Theo như sự khác biệt của hai loại là: “Thường trú nhân trở về” không cần xin phép nhập cảnh, cho nên những điều luật cấm nhập cảnh không được áp dụng hai loại: Loại thứ nhất là “thường trú nhân trở về” (tức là returning LPR) và loại thứ hai là “thường trú nhân xin nhập cảnh.”
Thẻ xanh hoặc reentry permit, chỉ chứng minh rằng đương đơn là thường trú nhân. Nếu Sở Di Trú có chứng cớ là đương đơn bỏ rơi sự thường trú của họ, th́ vẫn bị từ chối nhập cảnh. Trong h́nh, nhập cảnh vào phi trường LAX ở California. (H́nh minh họa: David McNew/Getty Images)
Thường trú nhân nhập cảnh Hoa Kỳ được chia ra làm hai loại: Loại thứ nhất là “thường trú nhân trở về” (tức là returning LPR) và loại thứ hai là “thường trú nhân xin nhập cảnh.”
Sự khác biệt của hai loại là: “Thường trú nhân trở về” không cần xin phép nhập cảnh, cho nên những điều luật cấm nhập cảnh không được áp dụng.
Nhưng “thường trú nhân xin nhập cảnh” v́ đương đơn đang xin nhập cảnh, Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh. “Thường trú nhân trở về” chỉ cần có giấy thẻ xanh hoặc reentry permit.
“Thường trú nhân xin nhập cảnh” là “thường trú nhân trở về” đă vi phạm một trong những trường hợp sau đây:
1-Bỏ rơi sự thường trú của đương sự.
2-Đă vắng mặt ở Hoa Kỳ liên tục hơn 180 ngày.
3-Phạm pháp trong thời gian vắng mặt ở Hoa Kỳ, tức là phạm pháp ở ngoài Hoa Kỳ.
4-Rời khỏi Hoa Kỳ trong khi đang trong quá tŕnh xét xử để trục xuất.
5-Đă bị án những tội nêu trong phần 212(a)(2) của bộ luật di trú như: “Crimes of Moral Turpitude” như là ăn cắp (theft), gian lận (fraud), bạo động trong gia đ́nh (domestic violence)…; bị án hai tội trở lên và tổng cộng thời gian án tù năm năm trở lên; bị án việc buôn lậu ma túy; bị án măi dâm; bị án việc chuyên chở người bất hợp pháp vào Hoa Kỳ…
6-Có dự tính nhập cảnh Hoa Kỳ ngoài những cửa khẩu do nhân viên Sở Di Trú chính thức công nhận hoặc đă bị từ chối nhập cảnh Hoa Kỳ.
Như quư bạn đọc thấy trong trường hợp thứ hai, thường trú nhân vắng mặt ở Hoa Kỳ liên tục hơn 180 ngày (tức 6 tháng) sẽ bị coi là “thường trú nhân xin nhập cảnh” và Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh.
Cũng có thể v́ trường hợp thứ hai này mà chúng ta nghe nhiều người nói “thường trú nhân về Việt Nam dưới 6 tháng không cần reentry permit.” Nhưng câu nói đó không hoàn toàn đúng sự thật v́ thường trú nhân vắng mặt Hoa Kỳ dưới 6 tháng vẫn có thể bị Sở Di Trú không cho phép nhập cảnh.
Ngoài sự chứng minh đương đơn là thường trú nhân, đương đơn phải là người không có ư định bỏ rơi sự thường trú của ḿnh. Vấn đề chính là người thường trú nhân phải chứng minh rằng họ không bỏ rơi sự thường trú của họ và những yếu tố để chứng minh người thường trú nhân có bỏ rơi sự thường trú của họ hay không là: liên hệ gia đ́nh ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, tài sản ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, việc làm ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có phải chính thức được gọi là nhà hay không, lư do rời khỏi Hoa Kỳ, và thời gian ở ngoài Hoa Kỳ…
Thẻ xanh hoặc reentry permit, chỉ chứng minh rằng đương đơn là thường trú nhân. Nếu Sở Di Trú có chứng cớ là đương đơn bỏ rơi sự thường trú của họ, dù đương đơn có thẻ xanh đi dưới 6 tháng hoặc có reentry permit vẫn bị từ chối nhập cảnh.
