VietBF - View Single Post - Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975
View Single Post
Old 05-04-2019   #2
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,250
Thanks: 7,296
Thanked 45,890 Times in 12,765 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Phần 2
Một thời tưởng tiếc





“lịch-sử luôn luôn duyệt lại,
không ai lừa được cuộc đời ...”
(Lê Đạt, 7-1956)


Đến cuối năm 2008, miền Nam Cộng-ḥa đă bị bức tử hơn 33 năm! Giới lănh đạo cộng-sản trong nước thay đổi diễn văn nhiều lần và cả nh́n nhận một số sai lầm trong số có sai trái về “biệt kích văn-nghệ”, đàn áp văn nghệ sĩ và trí thức của miền Nam, nhưng căn bản chế độ toàn trị và đảng trị vẫn vậy! Trong bài này, chúng tôi ghi lại những thăng trầm về văn-hóa văn-học tự do đă xảy ra trong gần 33 năm đó và từ đó thử nh́n về tương lai!



Sau 30-4-1975


Một chiến dịch lên án và triệt hạ văn nghệ sĩ và trí thức miền Nam Cộng-ḥa đă bắt đầu ngay từ đầu tháng 5-1975. Việt Nam Cộng Ḥa bị xóa trong lịch sử kẻ thắng đă đành, văn học của kẻ chiến bại Việt Nam Cộng ḥa cũng bị xóa bỏ bằng những nghị định và chiến dịch. Ngày 1 tháng 5, Ủy ban Quân quản ra chỉ thị cấm lưu hành và tàng trữ tất cả sách báo xuất-bản trước ngày “giải phóng”, và đă cho những toán cán bộ ô hợp (VC, nằm vùng, “cách-mạng 30/4” [“ông 30/4”], …) đến từng nhà lục soát, tịch thu sách báo và nghệ-thuật phẩm. Ngày 30-6 đài phát thanh cộng-sản cho biết “chỉ nội trong 1 quận đô thành Sài-G̣n chưa đầy 1 tuần, mà dân chúng đă nộp (và bị tịch thu) 482.460 ấn bản sách và 3.000 kư báo-chí xuất-bản thời ngụy”, đồng thời cho biết ở Nha Trang một hiệu sách đă “nộp 35.530 cuốn sách phản động”, c̣n ở tỉnh lỵ Bạc Liêu dân chúng đă “nộp cho chính phủ cách-mạng hơn 3.000 tập sách cải lương, tân nhạc và hàng trăm cassette và dĩa hát nội-dung phản động và độc hại cho tuổi trẻ”.

Những thứ mà sau 1987 sẽ được dân chúng từ Nam chí Bắc ưu chuộng công khai và trở thành … thời thượng … trễ, mà trước đó đă xâm nhập ngay hàng ngũ cán bộ và bộ đội cộng-sản (Tờ Quân Đội Nhân Dân ngày 14-8-1977 cho biết bộ đội vào Nam bỏ hàng ngũ trong khi các đơn vị ở miền Bắc đă chứa chấp sách báo ‘ngụy’ và lén nghe ‘ nhạc vàng’, một vụ kiểm soát 2 tiểu đội đă tịch thu được 119 cuốn sách ‘đồi trụy, phản cách-mạng’ và có cá nhân 1 bộ đội đă giữ 84 cuộn băng ‘nhạc vàng’).

17 và 18 tháng 6, hơn một tháng sau đă diễn ra ở thủ đô miền Nam một ‘Hội nghị lần thứ nhất các nhà văn giải phóng’ cố xác định ai là nhà văn giải phóng và ai đứng ngoài và c̣n là kẻ thù. Sau 30-4-75, Hội Văn nghệ Thành phố HCM cầm đầu bởi 4 Vũ Hạnh, Thái Bạch, Thế Nguyên & Nguyễn ngọc Lương.

Đồng thời, Ủy ban Quân quản giao cho một ban thanh lọc văn nghệ phẩm do Trần Bạch Đằng và Lữ Phương thứ trưởng văn hóa cầm đầu với các trưởng tổ Vũ Hạnh, Huỳnh Văn Ṭng, Châu Anh (về phía nhân viên có Minh Quân, Tường Linh, Thu Mai, Nguyễn Sỹ Nguyên, Giang Tân, HTA, v.v.). Họ đă xếp toàn bộ văn nghệ phẩm vào 6 loại. Lữ Phương đă tŕnh bày hệ thống xếp loại này trên tờ nhật báo Sài-G̣n Giải Phóng 2 ngày 21 và 22-1-1976. A và B bị cấm v́ hại nhất cho cộng-sản, C (trong số có nhạc vàng), D, E th́ phải thanh lọc, c̣n F là … của ‘‘cách-mạng’’(nằm vùng). Măi đến ngày 26-10-1975, ban này mới xong đợt đầu, thanh lọc 56 tác-giả và 489 tựa sách đă góp phần vào công tác chiến-tranh tâm lư chống Cộng.






