VietBF - View Single Post - Trang của lính
View Single Post
Old 03-06-2020   #539
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,186
Thanks: 21,586
Thanked 37,415 Times in 12,686 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default CÁC TRẬN ĐÁNH NĂM 1975

( Trích sách “Giải Mă Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh )

CÁC TRẬN ĐÁNH NĂM 1975, (19) TRẬN KHÁNH DƯƠNG, NHỮNG LỜI BỊA ĐẶT TỒI BẠI



Sổ tay chiến trường của Thiếu tá Phạm Huấn vào ngày 22-3-1975 :

“Rừng núi cao nguyên thật lạnh. Nhưng họ cũng đă quen sau những năm tháng dài trấn đóng và hành quân tại Miền Bắc Kontum trước đây. Các chiến sĩ Trung đoàn 40 và 2 tiểu đoàn Địa phương quân thiện chiến của Tiểu khu Phan Rang, luôn luôn trong t́nh trạng báo động trên chiến tuyến phía Tây mặt trận Khánh Dương. ( Thực ra chỉ có 1 tiểu đoàn ĐPQ nhưng đă chết hết một nửa sau 5 ngày tử chiến với quân CSVN từ Ban Mê Thuột ).

“Đúng 7 giờ 30 sáng, một trận địa chấn kinh hồn. Hàng ngàn, nhiều ngàn trái đại bác của địch nă vào như “bắn hiệu lực” trên tuyến pḥng thủ. Sau đó là chiến xa và biển người.

Sư đoàn F 10 Cọng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng với chiến xa, pháo binh quyết rửa cái nhục chiều ngày hôm qua. Khoảng 40 phút, các lực lượng pḥng thủ phía Tây Khánh Dương gồm gần nửa quân số Trung đoàn 40, Sư đoàn 22 Bộ binh và 2 tiểu đoàn Địa phương quân Phan Rang, tan ra từng… mảnh nhỏ.” ( Phạm Huấn, Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, trang 199 ).

Lúc đó Tiểu đoàn 231/ĐPQ đang nằm trong ṿng đai pḥng thủ BCH quận Khánh Dương và Tiểu đoàn 2/40 BB cách quận 5 cây số về hướng BMT. Nghĩa là Quận lỵ Khánh Dương bị tràn ngập từ phía BMT và từ trong rừng phía Nam BCH Chi khu. Thế nhưng sau đó Phạm Huấn lại ghi tiếp :

“ 10 giờ, Chi khu Khánh Dương di tản v́ bị Việt Cộng tràn ngập (!). Đây là màn dàn cảnh của Quận trưởng Khánh Dương : Cho em út thuộc Tiểu đoàn 272 Địa phương quân Khánh Ḥa bắn súng cối vào hàng rào pḥng thủ quận rồi bỏ chạy. Tiểu đoàn 63 pháo binh sau đó, vào quận kéo 2 khẩu đại bác 105 ly đi, không thấy có Việt Cọng. Tướng Phú ra lệnh truy tố Quận trưởng Khánh Dương, nhưng sau đó lại bỏ (!)…”

Nghĩa là vào lúc 10 giờ sáng ngày 22-3-1975 Chi khu Khánh Dương vẫn c̣n nguyên sau khi đă tan ra từng mănh nhỏ vào lúc 7 giờ 30 sáng !?.Đây chỉ là suy diễn bệnh hoạn của Thiếu tá Huấn từ chuyện kéo 2 khẩu súng :

Nguyên do khi quân CSVN pháo vào phi trường và BCH/Chi khu th́ cũng là pháo vào 2 khẩu 155 ly ( không phải 105 ly như tài liệu của Phạm Huấn ). Đây là 2 khẩu pháo duy nhất được đặt trong ṿng rào BCH/Chi khu. Cho nên khi vừa dứt pháo th́ Chi khu cho lệnh di tản bởi v́ toàn Chi khu bị tràn ngập mà tại quận Khánh Dương không c̣n dân mà cũng không c̣n lính. Các pháo thủ nhảy theo các loại xe trong chi khu để di tản. Riêng ông trung đội trưởng pháo binh cũng lên xe jeep dông theo đoàn di tản.