Tôi đơn cử một vài trường hợp đă xảy ra.
Trường hợp thứ nhất là một thường trú nhân rời Hoa Kỳ 3 tháng, trở về lại Hoa Kỳ 1 tháng, rồi lại rời Hoa Kỳ 3 tháng nữa… Như vậy người thường trú nhân này ở ngoài Hoa Kỳ nhiều hơn là ở tại Hoa Kỳ, không có tài sản ở Hoa Kỳ, không có việc làm ở Hoa Kỳ, không khai thuế ở Hoa Kỳ. Khi người thường trú nhân này trở về Hoa Kỳ, Sở Di Trú có thể từ chối không cho người thường trú nhân này nhập cảnh và đưa ra ṭa để trục xuất, v́ người thường trú nhân này đă bỏ rơi sự thường trú của họ.
Trường hợp thứ hai là thường trú nhân có việc làm ở Hoa Kỳ, làm chủ một căn nhà ở Hoa Kỳ, khai thuế hằng năm ở Hoa Kỳ và có vợ và con ở Hoa Kỳ. Người thường trú nhân này đi Việt Nam 9 tháng mới trở về Hoa Kỳ. Dù là người thường trú nhân này đi quá 6 tháng và không có reentry permit, họ vẫn được nhập cảnh Hoa Kỳ v́ họ là thường trú nhân không có ư định bỏ rơi sự thường trú của họ.
Hai điển h́nh trên là cả hai người thường trú nhân đều rời Hoa Kỳ dưới 1 năm nhưng trường hợp thứ nhất đương sự bị đưa ra ṭa trục xuất, trường hợp thứ hai đương sự không bị đưa ra ṭa trục xuất như tôi đă tŕnh bày ở trên.
Theo luật di trú hiện nay, thường trú nhân rời Hoa Kỳ trên 1 năm, Sở Di Trú cho là người thường trú nhân đó đă bỏ rơi sự thường trú của họ. Nhưng có sự khác biệt giữa thẻ xanh và reentry permit là khi thường trú nhân có reentry permit (mà reentry permit thường có giá trị 2 năm), Sở Di Trú không thể dựa vào thời gian vắng mặt tại Hoa Kỳ khi reentry permit c̣n giá trị để xét người thường trú nhân đó có bỏ rơi sự thường trú của họ hay không. Sở Di Trú phải có lư do chính đáng, có bằng chứng cụ thể theo những yếu tố tôi đă tŕnh bày trên để chứng minh rằng người thường trú nhân đó đă bỏ rơi sự thường trú của họ, th́ khi đó Sở Di Trú mới có quyền đưa ra ṭa trục xuất.
Để tóm tắt lại, thường trú nhân rời Hoa Kỳ thường xuyên nên có reentry permit và không nên đi quá 6 tháng. Thêm vào đó, nên để ư những yếu tố Sở Di Trú dùng để chứng minh thường trú nhân bỏ rơi sự thường trú của họ.
Quư bạn đọc nên lưu ư, những điều tôi đă tŕnh bày trên chỉ nói về vấn đề thời gian rời Hoa Kỳ. Nhưng thời gian chỉ là một trường hợp trong sáu trường hợp nêu trên.
Nếu thường trú nhân bị án như nêu trong trường hợp thứ năm, dù rời Hoa Kỳ một ngày vẫn bị coi là “thường trú nhân xin nhập cảnh” và Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh với người thường trú nhân đó.
Hiện nay Sở Di Trú chấp hành luật di trú hết sức khắt khe. Những thường trú nhân có tiền án không nên rời khỏi Hoa Kỳ trong thời gian khó khăn này. Nếu v́ t́nh cảnh bắt buộc phải rời khỏi Hoa Kỳ, nên liên lạc với một luật sư am tường về luật di trú để t́m hiểu sự lợi hại khi nhập cảnh trở lại Hoa Kỳ. [qd]