VietBF - View Single Post - Truyện Ngắn tuyển chọn
View Single Post
Old 06-27-2020   #118
wonderful
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,285
Thanks: 17,998
Thanked 64,837 Times in 16,417 Posts
Mentioned: 125 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 57
wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11
wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11
Default

Truyện Ngắn : Người Mỷ cuối cùng ở Việt Nam.

Đường phố Sài G̣n nhộn nhịp một cách bất thường. Tiếng c̣i xe vang lên inh ỏi. Trên ḷng đường, xe Jeep, 4x4 và “cam nhông”10 bánh hết xăng đứng tại chỗ, không những đă trở nên vô dụng mà c̣n làm cản trở lưu thông. Một vài chiếc, chắc là bị lột “dên”, khói bốc nghi ngút. Bốn góc ngă tư đều chật ních những xe. Xe đạp, xe gắn máy, scooter, xe ba bánh, xe xích lô đạp, xích lô máy, xe lam, xe ngựa, tắc xi, xe ô-tô dân sự, tất cả đều đang kẹt cứng, dậm chân tại chỗ khi Mark lái chiếc Vespa tới chỗ góc đường Hai Bà Trưng và Tú Xương.

Trên lề đường, người đi bộ không đi mà chạy, theo nhau mà chạy. Mark nghĩ đến những đoạn phim thời sự quay cảnh dân chạy loạn từ miền Trung hồi năm 72 trên Quốc Lộ số 1, đoạn đường được thế giới biết đến qua cái tên Đại Lộ Kinh Hoàng.

Những người dân miền Trung này đă “bỏ phiếu bằng chân”, bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả, tổ tiên chạy về hướng Nam lánh nạn cộng sản, t́m đường sống với chính quyền Cộng Ḥa. Họ cứ chạy mà không cần biết nơi họ sắp dừng chân là đâu hoặc bao giờ th́ an toàn để dừng chân.

Những người trên hai bên lề đường Hai Bà Trưng bây giờ cũng t́m đường tránh nạn cộng sản, cũng chạy loạn, nhưng phần lớn những người này biết là họ phải đi đâu, đến đâu, và biết là bao giờ, ở đâu th́ được an toàn.

Những người này đang cố gắng t́m cách, càng nhanh càng tốt, để ra đến Bến Bạch Đằng tại bờ sông Sài G̣n, chỗ các tầu hải quan, tầu buôn, tầu vận tải, tầu đánh cá , tầu tư nhân đang chất người lên như xếp cá hộp trước khi nhổ neo ra khơi.

Một số những người khác chạy ngược lại, hướng về sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tư Lệnh Không Quân, chỗ những chiếc C-47, C-130, Caribou, DC-3, L-19, Cessna, T-28, A-37, F-5, trực thăng Chinook, Huey; những chiếc máy bay cánh quạt và phản lực của Air America, Air France, TWA, Pan Am, Air Vietnam đang lũ lượt cất cánh đem hành khách - các nhân viên sở Mỹ cùng bạn bè, thân nhân, vợ con - ra khỏi không phận Việt Nam, hướng về Mỹ Châu, Âu Châu, Thái Lan, Phi Luật Tân, hạm đội Thứ Bẩy đậu sẵn ngoài khơi.

Một số nữa cũng chạy nhanh không kém hướng về ṭa Đại Sứ Mỹ hay một trong những biệt thự chung quanh thành phố, nơi có những băi trống trong khuôn viên làm chỗ đáp cho trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến hạ cánh đón người Mỹ và những người được Mỹ cho di tản trước khi cộng sản tràn vào Sài G̣n.

Những người này c̣n làm cho Mark liên tưởng đến đám đông kéo nhau lũ lượt vào đêm Giáng Sinh trên đường Tự do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi đi tới điểm không ai hẹn ai mà đều gặp ở đó - Vương Cung Thánh Đường - để dự lễ mừng Chúa Hài Đồng lúc nửa đêm. Trong những năm Mark làm việc ở ṭa đại sứ Mỹ ờ Việt Nam, chỉ có đêm đó là lần duy nhất anh thấy các đám đông tập hợp lại, “xuống đường”, không với chủ đích chống chính quyền v́ lư do này hay lư do khác.

