VietBF - View Single Post - 30-4-1975 Sau 42 năm sống trong ḥa b́nh vẫn chưa có cách nào chung sống trong t́nh anh em ruột thịt
View Single Post
  #1  
Old  vnch 30-4-1975 Sau 42 năm sống trong ḥa b́nh vẫn chưa có cách nào chung sống trong t́nh anh em ruột thịt
Trải qua 42 năm sau chiến tranh những kư ức chiến tranh vẫn không quên trong tôi. Sáng 30-4-75, tôi dựng xe honda ở bờ sông Sài G̣n, đứng nh́n chiếc tàu hải quân của VNCH cuối cùng rời bến. Người ta bỏ lại xe hơi, xe honda, xuống tàu thong thả như một chuyến du lịch. Trong đầu tôi không có một chút xíu nào nghĩ rằng đó là lần họ vĩnh viễn rời đất nước. Thế nhưng không hiểu sao tôi lại đứng như trời trồng, không theo họ. Làm một cuộc viễn du cũng thích thú lắm chứ. Nếu như đất nước sau nầy tốt, đối xử tử tế th́ ḿnh lại trở về, có sao đâu. Cái ân hận nầy làm cho tôi ray rứt măi, nhất là những ngày đói khát, thất tha thất thểu ở Sài g̣n… Những đêm tập trung “ngụy quân, ngụy quyền” ra phường hội họp, ngồi dưới đất nghe người thắng trận trong rừng mới ra, mang dép râu, đội nón tai bèo, xối xả chửi vào mặt người ngồi nghe là thứ bán nước, theo chân đế quốc, “ngụy” tặc. Thấm đau cho cái ngu si không biết chọn lựa của ḿnh, để bây giờ phải lỡ khóc lỡ cười.


Tôi lên xe honda chạy qua Khánh Hội, người ta đang mở kho vơ vét. Tôi dừng xe ngồi nh́n. Một tay thuộc loại “anh chị” khiêng bao gạo 50 kí-lô trên vai hỏi tôi có cần mua không? Tôi gật đầu. Anh ta ném bao gạo trên yên sau xe honda của tôi, không cần biết tôi đưa bao nhiêu tiền, anh trở vào kho vác bao khác ra ngoài, đứng dáo dác không có ai mua, anh cho tôi thêm một bao nữa để phía trước xe mà không lấy tiền thêm. Cửa kho mở rộng, ai muốn vào lấy cũng được, tội ǵ phải bỏ tiền ra mua. Tôi chạy xe về nhà người bạn tôi đang ở nhờ. Yên tâm trong bụng không sợ đói. Tôi chạy qua lại t́m mua một thùng nước mắm, hàng “hôi của” nên trả bao nhiêu tiền cũng được. Như vậy, tôi vững bụng không c̣n sợ thiếu ăn trong những ngày sắp tới, trong những ngày tranh tối tranh sáng, vô chính phủ.


Về nhà mua một lít đế, mấy miếng khô cá, tôi và thằng bạn vừa nhâm nhi, vừa mở radio nghe ông Dương Văn Minh đọc diễn văn bàn giao đất nước lại cho người thắng trận. Xem như hạ màn một cách nhanh chóng, chế độ Miền Nam cáo chung, nhường sân khấu cho cộng sản điều hành đất nước. Ḥa b́nh mà toàn dân khao khát đang thực sự “hiện thực”. Thế nhưng ḷng người tan hoang, những chính sách sắt máu ụp trên đầu dân chúng. Đốt sách, cải tạo, đánh tư sản mại bản, đổi tiền v.v… toàn những món dân Miền Nam không thể nuốt trôi, ói ra máu.


Đường phố áo quần lính chất đống, người người đi trên phố khuôn mặt ngơ ngác, không ai biết được ḿnh sẽ đi về đâu. Mấy người trai trẻ hàng xóm mà tôi biết là những người lính Miền Nam, đi ngang qua nhà nhập vào uống rượu với tụi tôi. Hết lít nầy họ chạy đi mua lít khác. Tụi tôi ngồi nhậu tới chiều. Một bữa nhậu mà không có một tiếng nói to, âm thầm uống, hồn ai nấy giữ. Xong cuộc nhậu tự động ra về, chỉ chào nhau bằng cái gật đầu nhè nhẹ. Tôi thấy mọi người đều “xanh mặt”, mệt mỏi, lo sợ, như chờ đợi một cái ǵ không may ụp trên đầu ḿnh.



