ở Ấn Độ cuối năm 1956. Lá thư có cái giọng thực sự chân thành và trân trọng “Thân gửi các bạn nhà thơ nhà văn miền Nam… Chúng tôi lấy làm sung sướng chuyển vào các bạn lời mời của Ban trù bị Hội nghị… Hội Văn nghệ Việt Nam trong khi cử ba bạn nhà văn nhà thơ miền Bắc sang dự Hội nghị cũng rất thiết tha mong mỏi được gặp các bạn để trao đổi những kinh nghiệm sáng tác của chúng ta.”
—Không có các anh trong ấy (trong Nam) bao năm ǵn giữ, Hàn Mặc Tử chẳng hạn, rồi Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương… không thể trọn vẹn như ngày nay.
Bước vào chiến tranh, những thông tin rộng răi kiểu đó không c̣n nữa. Tuy nhiên trong những năm ấy, nhiều tờ báo nhiều cuốn sách bên kia giới tuyến vẫn có mặt, sách báo ở Sài G̣n ở các thành thị miền Nam vẫn len lỏi trở đi trở lại trong câu chuyện của giới viết văn ở Hà Nội. Sự tiếp xúc xảy ra âm thầm lưa thưa lót đót, khi được khi chăng, nhưng không bao giờ chấm dứt. Và khởi đi từ những năm chống Mỹ, nó sẽ có lúc bồng bột cuộn lên mạnh mẽ (mà cũng là xô bồ tung tóe, nhếch nhác hơn, đầy trắc trở hơn) trong những năm hậu chiến và kéo măi đến ngày nay.
Tại sao những người viết văn năm ấy đang c̣n trẻ là bọn chúng tôi lại chú ư đến mảng văn học đó? Nếu có người hỏi như vậy, chính tôi cũng sẽ lúng túng và nói bừa rằng thích th́ làm vậy. Rồi người ta có thể kể người này có biết ǵ đâu, chẳng qua học đ̣i; người kia lúc nào cũng kín kín hở hở khoe rằng ḿnh đă đọc để làm dáng… Tất cả những cái đó có cả. Thế nhưng ngồi nghĩ lại ở đây c̣n có một cái ǵ sâu xa hơn mà dần dần trong thời gian nó mới bộc lộ. Có thể, vâng, tôi lờ mờ cảm thấy không chừng những con người đó và những cuốn sách đó sở dĩ có sức thu hút với bọn tôi là v́ những lẽ vừa xa xôi vừa thiết thực. Trong sự chờn vờn có có không không lẫn lộn, “nó” giống như một thách thức mà khi nghĩ tới, thúc đẩy chúng tôi làm tốt hơn công việc trước mắt.
Bằng cách đưa ra những trang viết khác hẳn chúng tôi đang viết, “nó “ gợi ư về những việc có thể làm, nhớ lấy rồi ra lúc khác sẽ làm. Ấy là không kể — điều này th́ chắc chắn chứ không c̣n nghi ngờ ǵ nữa –, “ nó “ mở ra cho chúng tôi một chân trời mới về kiến thức văn học và thức dậy những ham hố phiêu lưu.
Đại loại đó là sự ṭ ṃ của tuổi trẻ hoặc cái khao khát được sờ vào những trái cấm. Mà …tuổi trẻ bao giờ chẳng thế, trách chúng tôi th́ “trách cả nhân loại “! Hồi ấy trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, có cả một chương tŕnh dành cho người nghe ở các đô thị, trước tiên là văn nghệ sĩ Sài g̣n. Nhiều nhà văn tên tuổi như Tô Hoài, Xuân Diệu và các cây bút loại trí thức như Nguyễn Thành Long thường được mời viết cho chương tŕnh này. Muốn người ta viết th́ phải có cái cho người ta đọc. Tự nhiên là có nhu cầu phải t́m sách và có sự truyền tay sách vở. Trong bọn chúng tôi có anh Trúc Thông làm ở chương tŕnh đô thị của đài. Gần như cả giới văn chương trẻ Hà Nội biết điều đó. Cứ nghĩ rằng nếu lân la t́m đến ngôi nhà 16 Hồng Phúc sẽ được ngó ngàng vài số tạp chí từ trong kia mang ra, ḷng đă run rẩy và có phải đi xa mấy để đọc cũng chẳng ai thấy ngại.