Đến 9 giờ ngớt pháo, t́nh h́nh có vẻ yên ắng th́ cả đám mới phát hiện ra 10 khẩu 105 ly được kéo về M’Drak an toàn, riêng ông trung đội trưởng Pháo binh 155 ly bỏ chạy mà chưa phá hủy 2 khẩu súng. Bắt buộc ông phải mon men trở lại để c̣n kịp th́ kéo súng đi, c̣n không kịp th́ hủy súng chứ không sẽ bị ra ṭa.

Hỏi thăm những người chạy sau cho biết quân CSVN từ Ban Mê Thuột đang c̣n đánh nhau với 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 40 BB cách BCH Chi khu 5 cây số, và Tiểu đoàn 231 đang c̣n cầm cự trên đồi sau lưng BCH Chi khu cho nên sĩ quan trung đội trưởng của 2 khẩu 155 ly đem GMC về kéo súng. Hai khẩu 155 được kéo về đầu đèo M’Drak an toàn. Lúc đó BCH hành quân của Sư đoàn 23 BB tại đầu đèo M’Drak mới báo về BTL Quân khu 2 là cho tới 10 giờ sáng quân CSVN cũng chưa tới BCH Chi khu Khánh Dương.

Những ông quan “ngồi lê đôi mách” ở hậu phương

Trong khi sự thật là bắt đầu từ 7 giờ sáng, cứ thêm 1 phút là thêm xác chết của binh lính của Trung đoàn 40 BB và Tiểu đoàn 231/ĐPQ ngă xuống tại chiến trường phía Tây BCH Chi khu Khánh Dương. Sở dĩ quân CSVN chưa vào được BCH Chi khu là v́ đang bị chận lại bởi các tiểu đoàn Bộ binh của Trung đoàn 40 BB và Tiểu đoàn 231/ĐPQ.

Di hại của trí tưởng tượng của Phạm Huấn là người đời đọc sách của ông ta luôn luôn có ấn tượng không tốt về tinh thần làm việc của quân lực VNCH, toàn là cấp trên lừa cấp dưới, cấp dưới dối trá cấp trên, không có luật lệ, không có kỷ cương, muốn báo cáo sao th́ báo, muốn truy tố ai th́ truy tố, chẳng cần bằng chứng, chẳng cần nhân chứng.

Có thể nào có chuyện báo cáo láo và truy tố ẩu hay không? Không thể nào có được, bởi v́ hệ thống chỉ huy của quân đội của bất cứ nước nào cũng có những biện pháp ngăn ngừa t́nh trạng này:

Theo huấn thị điều hành căn bản của Bộ TTM/QL.VNCH th́ mỗi trung tâm hành quân ( cấp trung đoàn trở lên hoặc cấp chi khu trở lên ) phải có một cuốn sổ lớn để ghi lại diễn tiến từng giờ từng phút mọi biến cố xảy ra trong khu vực trách nhiệm, bắt buộc phải ghi đúng ngay lúc sự việc đang xảy ra, nhằm tránh trường hợp có xảy ra lỗi lầm nhưng chối lỗi. Quyển sổ đó được gọi là “sổ nhật kư hành quân”.

Không thể có chuyện tẩy xóa hay viết lại những trang ghi chép trong sổ nhật kư hành quân bởi v́ mỗi trang giấy trắng của quyển sổ đều được đóng dấu giáp lai (giữa hai trang giấy) và trên mỗi con dấu đều có chữ kư của Đơn vị phó, nhằm tránh t́nh trạng viết lại trang nhật kư hoặc ngụy tạo bằng một trang giấy khác. Sở dĩ phải do ông đơn vị phó kư là để đề pḥng trường hợp chính đơn vị trưởng phạm lỗi rồi sai nhân viên xé trang cũ, viết trang khác để chạy tội.

Thiếu tá Huấn chỉ là một nhà báo được học căn bản về quân sự nhưng không rành về chỉ huy tham mưu cho nên ông có rất nhiều tưởng tượng của những người không rành về quân đội. Ngay việc ông gọi quyển sổ tay ghi chép của ông là “Nhật kư hành quân” cũng không đúng; sổ của ông được gọi là “sổ tay chiến trường” của phóng viên báo chí. Riêng chuyện Khánh Dương tan nát rồi sau đó Khánh Dương c̣n nguyên đủ chứng tỏ Phạm Huấn ghi lại không đúng thời gian, chuyện xảy ra trước đựợc ghi lại sau trong khi chuyện xảy ra sau được ghi trước.