Một tràng đạn nổ đâu đó rất gần phía bên trái làm thiên hạ chạy nhốn nháo t́m chỗ trốn. Mark trông thấy khoảng trống, rồ máy chiếc xe Vespa nhẩy lên lề đường t́m lối ra. Chạy được khoảng 5 thước th́ một người đàn ông từ đâu nhẩy vào mũi xe làm Mark quẹo bánh lái gấp sang một bên, mấy ngón tay cầm ambrayage tuột ra, chiếc scooter chồm lên, khựng lại, rồi chết máy. Cuống quưt, Mark đạp lấy đạp để cả chục lần mà máy vẫn không nổ lại; anh nh́n quanh, dựa chiếc Vespa vào một gốc cây, khóa cổ lại rồi, bắt chước những người chung quanh, chạy.

Nhà Thu ở trong khu chợ Bàn Cờ, cách đó khoảng 2 cây số. Đến đầu chợ trên đường Phan Đ́nh Phùng th́ chợ chiều đă vắng. Những hộp các tông chất đống, mùi rau cỏ héo, mùi thịt cá hôi tanh, và xác một con chó chết chặn đường vào nhà Thu. Mark nhịn thở, bước nhanh. Thu ở trong một căn nhà 2 tầng trong ḷng một con hẻm sát mặt chợ. Tiếng radio vang vang. Mark nghe thấy đài phát thanh Sài G̣n, đài Quân Đội, đài BBC, đài VOA…Dân trong xóm lao động với vẻ mặt lo âu nuốt từng câu từng chữ của các xướng ngôn viên, cố gắng t́m hiểu sự thực đằng sau những lời tuyên bố, những bản tin chiến trận về số phận ḿnh, số phận thành phố Sài G̣n, số phận miền Nam Việt Nam sẽ đi đến đâu.

Trong nhà Thu cũng có tiếng radio nhưng không có tiếng người xướng ngôn mà chỉ có nhạc. Và tiếng nhạc, tuy đă biết trước, cũng làm Mark có cảm giác náo động. Bởi v́ bản nhạc đang được phát ra từ chiếc máy radio nhỏ để trên chiếc tủ chè trong góc nhà là bài White Christmas của Irving Berlin do Bing Crosby hát. Từ mười ngày trước đây, tất cả những người Mỹ c̣n lại ở Việt Nam được lệnh mở radio trên đài FM của Mỹ 24/24 và khi nghe thấy White Christmas phát thanh liên tục thay cho chương tŕnh thường lệ th́ đó là hiệu lệnh cuộc di tản khỏi Việt Nam đă chính thức khởi đầu. Tiếng nhạc White Christmas đă khởi lên, mùa Giáng Sinh Tuyết Trắng đă tới dưới ánh mặt trời gay gắt, nhuộm đỏ thành phố Sài G̣n vào những ngày cuối tháng Tư. Và thông điệp của nó không phải là nói về một mùa Giáng Sinh thanh b́nh với tuyết rơi ngoài cửa sổ mà là hiệu lệnh cấp bách cho những người như Mark phải bỏ lại tất cả, t́m mọi cách di chuyển tới một trong những địa điểm ấn định sẵn để được trực thăng vận ra khỏi Việt Nam. Càng nhanh càng tốt.

Thu đang cố sức nhấn nắp chiếc va li xuống để đậy lại nhưng v́ sức nàng yếu nên chiếc nắp lại bật lên. Mark đến bên cạnh, hôn trên má Thu rồi lấy tay chặn xuống, kéo chiếc fermature trên va li lại một cách dễ dàng. Xong rồi Mark đứng lên, hai tay sách hai chiếc va li.
“Ḿnh đi đi em,” Mark nói với Thu.
“Nhưng mẹ em chưa xuống tới,” Thu trả lời.
“Ḿnh gửi điện tín cho mẹ em mười ngày hôm nay rồi. Nếu bà muốn đi với ḿnh th́ bà đă tới rồi.”
“Thế nào mẹ em cũng xuống. Anh biết là lúc này đường từ Đơn Dương xuống đây khó khăn như thế nào.”
“Nhưng mà ḿnh phải vào ṭa đại sứ ngay bây giờ. Anh nghĩ chỉ mấy ngày nữa là mọi chuyện coi như xong. Nhiệm vụ của anh là phải trở vào ṭa đại sứ ngay lập tức. Anh về để đón em chứ không phải về để chờ mẹ em.”

Thu lắc đầu.
“Em phải chờ mẹ xuống. Em không thể đi được. Em không thể bỏ mẹ lại được. Mẹ chỉ có một ḿnh em.”
“Nếu ḿnh không đi bây giờ th́ “chúng ḿnh” sẽ bị bỏ lại,” Mark gằn giọng rồi đi ra cửa.
“Nếu anh cần phải quay lại ṭa đại sứ ngay bây giờ th́ anh cứ đi trước. Em ở đây đợi mẹ rồi sẽ vào sau.”