Ngày hôm sau, có những người mang băng đỏ trên tay xuất hiện trong xóm và điều khiển xe cộ trên đường phố. Trong xóm tôi ở đường Minh Mạng, Phú Nhuận, có một ông ca sĩ nổi tiếng Sài G̣n, lái chiếc xe jeep của người anh trước đây là trung tá của Miền Nam đi Mỹ để lại, trên xe ông và những người mang băng đỏ chạy khắp Phú Nhuận, ḥ hét như các tay “cách mạng” thứ thiệt. Có lẽ thời điểm nầy tôi đă chứng kiến biết bao khuôn mặt tráo trở, họ không có một chút xíu ngượng ngùng, tiếp tay chỉ điểm, đắc lực làm tay sai. Quả thật, tụi tôi hồi đó không sợ những người cộng sản, mà sợ những thành phần nầy, họ làm bất cứ việc ǵ để lấy điểm. Nên tụi tôi thấy họ phải lo tránh xa. Không loại trừ thành phần nào trong xă hội Miền Nam, đâu cũng có thứ nầy. Qua Mỹ lại thấy ông ca sĩ nầy mặc đồ lính rằn ri hát những bài ca của lính. Họ thay đổi c̣n hơn tắc kè. Đúng là cuộc sống đầy những nhiễu nhương.



Bây giờ kể lại những chuyện nầy như kể chuyện đời xưa, nghe lại thấy tức cười. Tội nghiệp cho những con người yếu đuối, v́ t́m một chỗ yên thân mà họ phải táng tận lương tâm, làm những chuyện ruồi bu. Mấy ông có người thân đi tập kết về th́ dựa hơi, bắt nạt người khác, hoặc to tiếng khẳng định lập trường của ḿnh. Trong lúc chưa có người th́ người ta để yên, mượn tay các ông để răn đe người khác. Khi có đầy đủ nhân sự th́ cho các ông “chầu ŕa”. Lúc đó các ông mới biết cái “lố bịch” của ḿnh đối xử với anh em th́ đă muộn. Có người phải tránh mặt anh em v́ khi gặp nhau ngượng ngùng mắc cỡ. Có người bắt đầu ngồi quán café chửi đổng v́ bị thất sủng.



Có lẽ trong buổi giao thời, tranh tối tranh sáng, ḿnh mới thấy được những bộ mặt “ghê tởm” nầy xuất hiện. Họ như những tên hề đứng trên sân khấu múa may mà không biết trơ trẽn, lớn tiếng chỉ trích anh em có chút máu “ngụy”, như một tay cách mạng chính hiệu. Cái tṛ chỉ điểm, tố cáo để kiếm điểm, t́m một chút địa vị, lúc ấy thật đáng sợ, anh em thiêm thiếp chịu trận, không dám hé răng. Cái bối cảnh lúc ấy thật nhố nhăng, thật sắt máu, nghi kỵ lẫn nhau, chà đạp nhau để vươn lên. Những người lập công cho “cách mạng” kiểu nầy dần dần bị đào thải, anh em th́ xa lánh. Họ thui thủi như một bóng ma. Cho đến bây giờ thời gian quá lâu, mọi chuyện đă phôi pha, trong ḷng mọi người không ai muốn nhớ lại.