Do v́ không sắp đặt theo thứ tự thời gian và không ghi đầy đủ diễn tiến của t́nh h́nh cho nên Phạm Huấn bị ảnh hưởng bởi trí tưởng tượng vô tư của những người ngồi trên các quán cà phê vĩa hè. Trong khi con người ta đang chết từng giờ từng phút trên chiến trường th́ mấy quan ngồi tại hậu phương tha hồ tưởng tượng. Nội chuyện phi trường KD bị tấn công trở thành không bị tấn công, và Tiểu đoàn 231/ĐPQ biến thành Tiểu đoàn 272/ĐPQ là những điển h́nh .

Ngoài ra “2 tiểu đoàn thiện chiến của Phan Rang” mà Phạm Huấn viết cũng chỉ là bịa đặt. Sự thực Tiểu Đoàn 250/ĐPQ của Phan Rang đă bị đánh tan trong ngày 12-3, tức là trước đó 10 ngày. Khi Tiểu đoàn 231/ĐPQ lên đường đi Khánh Dương vào sáng sớm ngày 14-3 th́ nguyên thành phố Phan Rang như một đám tang : Gia đ́nh, thân nhân của Tiểu đoàn 250 đứng dọc theo Quốc lộ 1 để đón các chuyến xe từ Nha Trang tới, mong t́m xem có thêm người nào sống sót được trở về hay không.

C̣n “tiểu đoàn thiện chiến 231/ĐPQ” th́ trong ngày 22-3 chỉ là 180 “tàn binh” mệt mỏi và xuống tinh thần sau 5 ngày tử chiến với quân CSVN từ Ban Mê Thuột. Lẽ ra họ phải được đưa về tuyến sau để nghỉ ngơi và lấy lại hồn, nhưng họ vẫn phải tiếp tục đứng trên tuyến đầu bởi v́ các quan ngồi tại hậu phương cho rằng họ là “2 tiểu đoàn thiện chiến” c̣n nguyên khí thế ! ( hai tiểu đoàn khoảng 1.000 người ).

Nhưng rồi chỉ trong ṿng 40 phút tự nhiên 1.000 chiến binh của Sư đoàn 22 BB và 1.000 chiến binh thiện chiến của Phan Rang “tan ra… từng mảnh nhỏ”, không thấy nói đánh như thế nào và tan như thế nào (sic).

Lời bịa đặt dựa theo trí tưởng tượng bệnh hoạn

Sự vô tâm của Thiếu tá Phạm Huấn càng nặng hơn nữa khi ông ghi chuyện này vào trong tác phẩm của ông với đánh giá riêng của cá nhân ông : “Trong những ngày sôi bỏng của mặt trận Khánh Dương, Nha Trang, hôm ông Quận trưởng Khánh Dương cho lính địa phương quân bắn súng cối vào gần hàng rào pḥng thủ, rồi báo cáo quận bị Việt cộng tràn ngập, và rút lui. Tướng Phú giận lắm, định cách chức Tỉnh trưởng Nha Trang và truy tố Quận trưởng Khánh Dương ra ṭa án mặt trận.

Nhưng rồi buổi tối, bà Đại tá Lư Bá Phẩm, vợ Tỉnh trưởng Nha Trang, tới gặp bà Phú… một lát, Tướng Phú lại đổi ư kiến”.

Đây là lối suy luận của những kẻ ngồi lê đôi mách trên vĩa hè chứ không phải là của một thiếu tá thuộc binh chủng Nhảy dù từng tốt nghiệp trường vơ bị Đà Lạt. Nếu quả thật ông Quận trưởng Khánh Dương có làm chuyện đó th́ Tỉnh trưởng Lư Bá Phẩm sẽ là người có trách nhiệm truy tố ông quận trưởng ra trước ṭa án binh chứ đâu phải là ông Tướng Phú. Bởi v́ ông Quận trưởng thuộc quyền quản lư của Bộ Nội vụ chứ không phải của Bộ Quốc pḥng.