Đến ngày 20-8-1975, khi Lưu Hữu Phước, bộ trưởng Thông tin văn hóa của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa miền Nam, công bố Thông tri 218/CT.75 cấm lưu hành sách báo xuất bản tại miền Nam, đồng thời công bố danh sách các Cơ sở xuất-bản, Các nhà xuất-bản sách thiếu nhi, Các tác-giả, dịch giả bị cấm toàn bộ các sách đă xuất-bản và của Các tác-giả có sách bị cấm toàn bộ - một danh sách 130 trong đó khoảng 120 tác giả miền Nam với toàn bộ tác phẩm bị cấm lưu hành (10 tác-giả kia là Âu Mỹ Hoa có bản Việt dịch). Sau đó là tù đày, cải tạo, và khi nghi bóng nghi gió lại tiếp tục càn quyét thu vén sách Việt Nam Cộng Ḥa. Tất cả đều nằm trong sách lược của Đảng như nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) ghi rơ nhiệm vụ phải “quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ gieo rắc ở miền Nam’ (1). Xóa bỏ tác giả và tác phẩm bị gán nhăn/chụp mũ là ‘tàn dư văn-hóa nô dịch’, ‘phản cách-mạng’, ...

Những tŕnh diện và những lớp học tập. Ngày 10 và 11-6-1975, Ủy Ban Quân quản Thành phố Sài-G̣n Gia Định ra thông báo kêu gọi quân nhân, công chức chế độ cũ tŕnh diện, bị tập trung “học tập cải tạo” hứa hẹn 3 tháng, trong số có nhiều văn-nghệ sĩ của miền Nam. Văn-nghệ sĩ của miền Nam tiếp tục được chiếu cố tận t́nh nhiều năm sau đó.

Ngày 8-3-1976 thêm Thông tri số 15/TTVH/MCTH của Bộ Thông tin Văn-hóa cập nhật danh mục sách cấm lưu hành. Tiếp đến là những vụ lùng bắt văn-nghệ sĩ miền Nam vào cuối tháng 3 này [mà nhà văn nhà báo Thanh Thương Hoàng gọi là chiến dịch X3, sau X1 ‘chiến dịch bắt học tập cải tạo’, X2 ‘đánh tư sản mại bản’. X. Nguồn CA, số 52, 6-2011], từng đoàn từng đoàn ‘công an văn-hóa’ hợp cùng ‘công an khu vực’ hành … quân càn quét tịch thu hết sách báo xuất bản dưới thời chế độ cũ, để đốt, “tẩy”. Đây thuộc về là đợt hai kéo dài của chiến dịch thanh toán “bọn văn nghệ sĩ phản động” và cũng để chuẩn bị bầu cử Quốc hội ‘thống nhất’ 2 miền ngày 25-4 sau đó, thành ‘‘Việt-Nam cộng ḥa xă-hội’’, chiến dịch khởi động sáng 3-4-1976, một ngày sau vụ nổ Hồ Con Rùa ở bùng-binh đường Duy Tân và Trần Quư Cáp: khởi đầu “vụ án Hồ Con Rùa” (về sau được cộng-sản quay thành phim), công an lùng bắt khoảng 200 người hầu hết là văn nghệ sĩ và trí thức mà từ nay họ gọi là “những tên biệt kích cầm bút”, ngày đầu tiên người bị bắt là Nguyễn Mạnh Côn, hôm sau là những Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Hoàng Hải Thủy, Dương Nghiễm Mậu. “Những tên biệt kích cầm bút” (danh xưng sau này được dùng cho cuốn Những Tên Biệt Kích Của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn-Hóa Tư Tưởngdo nhà xuất-bản Văn-hóa in năm 1980, tác-giả là Tổng và Phó tổng biên tập tuần báo Công An Sài-G̣n). Người cầm đầu thi hành Vụ án Hồ Con Rùa là Huỳnh Bá Thành (1942-1993) bí danh Ba Trung tức họa sĩ Ớt (nhật báo Điện Tín) nằm vùng trước đó ở Sài-G̣n, sau này năm 1981-82 y viết lại ‘‘Vụ án Hồ Con Rùa’’ đăng từng kỳ trên tờ Tuổi Trẻ và xuất-bản thành sách năm 1983.Tội danh gán cho họ khi là ‘‘gián điệp’’ khi là ‘‘tuyên truyền phản cách-mạng’’. Chiến dịch khủng bố này bắt bớ giam cầm các nhà văn như Doăn Quốc Sỹ, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Sĩ Tế, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Hồ Hữu Tường, Hồ Nam, Lê Xuyên, Nguyễn Hữu Hiệu, Mặc Thu, Thái Thủy, Trần Dạ Từ, Nhă Ca, các họa sĩ Đằng Giao, Choé Nguyễn Hải Chí, các nhà báo Minh Vồ tờ Con Ong, Hồ Văn Đồng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh,... các nghệ sĩ, đạo diễn Minh Đăng Khánh, Hoàng Vĩnh Lộc, v.v.