Những năm đầu “giải phóng” người Miền Nam không ai ra được Miền Bắc để trông thấy ngoài ấy ra sao. Tôi có một thằng bạn thuộc “gia đ́nh cách mạng”, muốn đi một chuyến ra Bắc, thế nhưng phải năm lần bảy lượt mới đi được, phải cỡ thứ trưởng bảo lănh mới được cấp giấy cho đi. Sau khi trở về hỏi ǵ nó cũng không nói chỉ lắc đầu. Một bữa tôi với nó đi uống café, nó nói nhỏ vào tai tôi là trước khi nhận giấy ra Bắc, người ta dặn không được nói với ai về cuộc sống ngoài đó, nên nó không dám nói chuyện nầy với ai. Sau mấy đêm suy nghĩ, nó tự thấy như vậy là không đúng, tại sao không nói cho thiên hạ biết “chiếc nôi” của chủ nghĩa xă hội, cái thiên đường đă đánh đổ Miền Nam để cả nước cùng tiến lên. Nó không thể nào tưởng tượng Miền Bắc nghèo đói và lạc hậu đến thế. Phố xá cũ kỹ dơ bẩn, ngoài đường áo quần chỉ mỗi một màu ô-liu, thỉnh thoảng mới thấy màu xanh đậm, h́nh như cho công nhân, họa hoằn lắm mới thấy chiếc áo trắng, c̣n xe đạp bạt ngàn, không thấy có một chiếc xe gắn máy nào, nếu có th́ chắc từ Miền Nam mang ra. Hà Nội dưới mắt nó sao thấy thảm thương quá chừng. Sau đó nó nói với tôi bằng giọng mỉa mai, “Tiến lên xă hội chủ nghĩa như vậy đủ rồi, c̣n tiến mạnh tiến nhanh th́ chắc chết quá mầy ơi”.



Mười năm sau (1985), tôi có việc phải ra Miền Bắc v́ mấy cái hợp đồng với thương nghiệp ngoài đó. Tôi đứng giữa Hà Nội mà ḷng thấy se thắt. Mấy chục năm, người dân “văn vật” chịu đựng một cách dai dẳng mà không nổi loạn nghĩ cũng lạ thật. Áo quần nghèo nàn nhưng con gái Hà Nội mặt mày sáng chưng, phần đông đẹp hơn các thành phố trong Nam. Dưới con mắt tôi, cái thanh lịch chỉ c̣n lại trên nét mặt của người con gái Hà Nội, c̣n bao nhiêu cái khác, sau ba mươi năm xă hội chủ nghĩa đă tẩy sạch hết, tiêu tan hết.

Mấy năm trước đây, tôi gặp nhiều văn nghệ sĩ Hà Nội qua Boston theo chương tŕnh của William Joiner. Trong lúc trà dư tửu hậu, tôi có nói với họ về chuyện ra Miền Bắc của tôi năm 1985. Họ đều cười và nói với tôi rằng có dịp bây giờ nên ra Miền Bắc một chuyến, mọi thứ đều thay đổi một cách chóng mặt. Cái chính sách xă hội chủ nghĩa chỉ c̣n trên lư thuyết, người dân bây giờ giàu có, không c̣n tiến nhanh tiến mạnh như khi xưa, mà họ chạy đua theo kịp đà tiến hóa của tư bản. Đó là một bước tiến đáng mừng cho dân chúng, để họ được hưởng những tiện nghi, những phúc lợi mà thế giới đă giành được qua những phát minh phụng sự cho con người. Đứng trên phương diện nhân bản, thật đáng mừng cho những mảnh đời tưởng rằng sẽ sống trong tăm tối măi măi. Bây giờ ấm no hơn, thoải mái hơn, tuy nhiên vẫn c̣n bị những rào cản về tự do, dân chủ c̣n bị siết chặt.


Tôi có dịp lên Thái Nguyên, nh́n những cánh đồng chè bạt ngàn, những người hái chè buổi sáng sớm trong sương mù thật tội nghiệp. Đồng lương công nhân của công ty chè quốc doanh không bao nhiêu, mà phải chịu cực khổ một cách nặng nề. Tôi cũng có dịp đi Quảng Ninh, trông thấy công nhân mỏ than lam lũ trong hầm mỏ. Không biết những nhà lănh đạo của giai cấp nầy trước đây có giống như anh chị em công nhân, mặt mày lấm lem, sống trong điều kiện kham khổ như vậy không. Chứ khi ấy nh́n họ thấy không khá nổi. C̣n nhiều cảnh thật tang thương cho một chế độ xă hội chủ nghĩa mà họ ca tụng như là thiên đường. Thú thật tôi vỡ mộng.