C̣n muốn cách chức Tỉnh trưởng th́ chỉ có Tổng thống hay Bộ trưởng bộ Nội vụ bởi v́ những Tỉnh trưởng của những tỉnh quan trọng do Tổng thống bổ nhiệm, những tỉnh nhỏ do Thủ tướng ( Kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ ) bổ nhiệm. Trong Vùng 2 có 5 ông Tỉnh trưởng do Tổng thống bổ nhiệm, đó là các ông Hoàng Đ́nh Thọ, Lư Bá Phẩm, Trần Văn Tự, Ngô Tấn Nghĩa và Nguyễn Hợp Đoàn.

Vả lại từ ngày 17-3-1975 Tướng Phú đă giao Chi khu Khánh Dương thuộc quyền chỉ huy của Đại tá Đức, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, vậy nếu có kỷ luật th́ kỷ luật Đại tá Đức chứ sao lại kỷ luật Đại tá Phẩm? Không lẽ Phạm Huấn không biết về hệ thống chỉ huy trong quân đội ?

Đúng là lúc 10 giờ sáng ông Tướng có nổi giận đ̣i truy tố ông Chi khu trưởng bởi v́ ông nhận được báo cáo là Chi khu KD c̣n nguyên. Nhưng sau đó ông Tướng bỏ qua bởi v́ người ta tiếp tục báo cáo cho ông rằng 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 40 và Tiểu đoàn 231/ĐPQ đă tan ră. Bộ chỉ huy Sư đoàn 23 của Đại tá Lê Hữu Đức và BCH Trung đoàn 40 BB của Trung tá Nguyễn Thành Danh cũng rút khỏi Khánh Dương trước Thiếu tá B́nh. Vậy th́ lấy bằng cớ nào mà ông Tướng có thể truy tố ông Thiếu tá B́nh ?

Chuyện đ̣i cách chức Đại tá Phẩm v́ tội của ông Quận trưởng B́nh là chuyện phi lư. Rồi chuyện bà Phẩm đi gặp bà Phú để chạy tội cho ông B́nh lại càng vô lư hơn, rồi ông Tướng Phú cho vợ nhận tiền của bà Phẩm để tha cho ông B́nh lại càng vô lư hơn nữa. Mọi chuyện xảy ra trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các nơi đều di tản, loạn lạc. Ai hơi đâu mà chạy tiền giữ chức? Nhất là chức quận trưởng của cái quận đă lọt vào tay quân Cọng sản?!

Trong khi Thiếu tá Phạm Huấn là tay chân thân tín của Tướng Phú đă nói ra th́ ai mà không tin? Giờ đây Tướng Phú đă chết th́ Huấn có quyền phịa vô tội vạ v́ biết mọi người không ai c̣n mặt mũi nào mà phản bác. Nhưng Huấn không hề nghĩ tới rằng vợ con của những nạn nhân oan ức sẽ phải đau ḷng suốt đời v́ những bịa đặt hạ cấp của ông ta.

BÙI ANH TRINH

Chú thích của người viết

Năm 1996 tôi đến Mỹ theo diện tị nạn chính trị. Việc đầu tiên là tôi t́m tài liệu để giải mă trận Khánh Dương mà chính tôi có tham dự dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Thời đó, 1996, th́ quyển sách “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975” của Thiếu tá Phạm Huấn là một tài liệu ăn khách nhất v́ tính cách khả tín của nó.

Nhưng tôi hoàn toàn thất vọng khi lật từng trang của tài liệu này. Tất cả chỉ là những suy diễn bệnh hoạn dựa trên một số những ghi chép “không đầu không đuôi” của Phạm Huấn. Ngoài ra ông ta cũng đă ranh mănh dựa theo những tài liệu nổi tiếng thời sau 1975 như sách Đại Thắng Mùa Xuân của Văn Tiến Dũng, sách Decent Inteval của Frank Snepp, sách The Final Collapse của Cao Văn Viên, và sách The Palace File của Nguyễn Tiến Hưng.

Điển h́nh nhất là chuyện bịa đặt trắng trợn về Tiểu đoàn 231/ĐPQ của chúng tôi. Cũng may là kẻ gian không được thông minh cho nên ông ta nói trước hở sau, cái sau đá cái trước. Do đó nếu muốn chứng minh th́ chỉ cần trích dẫn những ǵ do chính ông ta viết.