Mark nói như quát, tuy bản tính của anh không phải là người hay nóng.

“Em không hiểu hay sao? Ḿnh không c̣n nhiều th́ giờ nữa. Ḿnh không thể nào chờ mẹ em được. Chưa chắc ǵ mẹ em sẽ xuống.”
“Nhưng thế nào mẹ em cũng xuống với em.”

Một cái ǵ trong giọng Thu làm Mark dịu cơn nóng.
“Sao em biết?”
“Bởi v́ mẹ thương em…và mẹ biết là lúc này em đang cần mẹ bên cạnh…”
“Em…” Mark ngừng nói, nh́n vào đôi mắt sâu thẳm mầu nâu nhạt của Thu. “Mẹ biết là em cần?...”

Thu gật đầu thật nhẹ.
“Em báo cho mẹ biết là em có thai…”

Mark sững người, đứng im một khoảnh khắc, rồi buông hai chiếc va li trên tay xuống, choàng tay ôm lấy Thu, xiết người nàng thật chặt.
“Cám ơn em.”

Khi Mark choàng tỉnh giậy th́ chiếc đồng hồ trên tường chỉ tám giờ bốn mươi lăm. Mark đă bồng Thu lên lầu và hai người đă yêu nhau thật lâu, thật êm đềm v́ sợ động vào cái thai c̣n non trong bụng mẹ. Thu vẫn ngủ thật ngon bên cạnh. Mark nhoài người ra khỏi giường, cố không gây tiếng động, sợ đánh thức Thu.

Mark mặc quần áo rồi ra ngoài ban công nh́n xuống. Trời đă tối hẳn. Đường hẻm vắng tanh. Vẫn không thấy mẹ Thu đâu.

Mark Mason, 38 tuổi, đă giữ chức vụ tham vụ báo chí của ṭa đại sứ Mỹ tại Sài G̣n từ tháng Sáu năm 1970. Thu làm việc tại pḥng đánh máy ở lầu một. Hai người bắt đầu đi chơi với nhau khoảng hơn một năm, tuy thật ra Mark đă theo đuổi Thu từ lần gặp nàng đầu tiên vào ngày Thu mới vào làm việc ở ṭa đại sứ hơn hai năm trước, lúc đó Thu mới 26. Có cảm t́nh với Mark nhưng Thu vẫn e dè với cái danh hiệu “Me Mỹ” xă hội vẫn gán cho các cô gái Việt đi bên cạnh những chàng Mỹ tóc quăn, mũi lơ, mắt xanh. Cho tới khi Mark gửi một chiếc máy bay Cessna của ṭa đại sứ lên Đà Lạt đón cậu Năm, em mẹ Thu, rồi đưa vào bệnh viện dă chiến trong Tân Sơn Nhất, cứu được mạng sống của cậu Năm, th́ Thu mới bằng ḷng đi chơi với Mark. Cách đây 4 tháng, Mark đă lên Đơn Dương gặp mẹ Thu xin cưới nàng và mẹ Thu đă nhận lời cầu hôn. Thu nói với Mark rằng nàng đă đến chiêm tinh gia Huỳnh Liên xin ngày tốt và ông Huỳnh Liên đă nói đám cưới của hai người nên tổ chức vào ngày 30 tháng Tư, ngày tốt nhất cho cả hai tuổi.

Mark đă li dị Cathy, người vợ cũ, trước khi sang Việt Nam. Sau khi ra ṭa, Cathy đem Grace, đứa con gái duy nhất của hai người đi mất v́ biết Mark rất thương con và muốn trả thù Mark. Lần sau cùng Mark gặp con là ngày trước khi sang Việt Nam. Lúc đó Grace mới 6 tuổi. Những lần về phép, Mark đều về Mỹ thay v́ đi nghỉ mát ở các nước khác v́ anh hy vọng sẽ gặp được con. Nhưng Cathy đă đem Grace đi biệt tích. Năm năm nay Mark sống trong hy vọng và tuyệt vọng.