Trước đây tôi không tin những ǵ mà bộ máy tuyên truyền của Miền Nam nói về Miền Bắc. Tôi không tin những tác phẩm của Xuân Vũ nói về chế độ Miền Bắc. Tôi cho đây chỉ là những tuyên truyền rẻ tiền để hạ nhau, chứ thực tế không đến nỗi như vậy. Sau khi ra Hà Nội, tận mắt nh́n thấy đời sống dân chúng, chứng kiến cảnh làm việc, nh́n thấy sinh hoạt của người dân từ nông thôn đến thành thị, thấy trật tự xă hội bị đổ nhào, đạo đức văn hóa không ai cần phải giữ ǵn, những cảnh trắng trợn không ai cảm thấy xấu hổ. Tàu hỏa và xe buưt là nơi bọn đầu trộm đuôi cướp hoành hành mà cơ quan công lực không làm ǵ được. Dân chúng bị hà hiếp không biết kêu than nơi đâu. Phải công nhận người dân Miền Bắc gặp cảnh tai trời ách nước cay nghiệt, mà họ không hề phản kháng, chỉ cắn răng chịu đựng. Mà phản ứng làm ǵ được khi bao tử đói meo, chỉ lo mỗi cái ăn chưa xong, hơi đâu ôm đồm chuyện khác.


Xe chạy đến huyện Kỳ Anh (tôi không nhớ thuộc tỉnh nào v́ lâu quá, h́nh như là Hà Tĩnh). Chúng tôi vào một quán cơm bên đường, người con gái bán cơm rất đẹp, nói giọng Hà Nội. Tôi nghĩ giữa nơi đồng không mông quạnh, lại có người nho nhă, ăn nói lễ phép và đồ ăn rất ngon. Trong lúc đó ngay tại Hà Nội chưa có quán ăn nào vừa ư. Tôi xin nói thêm chỗ nầy, Hà Nội lúc đó t́m một quán café cũng rất khó. Đi ăn phở phải xếp hàng và trả tiền trước. Đặc biệt, khi chúng tôi xếp hàng th́ người giữ trật tự mời vào ngồi bàn trước, ăn xong mới trả tiền (ưu tiên cho dân Miền Nam). Tôi hỏi người thu tiền tại sao chúng tôi được đặc ân như vậy. Th́ họ trả lời là phải thu tiền trước để biết khách muốn ăn bát phở giá bao nhiêu, th́ làm đúng với giá tiền, nếu không họ chỉ trả ít hơn th́ ḿnh không biết phải làm sao, hoặc ăn xong không trả tiền rồi bỏ chạy. C̣n các anh ở Miền Nam đă quen với cái lối trả tiền sau, các anh nhắm ḿnh có đủ tiền mới vào quán và nếu có bỏ chạy th́ các anh không biết đường nào mà chạy thoát được. V́ vậy chúng em phải tiếp các anh như ở Sài G̣n vậy. Chính quyền cách mạng xem tụi tôi như một thứ ghẻ lở, nhưng bà con Miền Bắc th́ lại xem tụi tôi rất thân t́nh. Sau khi ăn xong, tôi hỏi về gia đ́nh. Giọng nói của cô gái khác với những người chung quanh. Cô cho biết cha mẹ cô là dân Hà Nội chính gốc, sau 54 bị tịch thu nhà cửa và đi kinh tế mới nên phải trôi giạt vào đây. Cô hiện thời là sinh viên, cuối tuần phải về để giúp đỡ cha mẹ bán cơm. Nh́n h́nh ảnh của cô, tôi liên tưởng đến những bà con ở Sài G̣n đi kinh tế mới. Chắc chắn họ không được may mắn như gia đ́nh cô hiện thời, cái gốc Sài G̣n của họ rồi cũng sẽ mất. Nhà to cửa lớn của họ đă được các “quan cách mạng tiếp thu”, đổi chủ một cách hà khắc.