Không phải là tôi chủ tâm lật mặt Thiếu tá Huấn để rửa mặt cho chúng tôi, nhưng tôi muốn nhân vụ này để làm đầu cầu bác bỏ những lời vu oan độc địa của Phạm Huấn đối với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Chuẩn tướng Phạm Duy Tất…

Ngoài ra tôi cũng không muốn những lời bịa đặt tồi bại lại được hậu thế lấy làm căn bản cho các tài liệu lịch sử nói về các trận đánh cuối cùng của Quân đoàn II. Con cháu đời sau đi t́m hiểu sự thực về VNCH qua tài liệu của Phạm Huấn sẽ thấy chế độ VNCH là một chế độ thối nát. Ở phía trước các ông chồng làm tư lệnh quân đoàn, làm tỉnh trưởng; c̣n ở phía sau các bà vợ ăn tiền chạy chọt ! Đúng như những ǵ CSVN đă dạy cho học sinh Việt Nam (sic).

Có nhiều người đă cản tôi lật mặt Phạm Huấn với lư do lịch sử đă sang trang (sic). Tôi có thể bỏ qua những ǵ đă bị chôn lấp bởi thời gian, nhưng tôi không chấp nhận lịch sử viết sai về chúng tôi, về chế độ VNCH. Giờ đây tôi chỉ nói về những bịa đặt hạ cấp do chính Phạm Huấn viết ra trong sách của ông ta chứ tôi không đưa ra những nhận xét về tư cách tồi tệ của Phạm Huấn do những nhân vật trong cuộc kể lại cho báo chí.



CÁC TRẬN ĐÁNH NĂM 1975, (20) TRẬN LIÊN TỈNH LỘ 7, LỆNH TRIỆT THOÁI

( Trích sách “Giải Mă Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh )

Tại sao phải bỏ Pleiku, Kontum ?

– Tài liệu của CIA :

Ngày 16-8-1974, Tư lệnh quân đội HK tại VN John Murray họp buổi họp chót với Tướng Cao Văn Viên và một số tướng lănh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, tùy theo mức viện trợ quân sự của Mỹ, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2, và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Sau bổi họp này th́ John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ ( Frank Snepp, Decent Interval, 1977, trang 95 )..

– Tài liệu của Cơ quan Vện trợ Quân sự Hoa Kỳ ( DAO, hậu thân của MACV ) :

Nếu mức viện trợ là 750 triệu th́ khả năng tác chiến của quân VNCH : Không. Khả năng kiểm soát vùng sôi động của quân VNCH : Không. Khả năng tấn công của quân VNCH : Không.

Nếu mức viện trợ quân sự là 600 triệu th́ quân VNCH chỉ c̣n khả năng tác chiến tại Vùng 4 và Sài G̣n nếu bỏ hẵn các vùng khác.

( Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, 1986, phụ lục C trang 753, xem ảnh đính kèm cuối bài viết ).

– Tài liệu của Tướng Cao Văn Viên :

Ngày 11-3-1975 Tướng Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó tŕnh bày ư định muốn cắt bỏ bớt lănh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975 :

“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đă suy xét thận trọng. H́nh như Tổng thống Thiệu đă ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”

“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” ( Cao Văn Viên, The Final Collapse, 1983, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131 ).

“…VNCH không c̣n hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là HK không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với HK, cuộc chiến Việt Nam đă kết thúc” ( trang 132 ).

Những lời cáo buộc tồi bại

Những đoạn tài liệu trích dẫn trên đây đă giải thích rơ v́ sao Tổng thống Thiệu phải quyết định bỏ Kontum-Pleiku. Cả ba tài liệu này đều được đưa ra công chúng trước năm 1986. Nhưng v́ thời đó các phương tiện truyền thông của người Việt tị nạn do Mỹ tài trợ muốn hướng sự oán hận mất nước vào cá nhân Tổng thống Thiệu ( Để quên đi tội bỏ rơi của Mỹ ), cho nên tất cả sách báo đều giả lơ như không biết v́ sao Nguyễn Văn Thiệu lại quyết định bỏ Cao Nguyên. Thậm chí Đại tá CIA Lê Khắc Lư c̣n tuyên truyền rằng Tổng thống Thiệu bỏ cao nguyên để “tháu cáy” Mỹ.

Trích bài viết “Tổng thống Thiệu và cuộc triệt thoái cao nguyên năm 1975” của tác giả Trọng Đạt :

“Cách đây khoảng nửa năm, trong một lần tiếp xúc Đại tá Lê Khắc Lư có nói ông nghi ngờ TT Thiệu rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại và ông có gợi ư tôi viết về chủ đề này ….Đại Tá Lư nói … ông đă học nguyên tắc chiến thuật (tactical) căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ “high ground” (vùng cao) để chế ngự các vùng đất chung quanh”.