Có tiếng súng vọng về từ xa. Mark nh́n về hướng ṭa đại sứ. Chắc giờ này cuộc di tản ở ṭa đại sứ đă đi vào giai đoạn rầm rộ nhất nhưng v́ nhà Thu ở khá xa nên không nghe thấy tiếng ồn của máy bay trực thăng. Mark chợt thấy đắng trong cổ họng. Một nỗi buồn khó tả dâng lên. Anh rất thích nước Việt Nam và v́ thế đă xin ở lại đến nhiệm kỳ thứ hai; và sau đó th́ Thu đă đóng vai chính trong việc giữ chàng nhân viên ngoại giao này ở lại Sài G̣n một nhiệm kỳ nữa. Thật đáng buồn, Mark nghĩ. Đúng là thân phận nhược tiểu. Bị dùng như một con tốt thí quân, không hề thương tiếc. Mark ở vào địa vị để có thể hiểu được những thế cờ giữa Mỹ, Trung Cộng, Nga Sô và Bắc Việt. Miền Nam đă từ lâu không c̣n nằm trong thế cờ đó nữa. Hai mươi lăm triệu dân miền Nam đă trở thành miếng thịt ḅ thơm phức để trên đĩa sẵn sàng để cho cộng sản Bắc Việt nuốt chửng.

Thấy khát nước, Mark đi vào trong. Thu vẫn ngủ say. Mark kéo chăn lên đắp cho Thu rồi xuống cầu thang. Điều đầu tiên Mark nhận thấy là chiếc radio không c̣n phát thanh White Chrismas nữa. Thay vào đó là những tiếng xèo xèo của làn sóng điện. Lặng người đi một giây, Mark đi nhanh ra cửa, nhẹ nhàng mở cửa ra, nhẹ nhàng khép cửa lại, rồi cắm cổ chạy ra ngoài ngơ.

Góc đường Nguyễn Thiện Thuật và Phan Đ́nh Phùng vẫn đông người. Mấy xe bán thịt ḅ viên vẫn có khách. Mark nh́n quanh xem có chiếc taxi nào không. Không thấy. Xích lô th́ có nhiều nhưng quá chậm. Trông thấy một ông tài xế đang ngồi trên chiếc xích lô máy cầm bát ḅ viên húp x́ xụp, Mark tiến đến bên cạnh, nói bằng tiếng Việt rất sơi, giọng Nam:

“Bác làm ơn chở tôi tới ṭa Đại sứ.”

Người lái xe xích lô máy vội vàng húp nốt chỗ nước c̣n lại, nhẩy xuống, đưa bát cho người bán ḅ viên. Mark trèo lên xe. Bác tài đạp máy. Măi mà máy không nổ. Mark sốt ruột nh́n quanh, định bước xuống t́m cách khác đi th́ máy nổ. Bác tài rồ ga vài lần rồi chạy về hướng đường Hộng Thập Tự. Tuy Mark chỉ nói vỏn vẹn có ba chữ “ṭa đại sứ”, nhưng chiếc xích lô máy tự động quẹo trái rồi trực chỉ ṭa đại sứ Mỹ nằm trên đường Thống Nhất, gần Nhà Thờ Đức Bà. Xe quẹo trái ở Tú Xương, con đường vắng dễ chạy hơn. Gần đến Hai Bà Trưng th́ Mark nẩy ra một ư tưởng ngộ nghĩnh. Anh nghĩ là cũng hơi lạ khi con đường mang tên Tú Xương - một nhà thơ “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”, để vợ tần tảo kiếm ăn trong khi ḿnh ngồi găi rốn làm thơ – lại nối ngang với Hai Bà Trưng, nữ lưu khởi nghĩa chống ngoại xâm.

Đi ngang chỗ bỏ lại chiếc Vespa hồi chiều th́ không thấy nữa. Ra hiệu cho chiếc xích lô máy ngừng ở góc đường Thống Nhất, Mark trả tiền rồi bước thật nhanh về phía ṭa đại sứ Mỹ.

Dưới mấy ngọn đèn đường vàng nhợt nhạt không đủ xua đi bóng tối, đám đông bao vây ṭa nhà mầu trắng vẫn c̣n nguyên, có khi c̣n đông hơn hồi chiều lúc Mark rời ṭa đại sứ về đón Thu. Lại gần hơn, Mark nh́n lên mấy vọng gác trên bờ tường cao. Không c̣n bóng dáng của những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ mặc áo giáp, đội mũ sắt, cầm tiểu liên đứng gác. Những người lính bảo vệ ṭa đại sứ là những người di tản sau chót khi họ tháp tùng ông Đại Sứ Martin lên chiếc trực thăng cuối cùng, bỏ lại đằng sau hàng ngàn người đang đứng chờ một chuyến bay sẽ không bao giờ đến nữa. Và trong số những người đó, bây giờ, có cả Thu, Mark, và đứa con hăy c̣n trong bụng mẹ.