Chưa có một cuộc sống nào người dân phải chịu đựng oan ức như trong thời “giải phóng”. Tôi nh́n ra cánh đồng xa xa, thấy những chiếc áo tơi (chầm bằng lá buông mà vào khoảng thập niên 60 không c̣n thấy xuất hiện tại Miền Nam), nhấp nhô trên đồng ruộng. Tôi hỏi cô gái trời nắng như vậy mà tại sao phải mặc áo tơi. Cô ta cho biết, làm ǵ có áo mặc để làm ruộng, họ mặc áo tơi để thay cho áo vải. Nh́n qua cánh đồng khác tôi thấy người kéo cày thay cho trâu ḅ. Lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy cái cảnh thân h́nh thiếu ăn ốm o, choàng sợi dây trên vai kéo cái cày, có một đứa bé đứng phía trên, thật tội nghiệp. Những năm của Miền Bắc xă hội chủ nghĩa đă gặt hái những ǵ tốt hơn cho người dân? Cái cảnh trông thấy trước mắt mà tôi có dịp ra Miền Bắc, cho tôi một bài học là phải bằng mọi cách t́m đường ra nước ngoài, nếu không th́ quá trễ, và viễn ảnh cho thấy cuộc đời sẽ khốn nạn, thê thảm, bần cùng như bà con ruột thịt Miền Bắc đang gánh chịu.


Một chuyện buồn cười. Xe của chúng tôi tới Bến Thủy, chờ lên phà để về lại trong Nam. Đoàn xe nối đuôi nhau dài cả cây số. Tôi nghĩ trong bụng ở đây chờ ít nhất phải hai ngày trời mới tới phiên ḿnh, v́ lúc ấy chiếc “phà” chỉ chở được bốn chiếc xe vừa qua lại mất cả tiếng đồng hồ. Nói là “phà” cho nó oai vậy, chứ quả thật là mấy cái phao cột dính lại với nhau, một chiếc tàu nhỏ như ca-nô kéo đi. Tôi nghe các tài xế chạy trên đường xuyên Việt kể lại rằng trong mùa nước lũ, phà bị đứt dây trôi mất là chuyện thường. Tôi hỏi thế th́ xe và người trên phà phải làm sao? May mắn th́ được vớt, c̣n không th́ chết thôi. Chuyện quan trọng như vậy mà người kể chuyện xem như thường và những cơ quan có trách nhiệm điều hành về phà qua lại trên sông, tỉnh bơ xem đó không quan trọng, không phải trách nhiệm của ḿnh. Chiếc phà bao năm vẫn không thay đổi. Cho nên mấy chiếc phà bắt qua bắc Cần Thơ hay bắc Vàm Cống thấy rất an toàn. Đang ngồi trên xe tán chuyện với nhau, th́ người phu cầm cờ đỏ chạy đến xe chúng tôi hỏi có cần phải qua phà nhanh không? Người tài xế hỏi ông giá bao nhiêu. Ông trả lời muốn đi ngay th́ cho nhiều một chút, muốn qua phà chậm th́ ít hơn. Người phu cầm cờ đỏ đưa hai ngón tay (có ư là hai trăm đồng) chạy ngay. Hai trăm đồng lương công nhân thuở đó là năm mươi đồng một tháng. Ông ta cầm cờ đỏ giơ cao chạy trước, miệng la lớn: “Anh em Miền Nam giúp đỡ anh em Miền Bắc”. Họ xem cái chuyện đút lót nầy là b́nh thường, là công khai, cho những chiếc xe khác noi theo. Chiếc xe của tụi tôi ưu tiên xuống trước. Đứng trên phà qua sông, thật t́nh tôi ngao ngán cho một xă hội mà tôi đă chứng kiến trên Miền Bắc. Rồi đây Miền Nam của chúng tôi sẽ lăn trên vết xe của đồng bào ngoài kia đă trải qua. Bấy giờ chúng tôi đă thấy ngột ngạt khó thở, người ta đă bắt đầu áp dụng đường lối cứng rắn để uốn nắn dân Miền Nam rập khuôn Miền Bắc.