Sau khi đă lùng bắt khoảng 30 văn-nghệ sĩ miền Nam, một “Khóa bồi dưỡng chính trị cho Văn nghệ sĩ miền Nam’’ được Thành ủy và Hội văn-nghệ sĩ giải phóng thành phố HCM tổ chức đợt 1 vào mùa Hè năm 1976, khởi ngày 13-6 và kéo dài cả tháng, đợt 2 vào tháng Bảy; mục-đích học tập chính-trị cho các văn-nghệ sĩ có ‘tội’ không ủng hộ ‘cách-mạng’, ‘không đích thực’ như những tay văn-nghệ thuộc Mặt Trận Giải Phóng miền Nam; nhưng thực ra cốt kiểm soát cùng bài bản với những tập trung ‘học tập, cải tạo’ đối với các sĩ quan quân đội và công chức Việt-Nam Cộng Ḥa, và quảng cáo, tuyên truyền đă cho các văn-nghệ sĩ miền Nam cơ hội - mà có người cứ tưởng sau đó sẽ được hành nghề trở lại. Phần đầu là những huấn hổ, phô trương công trạng đối với cách-mạng của 1 số đă theo cộng-sản Hà-Nội, phần sau là các văn-nghệ sĩ của miền Nam phải làm tự phê tự kiểm, và nhiều người bị đưa ra Tổ để bị mổ xẻ, bên Tổ Văn và Thơ do Vũ Hạnh phụ trách (nhà văn Nguyễn Mộng Giác đă t́nh nguyện làm thư-kư Tổ Thơ Văn (theo Hoàng Hải Thủy.”Mắt mù, tai điếc”. Saigon Nhỏ, 15-5-2009, tr. A3-5), có Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhật Tiến, Phạm Thiên Thư, Lệ Hằng, Tường Linh, An Khê, .... Khi Nguyễn Thị Hoàng bị phê phán, Mai Quốc Liên đă tuyên bố “bởi v́ miền Nam các anh, các chị làm ǵ có văn hóa” [hơn 37 năm sau, ông MQL chối đă nói câu như thế mà nay ông cho đó là ‘‘1 câu ngu ngốc mà không ai dại ǵ nói’’ (Hồn Việt CA, 20-11-2012)].

Đến lượt Sở Thông tin Văn hóa Thành phố HCM ra Thông tri số 12030/STTVH/XB ngày 3-5-1977. Rồi ngày 14-17 tháng 1 năm 1978, Bộ Văn-hóa và Thông tin lại tổ chức tại Sài-G̣n một hội nghị toàn quốc với danh xưng ‘‘Hội nghị đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn-hóa thực dân mới’’ với những huấn thị, báo cáo của đảng viên cao cấp từ Hà-Nội vào, xem như là một công tác cấp thiết và thường trực. Đồng thời để quảng cáo món ‘‘văn-hóa ưu việt xă-hội chủ nghĩa’’, ‘‘văn-học cách-mạng ở miền Nam’’ (nhắm căm thù, lũng đoạn,...) cùng chủ trương viết lách của xă-hội cộng-sản miền Bắc. ‘‘Con người mới’’, ‘‘con người cách-mạng’’, ‘‘con người xă-hội mới’’,... không chấp nhận văn-học miền Nam bị gọi là ‘‘văn-học đô thị’’ của ‘‘vùng tạm chiếm’’ (21 năm!). Do đó phải đàn áp, phải dùng đến vơ lực công an, …

Ngày 7-3-1978, nhật báo Tin Sáng cho đăng Nghị quyết của Ủy Ban Nhân dân Thành phố HCM muốn tiến hành từ ngày này cho đến cuối năm 1978 một đợt tấn công và thanh toán dẹp hết những ‘dấu vết của văn-hóa tân thực dân’, kêu gọi học sinh, sinh viên tập họp kiểm thảo và phê phán một cách triệt để những ‘nọc độc’ của thứ văn-hóa suy đồi và phản cách-mạng này và kêu gọi các thành phần trẻ lập ra những đoàn công tác văn-hóa cho mục-đích ‘truy quét văn hóa đồi trụy phản động’.

Nhà Nước ra hẳn một cuốn danh mục sách và tác già cấm lưu hành. Những ǵ không xuất phát từ văn học hiện thực xă hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản đều phải xóa bỏ, phủ định, v́ “mảng” văn học này bị kết án là “đồi trụy hóa con người”, “phục vụ xă hội tiêu thụ miền Nam” tức một thứ “văn học phục vụ chính trị phản động”, phản cách mạng - những cái nhăn hiệu có thể làm tiêu mạng con người! Từ 1975 đến 1997 có gần 20 cuốn sách chửi bới phê b́nh văn nghệ Việt Nam Cộng Ḥa: văn học tay sai nhưng đáng sợ như những trái bom!

Vào tháng 3-1981, nhà cầm quyền Hà-Nội ra hẳn một cuốn danh mục mới gồm 122 tác giả với toàn bộ tác phẩm bị cấm lưu hành. Trong chiến dịch lên án và triệt hạ này, theo thống kê chính thức năm 1981, trong chiến dịch đợt 3 vào tháng 6 năm 1981 chính quyền cộng-sản đă tịch thu trên toàn quốc 3 triệu đơn vị ấn phẩm trong đó 316,314 sách báo bị cấm; riêng ở Sài-g̣n 60 tấn sách (151,200 cuốn), 41,723 cuộn băng nhạc, 53,751 bức tranh, 631 cuộn phim. v.v. Đồng thời khám phá ra 205 nhà in bí mật (2). Nhà thơ Quách Tấn sống ở Nha Trang, đă phải tiễn sách bị lệnh tịch thu mà c̣n phải thuê xa ba-gác chở lên nạp Ty Thông tin:

– Lệnh trên truyền xuống dám không tuân
Tính tới bàn lui những ngại ngần
Lửa cháy đầu non chi tiếc ngọc
Giấy in h́nh rắn dễ thêm chân
Gượng cầm giọt lệ, khóc vô mệnh
Nghĩ tội lời khen, bút hữu thần
Thôi cứ người sao ta cũng vậy
Dù chi chi cũng vật ngoài thân
(Tính Tới Bàn Lui)

– Sách vở mong cày thế ruộng nương
Ai ngờ sách vở gặp tai ương
Ôm ḷng tiếc rẻ công vô ích (...)
Quên càng khó lắm nhớ càng thương
Thương người thiên cổ không c̣n nữa
Mường tượng non xanh bóng Tử Trường
(T́nh Sách Vở, Trường Xuyên Thi Thoại, NXB văn-nghệ TP. HCM & TTNC Quốc Học, 2000, tr. 167-8).

Sự kiện lịch sử đă xảy ra, đó là sau khi “chiến thắng”, các cán bộ và cả guồng máy liền gấp rút tấn công và thủ tiêu những thành tích văn-hóa văn-học ở miền Nam trước khi họ đến. Những khóa “bồi dưỡng chính-trị và văn nghệ” liên tiếp được mở ra ở Sài-g̣n, nơi có nhiều “phản động” nhất! Sau đó tiếp tục tấn công về lư luận với những “công tŕnh tập thể” như cuốn Văn hóa, văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ-Ngụy, tập 1 do Trà Linh, Trần Hữu Tá, v.v. soạn (Hà Nôi : Văn Hóa, 1977); hai năm sau ra tập 2, do Trần Độ chủ biên (Hà-nội : Văn hóa, 1979). Trong cuốn này, cán bộ cộng-sản tỏ ra sợ chính sách văn-hóa thời đệ nhất cộng-ḥa, thời sau đó họ coi thường hơn v́ lănh đạo bất lực và giới văn-nghệ phân hóa. Những nhân danh dân-tộc, nhân dân của các cây viết của miền Nam bị họ gọi là “văn-hóa mạo hóa”. Các tác-phẩm văn-học có tính hiện thực xă-hội, nhất là vào những năm cuối trước 1975, th́ bị họ kết án là “độc dược” v́ vừa “đồi trụy” vừa “chống cách-mạng một cách có ư thức”(tr. 313) của những Nguyễn Thụy Long, Hà Huyền Chi, Văn Quang, Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Doăn Quốc Sỹ, Duyên Anh,... Những tác-giả khác bị mũi tên nặng có thể kể: Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Linh, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu, Lê Hữu Mục, Thanh Tâm Tuyền, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Vơ Phiến, Nguyễn Đ́nh Toàn, Nhă Ca,... Xuân Vũ, Kim Nhật và những cây viết “chiêu hồi” dĩ nhiên bị họ chĩa mũi dùi nặng hơn!

Sau đó, Viện Văn-học (Phong Lê, Hoàng Trung Thông, ...) ra cuốn Văn-học Việt Nam Chống Mỹ, Cứu Nước (Hà-nội : Khoa Hoc Xă Hội, 1979), trong đó đă gọi Mỹ là “tên sen đầm quốc tế”, là “tên đầu sỏ chủ nghĩa thực dân mới”! Riêng Phạm Văn Sĩ trong Văn học Giải phóng Miền Nam 1954-1970 (Hà-nội: ĐH&THCN, 1975) để lại nhận xét ... bất hủ (thời đỏ) : “văn-chương chống Cộng là thứ văn-chương xảo trá đê hèn nhất của Mỹ-ngụy ở miền Nam” (tr. 377) cùng lúc lại đề cao những ấn phẩm tuyên truyền như Những Lá Thư Từ Tuyến Đầu Tổ Quốc đầy cường điệu và cương bịa (lính Biệt kích của miền Nam ăn thịt người) của những văn công gốc Bắc đưa vào.

Ngoài ra c̣n có Phong Hiền với Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở Miền nam Việt Nam : Khía cạnh tư tưởng và văn hóa 1954 - 1975 (Hà-nội. : Thông tin lư luận, 1975. Tb 1984); và viện Khoa học giáo dục in T́m hiểu chính sách giáo dục thực dân mới Mỹ ở Miền Nam Việt Nam và những tác hại của nó (Tp.HCM : Tp. Hồ Chí Minh, 1980), v.v.