V́ một lư do ǵ đó mà chính Mark cũng không giải thích được – có lẽ là v́ thói quen đảm nhận trách nhiệm giải thích sự việc liên quan đến ṭa đại sứ - thay v́ âm thầm quay về với Thu, anh tiến thẳng vào trong đám đông. Mark, tóc vàng, cao gần 1 mét 9, len vào giữa đám người tóc đen, trung b́nh trên dưới 1 mét 6. Mọi người quay lại ngước lên nh́n anh chàng người ngoại quốc cao lênh khênh tiến sâu vào trong đám đông. Mark tiến lại gần chiếc cổng chính đóng kín, leo lên một tảng đá to cạnh cây cổ thụ, giơ tay lên, nói bằng tiếng Việt. Tiếng Mark vang vang trong bóng đêm:

“Các ông các bà về nhà đi. Đừng chờ nữa. Ṭa đại sứ đóng cửa rồi. Đại sứ Martin đă rời Việt nam bằng chiếc trực thăng cuối cùng. Sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam đă hoàn toàn chấm dứt.”

Đám đông, im lặng khi Mark bắt đầu nói, ồn ào trở lại. Cả trăm người nói cùng một lúc.

“Anh là ai?”
“Tôi…”

Mark vừa mở miệng th́ những người đứng gần cổng nhất bắt đầu xô nhau tiến về phía trước trong những tiếng la ó.

“Phá cổng ra. Phá cổng ra xem c̣n thằng Mỹ nào trong đó không? Thằng này nói láo.”
“Tụi Mỹ bỏ rơi ḿnh rồi.”
“việt cộng vào chắc chết quá.”
“Tôi làm cho Mỹ 20 năm mà bây giờ chúng nó bỏ rơi tôi.”
“Chồng tôi hăy c̣n ở trong đó, không biết đă đi chưa.”

Rổi th́ đám đông bắt đầu chửi.
“Đ.M. mấy thằng chó đẻ Mỹ. Đồ phản thùng.”
“Nixon nói là không bao giờ bỏ rơi Việt Nam.”
“Thằng khốn nạn Ford yếu quá, để cho quốc hội lấn lướt.”
“Đ.M. thằng chó đẻ Kissinger.”
“Đ.M. thằng Martin.”
“Thằng khốn nạn nhất là thằng Kissinger.”
Mark thấy những câu chửi “thằng chó đẻ Kissinger” được lập lại nhiều nhất.

Những tiếng chửi nhỏ dần rồi tắt. Bỗng nhiên một giọng đàn ông cất lên rất to trong đám đông.

“C̣n thằng Mỹ này nữa. Kéo nó xuống, đánh cho nó chết mẹ nó đi. Đ.M. nó.”
“C̣n thằng Mỹ này nữa. Lôi nó xuống, đánh cho nó một trận cho nó chết mẹ nó đi.”

Vài chục người ồn ồn lập lại câu nói trong lúc những người đứng gần chiếc cổng kiên cố, quay lại nh́n Mark. Mark thấy họ dồn tới trước; những cánh tay đưa ra, nằm lấy quần, áo, chân, tay Mark kéo anh xuống khỏi tảng đá.

Và cứ thế, những cánh tay, những bàn chân, đấm, đá, dầy, đạp lên thân thể Mark, đại biểu cho những ǵ những người Việt Nam đứng quanh ṭa đại sứ Mỹ chờ được di tản và bị bỏ rơi cho là những hành vi phản bội.

Một ư nghĩ lóe lên trong đầu Mark Mason, người Mỹ sau cùng ở Việt Nam, trước khi ngất đi dưới trận đ̣n thù, là anh đang hứng chịu số phận của những người Mỹ xấu xí với những cái tên quen thuộc, Nixon, Ford, McNamara, Bundy, Martin, Bunker, Kissinger,.

Và rồi Mark Mason không c̣n biết ǵ nữa trong khi đám đông dường như vẫn như chưa hả giận…


Luân Tế

Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	12582-alexandre-landry.jpg
Views:	0
Size:	21.7 KB
ID:	1607933  
wonderful_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
Antoan (01-26-2021), baolunbeau (01-26-2021), hohoang (04-13-2021)
 
Page generated in 0.09421 seconds with 11 queries