“Nhưng khi giảng, “thầy” cũng có nói nguyên tắc này cũng áp dụng cho “chiến lược” (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi 1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng quyết định bỏ cao nguyên là sai lầm. Rồi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên để gọi là “tái chiếm Ban Mê Thuột” là chuyện quá khó nếu không nói là “không tưởng”.

“Tóm lại TT Thiệu đă sai lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột”.

Chỉ có những người ngoài quân đội mới bị mắc bịp, chứ bất cứ ai đă từng qua trường Hạ sĩ quan hay trường Sĩ quan đều biết rằng đây là một nguyên tắc sơ đẵng của chiến thuật ( Không phải là chiến lược ). Bất cứ một người Hạ sĩ quan tiểu đội trưởng nào cũng phải biết chọn địa thế đóng quân cho tiểu đội là vùng đất cao khống chế địa thế xung quanh. Đặt một khẩu đại liên hay trung liên cho tiểu đội cũng phải tôn trọng nguyên tắc này. Và xưa nay người ta lập đồn bót đều lập trên cao chứ không ai lựa dưới trũng.

Trong khi đó Đại tá Lư lại nói cho các nhà báo rằng Tổng thống Thiệu bỏ trên cao chạy xuống thấp ( triệt thoái cao nguyên ) rồi từ dưới thấp đánh lên cao ( tái chiếm BMT ) là một sai lầm chiến lược… (!)

Có lẽ các ông tướng dạy môn chiến lược cho Lê Khắc Lư tại trường Cao Đẵng Quốc Pḥng cũng phải ph́ cười. Bởi v́ đối với chiến lược th́ giữ địa bàn trên cao sẽ thất thế hơn nếu bị triệt tiếp tế ( Bị bao vây cô lập ). T́nh thế của Quân đoàn II vào tháng 3 năm 1975 đă trở thành bất lợi khi quân CSVN đă triệt hết mọi đường tiếp tế cho cao nguyên.

Một thí dụ điển h́nh là tháng 1 năm 1954 quân Pháp trấn giữ cao nguyên Pleiku với 4 liên đoàn bộ binh là Binh đoàn 100 Lê Dương ( Mới từ chiến trường Triều Tiên về Việt Nam ), Liên đoàn 11 Nam Việt, Liên đoàn 41 Sơn Cước, và Liên đoàn 42 Sơn Cước. Trong khi đó B́nh Định và Phú Yên thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh từ năm 1945 cho nên tuyến tiếp tế cho Pleiku phải từ Lào qua. C̣n Quốc lộ 14 đă bị quân Việt Minh chặn tại Dak Nong.

Tháng 6 năm 1956, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân của Sư đoàn 325 CSVN đánh Lào chặn đường tiếp tế cho Pleiku. Tướng Navard cho lệnh rút Binh đoàn 100 từ An Khê, ( giữa B́nh Định và Pleiku ) về giữ Pleiku. Ngày 24-6-1954 trên đường về Peiku Binh đoàn 100 Lê Dương bị phục kích tại đèo Mang Yang và bị đánh tan. Đồng thời quân CSVN từ B́nh Định tiến lên An Khê tấn công Liên đoàn 11. Liên đoàn 11 Nam Việt cũng bị đánh tan.

Rơ ràng quân Pháp ở trên cao nhưng hoàn toàn thất thế v́ bị triệt tiếp tế. Trong trường hợp Tướng Thiệu rút 1 Sư đoàn Bộ binh, 7 Liên đoàn BĐQ ( Tương đương 2 sư đoàn ), 2 trung đoàn tăng và 1 trung đoàn pháo từ Pleiku, Kontum để tái chiếm Ban Mê Thuột cũng là nằm trong tính toán là quân VNCH đông hơn, vũ khí mạnh hơn sẽ áp đảo được quân CSVN. Bằng chứng năm 1972 chỉ cần Sư đoàn 23 BB đủ đánh tan 3 sư đoàn Bắc Việt tại Kontum.