Nói chung là nhiều ư và lập luận trùng điệp, nhưng nhát đ̣n nặng kư vẫn là cuốn của Lữ Phương, Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mĩ tại miền Nam Việt Nam (Hà-nội: Văn hoá, 1981, tái-bản 1985). Lữ Phương lúc đó là thứ trưởng thông tin văn-hóa chính quyền quân quản tháng 5-1975 và là người có liên hệ đến nghị định 20-8-75 nói trên, Miền Nam Cộng-ḥa theo chủ nghĩa dân chủ vừa pháp trị vừa nhân đạo, đo đó đă bị bá đạo cài khá nhiều người nằm vùng, hoạt động cho kẻ thù. Lữ Phương là một, ông ta đựa trên một thứ đạo đức (giả hiệu) và dân-tộc (tức tổ quốc thành đồng) để lư luận, phê b́nh chống văn-nghệ miền Nam. Tập sách của ông ta do đó khá chi tiết và có cơ sở lư luận cộng-sản. Ông ta đă chứng minh “thực dân mới Mỹ” và các chính quyền miền Nam dùng “chiến-tranh và bạo lực văn-hóa tư tưởng” để “xâm lược” và “bành trướng” cùng “chiến-tranh tâm lư là đ̣n bẫy của mọi hoạt-động văn-hóa - tư tưởng” (tr. 31, 37), trong đó các viện đại học cũng như nhóm văn-hóa văn-nghệ như Sáng Tạo, Hiện Đại, Văn Hữu Á-Châu, Quan Điểm,... được đưa lên bàn mổ. Ông gọi tập thể các nhà văn hóa và văn-nghệ sĩ miền Nam là“đội quân văn-hóa phản động”, là ‘tay sai của đế quốc Mỹ’, trong đó có Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Lư Đại Nguyên, Dương Nghiễm Mậu, Vơ Phiến, Doăn Quốc Sỹ, LM Hoàng Sỹ Quư, v.v. Văn-hóa dân-tộc chủ tŕ bởi những Kim Định, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Sĩ Tế,... là những nhà lư thuyết theo ông là “bản địa” và lạc hậu, thần bí,... không ... khoa học như ... Mác-Lê cộng-sản [thời đó thôi, v́ sau này bị thất sủng, ông viết “Chủ Nghĩa Marx Và Cách Mạng Vô Sản Việt Nam”, “Huyền thoại Hồ Chí Minh” v.v. là để tự xóa và thanh toán xóa cả chế độ từng được ông ca là ... khoa học và lư tưởng – ông trở thành ... đối-kháng (được phép!) trong ḷng chế độ!]. Ông c̣n có âm mưu và triệt để hơn khi bàn đến các khuynh-hướng triết lư văn-học hiện sinh, cấu trúc trong chương về lối sống Mỹ hoặc văn-chương đồi trụy, t́nh dục,...

Trong đợt đầu của chiến dịch bôi xóa văn-học miền Nam, cuốn được nói đến nhiều trở thành huyền thoại, là Những Tên Biệt Kích Của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn-Hóa Tư Tưởng do nhà xuất-bản Văn-hóa in năm 1980 và tái bản nhiều lần. Tập này (chỉ ra Tập 1, chưa thấy Tập 2) gồm 11 chương, nêu đích danh 11 nhà văn miền Nam để xóa bỏ sự nghiệp văn-hóa và văn-học của họ, những người theo họ là nguy hiểm nhất v́ ảnh-hưởng “di hại” lâu dài. 11 “biệt kích” đó là Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Doăn Quốc Sỹ, Nhất Hạnh, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Vơ Phiến, Hồ Hữu Tường và Nhă Ca. Bốn trong số đă thoát ra ngoài nước hoặc đă ở ngoài từ trước (NH), sáu c̣n lại bị bắt và cầm tù hai năm rồi có người bị bắt lại và tù lâu hơn hoặc chết trong nhà tù (NMC) hoặc vừa ra khỏi tù (HHT). Các vị bị gán đủ h́nh dung từ như “biệt kích, nguy hiểm, du đăng, bồi bút, v.v.”!

Để khích động thêm, năm 1982 tờ Tuổi Trẻ Sài-g̣n ra thêm cuốn Vụ Án Hồ Con Rùa mà người viết nó, Huỳnh Bá Thành, nằm vùng trước 1975, thêm thắt dựng chuyện tố cáo các nhà văn giật ḿn sát hại dân và âm mưu lật đổ cộng sản. Và để kết thúc đợt đầu, là tập Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (Công an nhân dân, 1986; TpHCM: Văn Nghệ TpHCM, 1994, bản sau tự kiểm duyệt những quá lố, bịa đặt), mang h́nh thức truyện v́ tên các nhân-vật đă cắt ngắn hoặc đổi, do công an Minh Kiên và Nam Thi viết. Nhà văn Hoàng Hải Thủy qua Mỹ theo diện HO đă phóng bút viết dựa theo tập này đăng báo Ngày Nay (Houston) sau in thành tập cùng tựa Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (Toronto: Làng Văn, 2000). Trong cuốn sau này, nhà văn họ Hoàng dùng ḿnh và vụ xử 8 nhà văn thơ về tội “gián điệp” - tất cả bị bắt tháng 5-1984 và vụ xử cuối cùng xảy ra năm 1986, làm điểm tham chiếu. Các vị kia là Doăn Quốc Sỹ, Dương Hùng Cường, Lư Thụy Ư, Nguyễn Thị Nhạn, Nguyễn Hoạt, Trần Ngọc Tự và ca sĩ Khuất Duy Trác. Thành thử “biệt kích” cũng có hai loại: biệt kích cầm bút “gián điệp” và biệt kích văn-hóa tư tưởng; nhà văn Doăn Quốc Sỹ là vị được cộng-sản sợ nhất nên ông được ... chăm sóc kỹ cho đến ngày ra đi đoàn tụ gia-đ́nh nhờ áp lực quốc tế! Trong hoàn cảnh căng thẳng thường trực của đời sống thời toàn trị đỏ (cấm đoán viết, di chuyển, liên lạc,...), Doăn Quốc Sỹ gửi Đi! in ở ngoài (Lá Bối, 1982), kư bút hiệu mới Hồ Khanh, với ghi chú “sáng tác quốc nội”, cũng như Thanh Tâm Tuyền, Hoàng Hải Thủy và một số nhà văn nhà thơ khác.