Xe chạy đến Quảng B́nh, thành phố xem như b́nh địa v́ bị bom của Mỹ rải nát, mười năm sau vẫn c̣n nguyên si, không sửa chữa. Thành phố lợp tranh trên những nền nhà cũ. Nhà thờ chính Quảng B́nh chỉ c̣n trơ lại gác chuông. Dấu tích chiến tranh vẫn chưa xóa, nh́n thành phố chúng ta đủ biết nơi đây đă nhận biết bao nhiêu bom đạn. Chúng tôi vào uống nước tại một căn nhà tranh trên quốc lộ, chủ quán là một anh thương binh trạc tuổi tôi. Lúc đầu mới vào anh nói chuyện với chúng tôi sặc mùi cộng sản. Chẳng hạn như về những năm tháng chiến tranh mà Quảng B́nh nhận lănh hậu quả nặng nề nhất. Anh nói rất tự hào: “Quảng B́nh quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Người dân Quảng B́nh kiên cường đứng đầu cả nước chống giặc xâm lăng Mỹ”. Tụi tôi chỉ lắng nghe anh thao thao bất tuyệt về chiến tranh, về chính sách, về con người sống thế nào cho phù hợp chế độ. Luận điệu nầy tôi đă từng nghe những người thắng trận lớn lối nói ra rả vào tai tụi tôi. Anh hỏi tôi trước khi ḥa b́nh tôi làm ǵ ở Miền Nam. Tôi không trả lời ngay câu hỏi của anh, tôi vén ống quần cho anh thấy cẳng chân giả làm bằng plastic. Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn: “Tôi là người lính của Miền Nam”. Sau khi nh́n thấy sự mất mát thân thể của tôi, sau khi nghe tôi xác định một cách chắc nịch về con người thật của tôi, con người mà đứng trên chiến tuyến là đối nghịch với anh. Tôi nói không có một chút thù hận, không tranh căi với anh, tôi chấp nhận danh phận không may mắn của tôi. Thái độ nầy tôi làm cho anh bất ngờ lúng túng. Tôi thấy anh ngồi suy tư, nh́n tôi có chút ngậm ngùi. Anh thấy những ǵ anh nói với tôi đều là những câu tuyên truyền không cần thiết, mười năm “giải phóng” tôi đă hiểu rơ chân tướng của chế độ, có đánh bóng nó cách mấy cũng không thể che đậy cách trả thù hèn hạ trên đầu anh em chúng tôi. Tôi trả tiền nước rồi ra xe, anh chạy theo bắt tay tôi thật chặt, anh nói là anh cảm thấy mắc cỡ ăn nói quá nhiều hàm ư tuyên truyền, khi nh́n thân thể tôi, anh biết không dễ ǵ lay chuyển được tôi. Dù là người bại trận, đang sống dưới chế độ thù nghịch, tôi vẫn không tránh né về thân phận của ḿnh.




Từ Quảng B́nh về Quảng Trị con đường gập ghềnh, lởm chởm. Xe qua cầu Hiền Lương, chiếc cầu lịch sử ngăn chia Nam Bắc. Chiếc cầu nhỏ nhắn, dễ thương, nó đứng giữa ranh giới chứng kiến biết bao nhiêu tai ương đổ xuống trên đầu nhân dân hai miền Nam-Bắc. Nó ngăn cách không những chế độ bên nầy, bên kia, mà nó c̣n ngăn cách cả ḷng người, xé tan t́nh tự của dân tộc. Bao nhiêu năm ḥa b́nh mà ấn tượng, đố kỵ c̣n nặng nề quá vẫn chưa biết làm sao nối lại được.


Chiến tranh chỉ trong ṿng 20 năm, mà đến 42 năm sau sống trong ḥa b́nh vẫn chưa có cách nào chung sống trong t́nh anh em ruột thịt. Tuy không c̣n cầm súng giết hại nhau, không c̣n ranh giới phân chia chiến tuyến, thế nhưng bức tường chắn giữa ḷng người (nói theo kiểu Tưởng Năng Tiến) vẫn c̣n kiên cố ngăn cách đôi bên, không ai chịu phá bỏ và quên đi cái thời xa xưa nhục nhă của dân tộc.

Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Gibbs's Avatar
Release: 04-01-2017
Reputation: 74858


Profile:
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Last Update: None Rating: None
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	vietnamwar2017 (1).jpg
Views:	0
Size:	136.9 KB
ID:	1018417  
Gibbs_is_offline
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42 Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
The Following 6 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Show/Hide list of the thanked
 
Page generated in 0.13115 seconds with 11 queries