Lê Khắc Lư có bằng Cao Đẵng Quốc Pḥng mà cả đời chẳng bao giờ viết một bài phê b́nh về chiến thuật, chiến lược…! Lại đi “mớm” chiến thuật chiến lược cho các nhà báo để súi họ viết về chiến thuật chiến lược của Tướng Thiệu trong khi Tướng Thiệu được phóng viên chiến trường nổi tiếng thế giới là Oriana Fallaci đánh giá là 1 trong 10 tướng tài giỏi nhất thế giới.

Tại sao không cho Mỹ biết ?

Tài liệu của CIA : “Lư cho Nicol biết ngày mai 14/3 tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lư hứa với Nicol có tin ǵ sau khi Phú đi họp về Lư sẽ cho hay” ( CIA và Các Ông Tướng, Bản dịch của Trần B́nh Nam ).

Đại tá Lư là một điệp viên của CIA, được Tướng Cao Văn Viên đưa vào làm tham mưu trưởng của Tướng Phú. Lần này Tổng thống Thiệu muốn đánh lạc hướng theo dơi của CIA nhưng không ngờ mật thám của CIA đứng ngay sau lưng Tướng Phú.

Tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, Tùy viên báo chí của Tướng Phạm Văn Phú : “Để bảo mật cho chuyến đi của ông Thiệu, nên đă không có một chuẩn bị nào tiếp đón ông và phái đoàn. Ngay cả một cái thang cao dùng cho loại máy bay lớn DC.6, DC.4 cũng không có.

Chiếc “biệt thự bay” tiến vào chỗ đậu. Một chiếc xe jeep được lái tới sát bên. Ông Thiệu và các tướng Khiêm, Viên, Quang lần lượt… “tụt” bằng đít khỏi chiếc DC.6 rồi bước lên mui xe !” ( Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, trang 80 ).

Để giấu ai mà các nhà lănh đạo VNCH phải khổ sở như vậy ? Chắc chắn không phải để che mắt báo chí hay CSVN, bởi v́ che mắt báo chí hay CSVN th́ không cần giấu CIA. Nhưng đằng này giấu cả CIA th́ có nghĩa là không cho Mỹ biết.

Vấn đề c̣n lại là tại sao không cho Mỹ biết ? Câu trả lời là nếu Mỹ biết th́ những người Miền Núi ở Tây Nguyên sẽ biết, và họ sẽ không để yên cho quân đội VNCH bỏ rơi họ.

Ngày nay lịch sử c̣n lại lời chứng của Tướng Phạm Duy Tất : Chuẩn tướng Tư lệnh phó Quân đoàn 2 Trần Văn Cẩm hỏi : “ C̣n các tỉnh trưởng, lực lượng địa phương và dân chúng có tổ chức cho họ rút không?”. Phú trả lời: “Theo lệnh ông Thiệu, bỏ lực lượng này lại, không được thông báo cho các tỉnh trưởng, cứ để họ tiếp tục chống giữ. Khi chúng ta rút xong, ai biết th́ biết. Địa phương quân toàn là người Thượng th́ trả chúng về với cao nguyên” ( Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, Việt Nam thư quán ).

Dĩ nhiên khi Tổng thống Thiệu ra lệnh bỏ người Thượng lại Cao Nguyên th́ ông và các tướng Khiêm, Viên, Quang, Phú đều biết rằng lực lượng địa phương là 45 ngàn cựu Biệt kích Mỹ ( CIDG, Dân Sự Chiến Đấu ). Sau khi quân Mỹ rút đi th́ 45 ngàn quân này trở thành Địa phương quân và Biệt động quân Biên pḥng. Danh tính 4 liên đoàn Biệt động quân Biên pḥng của Quân khu II xuất thân từ Biệt kích Mỹ là Liên đoàn 21, Liên đoàn 22, Liên đoàn 24, và Liên đoàn 25 BĐQ.

Người Mỹ và lực lượng chiến đấu người Miền Núi có quan hệ với nhau như thế nào mà Tướng Thiệu không muốn cho người Mỹ biết ? Tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng ( sau nhiều cuộc phỏng vấn cựu Tổng thống Thiệu ) cho biết :

“…năm 1960 khi CIA ( Cơ Quan T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ ) và Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ gởi người lên Cao Nguyên tổ chức và vơ trang dân Thượng chống CS Bắc Việt. Người Mỹ cung cấp dược phẩm, súng đạn, thực phẩm, và xử sự như giới trung gian giữa người Việt và người Thượng…” ( Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập trang 444 ).