Đợt đầu có tính cách tàn bạo, vừa chính-trị vừa h́nh sự, vừa văn-hóa, tâm lư vừa kinh tế, xă-hội, với mục-đích hoàn toàn quật ngă h́nh hài và thân thế người văn-nghệ sĩ sống ở miền Nam Cộng ḥa. Sang đợt hai, lư trí được dùng đến dù tính toàn trị, cả vú lấp miệng em vẫn thịnh trị!






Đợt hai, giới phê b́nh nhập cuộc như Lê Đ́nh Kỵ với Nh́n lại Tư-tưởng Văn nghệ thời Mỹ ngụy (TpHCM: NXB TpHCM, 1987), nhưng người ta nói nhiều đến Trần Trọng Đăng Đàn v́ bộ sách 2 tập của ông, thật ra là một “luận án khoa học Matxcơva” “tiến sĩ 1 khoa học Ngữ văn” (1987), sau được thêm bớt và tái bản nhiều lần và luận án có là nhờ khởi mớm trước với tập Nọc độc Văn học Thực dân mới Mỹ (Tp.HCM : Tp.HCM, 1983). Bộ sách đó có tựa Văn-học Thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975 (Hà-nội : Sự Thật, t. 1-1988; t. 2-1991). Tái bản thêm trang đổi tựa là Văn-hóa Văn nghệ phục vụ Chủ-nghĩa Thực dân mới Mỹ tại Nam Viêt-Nam 1954-1975 (TpHCM; Long An: Thông tin, 1990). Hai lần tái bản gần đây sửa chửa thêm và đổi tựa thành Văn-hóa Văn nghệ Nam Viêt Nam, 1954-1975. (Hà-nội: Thông tin, 1993; HN: NXB Văn-hóa Thông tin, 2000).

Ông Trần Trọng Đăng Đàn dùng phương-pháp nghiên cứu lô-gích và bác phương-pháp lịch-sử để nghiên cứu giai đoạn 1954-1975 văn-học miền Nam này, v́ nếu dùng phương-pháp lịch-sử sẽ phải “bóp méo lịch-sử” và dĩ nhiên chấp nhận nền văn-học đó như là kế tục của nền văn-học Việt Nam truyền thống (1, tr. 12). Ngược lại, ông ta đề cao và coi như chính thống mảng “văn-học tự phát có chỉ huy” của những nằm vùng như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lê Vĩnh Ḥa,... thuộc Lực lượng bảo-vệ văn-hóa dân-tộc và các tờ Tin Văn, Nhân Loại, Công Lư, v.v. tức thứ văn tuyên truyền, dụng-văn cho chính-trị. Với phương-pháp lô-gích, ông phân biệt ba loại văn-học ở miền Nam trong đó loại “văn-học phản động về chính-trị” được chiếu cố tận t́nh, một cách hằn học và phản ... văn-học! Nhất Linh được TTĐĐ tả là “một tay cầm bút phản động trộn lẫn với hoạt động chính-trị phản động mà tên tuổi đă gắn liền với những đảng phái phản động và vơ biền, với những vụ tống tiền man rợ năm 1946 (...) lợi dụng danh nghĩa là một thành viên của chính phủ lâm thời ... đi dự hội nghị Đà lạt đă đánh cắp mấy triệu bạc quỹ công để trốn chạy theo quân Quốc dân đảng Tàu” (1, tr. 82). Tấn công và loại bỏ cả những nghiên cứu văn-học của miền Nam về các thời chữ Hán và Nôm và về văn-học cổ-điển thế giới, ông cảnh cáo là “trận đồ bát quái”. TTĐĐ tức tối khi đề nghị trao đổi văn-hóa của Hà-nội đầu năm 1960 bị các nhà văn, giáo sư của miền Nam chống và hạ giá “văn-hóa” của chế độ cộng-sản miền Bắc, cũng như cố căi là miền Nam đă “phóng đại” vụ “Nhân Văn giai phẩm”!