Mấy năm gần đây một vài anh thích nhắc đến thơ Thanh Tâm Tuyền. Nhưng chính hồi ấy, chúng tôi biết đến nhiều hơn là một Thanh Tâm Tuyền ở văn xuôi. Một lần nào đó đi họp với các cụ nhà văn tiền chiến một bạn trẻ của tôi chợt phát hiện ra Nguyễn Tuân với Cát lầy của Thanh Tâm Tuyền. Vâng chính là nhà văn ấy, đang đọc cuốn sách ấy. Anh về kháo với anh em chúng tôi. Tự nhiên là chúng tôi cũng bị lôi cuốn bảo nhau ṃ mẫm đi t́m. Đến cả Nguyễn Khải cũng t́m. Cát lầy, theo Nguyễn Khải, ăn ở sự ma quái của ḿnh. Cũng như sau này Nguyễn Minh Châu nói rằng thích Thần tháp rùa của Vũ Khắc Khoan v́ ở đó có yếu tố tượng trưng. Cả hai nhà văn Hà Nội của tôi viết theo lối thực, nhưng ở chỗ riêng tư, các anh bao giờ cũng nhấn mạnh rằng một thứ văn xuôi thăng hoa mới là điều đáng ao ước, và chúng tôi cũng học theo các anh mà nói vậy. Ai mà chẳng muốn khác đi một chút so với những ǵ ḿnh đang có!
Sau Thanh Tâm Tuyền, thấy rộ lên trường hợp Nguyễn Thị Hoàng. Có lúc nghĩ lại thấy h́nh như truyện chẳng có ǵ, chỉ ăn ở cái lạ là mối t́nh của một cô giáo với một học tṛ, nó quá ư là “công”, là ngược với thói quen đạo đức c̣n nặng chất phong kiến của dân Hà thành. Nhưng nên nhớ hồi ấy, cả Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng không ai được đọc. Th́ cái chất mùi mẫn kia lại đâm có sức quyến rũ. Và trong sự chăm chú đọc, người ta nhận ra ở nó cả những yếu tố c̣n lờ mờ, nhưng đă có ở chính ḿnh. Sổ tay tôi c̣n ghi nhiều cuộc tṛ chuyện với Nguyễn Minh Châu, trong đó có những nhận xét của anh Châu về Ṿng tay học tṛ. Về nghệ thuật, anh Châu bảo “văn chương nó viết nhuyễn thật. Không phải là uốn éo đâu mà với nội dung ấy th́ phải viết kiểu ấy, nó mới nói hết được cái phức tạp của con người bây giờ “ ( xem Tṛ chuyện với Nguyễn Minh Châu, tạp chí Nhà văn số 4-2008). Ai đó nghĩ Nguyễn Minh Châu chuyên viết chiến tranh sao lại có thời giờ lưu ư phần nhân bản trong trang viết. Nhưng đúng anh Châu là thế, nên anh mới cắt nghĩa Ṿng tay học tṛ theo kiểu liên hệ Ṿng tay học tṛ với Dấu chân người lính của ḿnh “ Có một đoạn, Nguyễn Thị Hoàng tả cô Trâm này với tay Minh ra gieo đỗ, nói về sức sống trong ḷng đất. Tôi thấy ḿnh cũng gặp nó ở chỗ ấy, trong một đoạn tôi viết Xiêm đi lấy thóc và tự hỏi tại sao không lấy gạo mà lại lấy thóc?…”. Vậy là việc đọc Ṿng tay học tṛ với Nguyễn Minh Châu, là một hành động nghề nghiệp nghiêm chỉnh. Anh ngầm bảo rằng những tác phẩm của phía bên kia kích thích anh, như một lời mời gọi thú vị: “Đọc những tay này, tự nhiên ḿnh dậy lên một thứ thâm thù: Ḿnh cũng phải viết được cái ǵ để làm cho nó khiếp về ḿnh mới được.“