“Để bảo vệ an ninh cho cuộc rút lui này, ông Thiệu ra lệnh bảo mật tối đa, để các lực lượng địa phương, phần lớn là dân Thượng, không biết trước về vụ này….Ngay sau khi 200 chiếc xe vận tải đầu tiên rời khỏi Pleiku đă được tung ra khắp tỉnh. Đám người Thượng thấy ḿnh bị bỏ rơi bèn quay mũi súng về đoàn quân đang tháo lui…” ( trang 449 ).

Vậy th́ đă rơ, nguyên nhân của việc tạm giấu người Mỹ là v́ người Mỹ có trách nhiệm với các dân tộc Miền Núi cho nên họ sẽ không chấp nhận chuyện bỏ rơi người Miền Núi, chắc chắn họ sẽ thông báo cho các lực lượng cựu Biệt kích Mỹ biết để họ tự lo cho dân tộc của họ. Dĩ nhiên một khi các lực lượng vũ trang của người Miền Núi tự lo th́ chỉ c̣n có cách là bắt giữ các sĩ quan và công chức người Kinh làm con tin, để làm áp lực buộc chính phủ Sài G̣n không được bỏ rơi họ.

Cái chết của nhà báo Paul Leandri

Tại Sài G̣n, một nhà báo nổi tiếng của Pháp là Paul Leandri đă nhanh chóng loan tin tàn sát cấp chỉ huy người Kinh ra toàn thế giới cho nên ông ta bị bắt ngay và bị bắn chết trong một đồn cảnh sát. Cơ quan CIA ( Frank Snepp ) loan tin rằng ông ta bị bắn do chạy ra một chiếc xe toan trốn khỏi nơi bị giam. Tuy nhiên không ai tin rằng một nhà báo gạo cội lại ngu xuẩn đến như vậy. Chính tin tức mà ông muốn loan đă hại ông ta :

Sở dĩ Leandri bị giết bởi v́ trong khi mà 3 Liên đoàn Biệt Động Quân gốc Biệt kích Mỹ thanh toán các cấp chỉ huy người Kinh th́ cùng lúc đó, tại Sài G̣n, cơ quan CIA đang cho th́ hành kế hoạch di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam.

Nhưng tin tức của Paul Leandri nếu được lan truyền sẽ tạo thành một làn sóng tâm lư, rủ nhau thanh toán người Mỹ một khi các quân nhân Việt Nam thấy người Mỹ bỏ chạy. Nhất là các quân nhân thuộc Lực Lượng Đặc biệt Việt Nam; họ sẽ suy ra ai đă lập ra Lực lượng Biệt kích Mỹ mà rốt cuộc th́ đồng đội của họ phải nhận lănh mọi sự trả thù của các quân nhân người Thượng. Và nay tới phiên người Mỹ rút chạy th́ họ cũng sẽ bị thanh toán. Đó là ngón đ̣n dành cho kẻ phản bội.

Theo biên bản xét nghiệm tử thi của bệnh viện Grall th́ Leandri bị bắn bằng một phát đạn kê sát mang tai bắn lên. Và theo một bài tùy bút của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích th́ Leandri bị Đại tá cảnh sát Phạm Kim Qui bắn chết rồi bắt Việt Tấn Xă phải loan tin theo như báo cáo của đồn cảnh sát.

Cũng theo sách của Frank Snepp th́ giám đốc CIA tại Sài G̣n là Polgar đă được Đại sứ Pháp gọi đến Ṭa đại sứ Pháp vào giữa khuya hôm đó để “nói chuyện phải quấy”. Điều này chứng tỏ CIA là người chịu trách nhiệm về cái chết của Leandri chứ không phải là Đại tá Phạm Kim Qui. Ông Qui chỉ là người thừa hành.

Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	image.jpg
Views:	0
Size:	173.3 KB
ID:	1541356   Click image for larger version

Name:	image (1).jpg
Views:	0
Size:	67.8 KB
ID:	1541357  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
lavu (08-20-2020), luyenchuong3000 (08-16-2020), phokhuya (03-08-2020), SlyGuy (08-18-2020), trungthu (08-21-2020)
 
Page generated in 0.10543 seconds with 11 queries