Trần Trọng Đăng Đàn kết thúc với việc đề cao những khóa “bồi dưỡng chính-trị và văn nghệ” như là ân huệ của cách mạng, v́ cho rằng văn nghệ miền Nam thời này “có tính chất phản động, tồi bại của văn nghệ dưới chế độ thực dân mới - một thứ văn nghệ phục vụ cho chiến-tranh tâm lư, động viên thanh niên đi lính, đánh thuê cho Mỷ, xuyên tạc, bôi nhọ cách mạng, đầu độc nhân dân, đẩy thanh niên vào con đường trụy lạc, du đăng, đĩ điếm, lưu manh, làm băng boại truyền thống tốt đẹp của văn-hóa dân-tộc, chạy theo thị hiếu thấp hèn để mưu việc trục lợi ...”. Theo ông ta, văn nghệ miền Nam bị ba khủng hoảng: “thiếu cơ sở triết lư xuyên suốt (trước học truyết Mác-Lê), thiếu lư tưởng chính-trị và thiếu hiện thực xă-hội ổn định theo một mô h́nh lư tưởng”, v́ cũng theo ông, văn nghệ sĩ miền Nam “ẩn náu trong mặc cảm tội lỗi, trong chiêu bài tự do giả hiệu, trong ảo tưởng về tinh thần nhân-đạo dưới chiêu bài lên án chiến-tranh, ẩn náu trong ngộ nhận có tham gia phản ánh hiện thực xă-hội, và cuối cùng, ngộ nhận rằng họ có đóng góp, có t́m ṭi, sáng tạo về mặt h́nh thức nghệ thuật cho văn-học nước nhà” (1, tr. 102-112). Với ông, nội dung là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của tác-phẩm văn-học và cả h́nh thức nghệ thuật, “ta đ̣i hỏi hai mặt đó đều phải tốt một trăm phần trăm”. Dĩ nhiên, ông ta đă dùng cái phương-pháp lô-gích để đi đến kết luận như thế và đồng thời tự hào về thành quả của “nền” văn-học minh họa và bạo động của họ! Tự hào và dạy dổ này, sau 1987 sẽ bị chính người văn nghệ sĩ trong nước quay mặt, chối bó! Vậy mà khi soạn tập 2 vào năm 1990, ông ĐĐ này vẫn cường điệu chống v́ sợ “xảo quyệt của bọn cầm đầu văn hóa thực dân mới” hô hào “việc loại trừ những tàn tích ‘văn-hóa’, ‘văn-nghệ’ thực dân mới cũng là điều kiện quan trọng để tiếp sức cho những ai thực tâm vươn tới cái thiện”(2, tr. 119) khi Hội Nhà Văn phải ra thông báo cảnh giác hội viên trước “t́nh trạng hỗn loạn sách nguy hiểm làm ngă ḷng những người cầm bút chân chính”. Hội Nhà Văn này cũng là hội được hội viên Nguyễn Huy Thiệp chiếu cố vào đầu năm 2004 qua loạt bài “Tṛ chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn” trên báo Ngày Nay (Hà Nội).

Đầu tháng 6 năm nay 2008, một cuộc tranh luận và lời qua tiếng lại trên diễn đàn Talawas từ khi ông Nguyễn Trọng Văn đưa lên bài viết “Một sĩ nhục cho trí thức”. Lữ Phương xông trận và kết thúc nhanh chóng với “Nói thêm một lần để không nói nữa” (8-7-08) tự biện minh cho việc ông điều hành ban thanh lọc văn nghệ phẩm nằm trong ‘chính sách khủng bố’ văn-hóa miền Nam (Nghị định 20-8-1975) và việc biên soạn cuốn Cuộc Xâm Lăng Về Văn Hoá Và Tư Tưởng Của Đế Quốc Mĩ Tại Miền Nam Việt Nam (1981). Hai ông đều muốn chối bỏ vai tṛ của họ trong việc xóa bỏ văn nghệ tự do khai phóng của miền Nam trước ngày 30-4-1975 cũng như bắt bớ giam cầm không xét xử các nhà trí thức và văn nghệ miền Nam. Riêng Lê Đ́nh Kỵ, soạn-giả cuốn Nh́n Lại Tư-Tưởng Văn Nghệ Thời Mỹ Ngụy (1987) nói ở trên, đă không nhắc lại công tŕnh này trong danh sách tác-phẩm của ông. Đỗ Đức Hiểu cũng vậy đối với cuốn Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa (Văn Học, 1978) của ông.

Ở trong nước, ‘chính sách khủng bố’ văn-hóa miền Nam đó đă thật sự chấm dứt 21 năm sau thời ‘đổi mới’ chưa? Câu trả lời là c̣n, c̣n ít hay nhiều th́ ‘chính sách khủng bố’ vẫn hiện diện, Ít hay nhiều vẫn là Có chớ không phải là Không! Sách báo miền Nam đă thật sự được in lại ở trong nước chưa? Câu trả lời vẫn là một phủ-định. Ngoài các sách dịch, kinh kệ, sách ‘học làm người’, nghiên cứu lịch-sử xa xưa, các truyện t́nh vô thưởng vô phạt hay xă hội thời Pháp thuộc,... th́ các tác phẩm khác vẫn c̣n có vấn đề: Vũ Hạnh và một số quan chức to tiếng gần đây khi nhà Phương Nam muốn in lại mấy tập truyện của Dương Nghiễm Mậu và một của Lê Xuyên, v.v.

Trong ‘học phần’ hiện nay về “văn-học các đô thị miền Nam (1954-1975)” thuộc khoa Ngữ Văn Đại học Đà-Lạt (3), ở mục ‘Văn-học thực dân mới’, sinh viên hăy c̣n được … dạy về hai khuynh hướng chủ yếu là ‘khuynh hướng văn học phản động’ với những tác-giả Nguyễn Mạnh Côn, Doăn Quốc Sỹ, Vũ Khắc Khoan, và ‘khuynh hướng văn học đồi trụy’ với những Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Nhă Ca, Túy Hồng, ‘văn học vừa phản động vừa đồi trụy’ với Nguyễn Thụy Long, Mai Thảo, Chu Tử! Phần kết của ‘học phần’ nhắc qua về văn-học Việt-Nam hải-ngoại như sau: ‘thời kỳ đầu lố bịch, trơ trẽn, thời kỳ sau nhớ quê hương, thân phận di tản”!

Thời gian xảy ra tranh luận trên Talawas, tờ Thanh Niên trong nước số ra ngày 30-5-2008, đăng tin “Tác phẩm trước 1975 ở miền Nam: Không cấm xuất bản, nhưng phải lựa chọn” thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông qua buổi trả lời trực tuyến với chủ đề “Hoạt động xuất bản, in, phát hành sách Việt Nam góp phần nâng cao dân trí, đổi mới và xây dựng đất nước” được tổ chức hôm 29-5 tại Hà-Nội, khi trả lời câu hỏi về việc tái bản, xuất bản những tác phẩm trước năm 1975 ở miền Nam Việt Nam không do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam cho phép, đă cho biết “đối với những tác phẩm thuộc loại này, pháp luật Việt Nam (bao gồm cả Luật Xuất bản) không cấm xuất bản. Tuy nhiên, khi khai thác các tác phẩm này để giới thiệu đến bạn đọc phải lựa chọn những tác phẩm phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Khi công bố các tác phẩm trên phải tuân theo các quy định của Luật Xuất bản”. Như vậy, di sản của các chính sách này hăy c̣n thời sự tính, v́ vẫn c̣n đó dù không c̣n công khai thừa nhận - lại ‘đổ tội’ cho ‘Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam’, dù đă hơn 20 năm ‘đổi mới’, đất nước và người dân Việt-Nam vẫn chưa thấy biết thế nào là ‘glasnost’ vốn là đứa con sinh đôi với perestroika và của thật sự kinh tế thị trường! Phải chăng ở các chế độ chuyên chính và độc đảng, Sự Thật chỉ có thể t́m thấy trong những phần hồi kư bị kiểm duyệt cắt bỏ, như hồi kư của Đào Duy Anh (Nhớ Nghĩ Chiều Hôm), Nguyễn Hiến Lê, Lư Quư Chung, v.v., hay những thơ văn viết cuối đời hoặc chỉ công bố sau khi mất, như của Chế Lan Viên (Di Cảo Thơ), Nguyễn Khải (Đi t́m cái Tôi đă mất, tùy bút chính-trị), v.v. ?

Chuyện cấm đoán, đốt sách báo miền Nam mục-đích “đạp đổ” văn-hóa miền Nam, để làm mất tinh thần, để ai c̣n lưu luyến phải sợ hăi, lo lắng thường trực, c̣n để giảm thiểu những phản kháng, chống đối và gieo nghi ngờ, để mọi người quên đi lịch-sử, quên những thứ mà “văn-hóa mác-Lê” không thể đem lại cho người dân. Nhưng mục-đích ấy có thành công không? Hay sự thật vẫn là sự thật?



Sau Cởi Trói 1986


Với những biến-động xáo trộn đến căn bản cục diện thế-giới của thời hậu-chiến-tranh-lạnh (perestroiska 1985, bức tường Berlin, Thiên An Môn 1989), trong nước phải “đổi mới” dù dè dặt đổi có vẻ mới đến đổi như cũ, phải “cởi trói” văn nghệ sĩ, dù cởi rồi trói nhưng dần dà cũng có những thay đổi thật, khởi từ tâm trí, ư chí đưa đến hành động. Những Nguyễn Huy Thiệp và Nguyên Ngọc tận dụng kẻ hở Cởi để nói cái riêng, cái “trật đường rầy”, những phản tỉnh chính-trị và đào thoát từ đó đă xảy ra. Nhà văn Nguyên Ngọc là người đă công khai hóa cái phản tỉnh này, trong “Đề cương đề dẫn thảo luận ở hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học”vào tháng 6-1979 (nhưng chỉ được in trên báo Lang Bian số 3, 4-1988, 9 năm sau!), ông đă đặt nghi vấn :”... Phải chăng lúc này có hiện tượng không ít phổ biến là người viết, vẫn cứ viết mà không thực tin ở chính điều ḿnh viết ra: người là muối mà chính người lại không mặn th́ biết lấy ǵ để muối người...”. Cũng từ đó ở trong một quốc-gia toàn-trị độc đảng mới có những ấn-phẩm in ra bị thu hồi rồi in lén, mới có hiện-tượng in sách hoặc của tác-giả từng bị cấm hoặc đang “phản bội” lại Nhà Nước. Không ǵ ra ngoài ṿng dịch-lư của trời đất, khi ra nghị định và chiến dịch hủy hoại, bôi xóa văn-học “phản động, thực dân mới Mỹ Ngụy” là đă gây mầm hồi sinh, tưởng tiếc cho nền văn-học và những con người làm văn-học thời đó. Vào Nam, Dương Thu Hương và những người làm văn nghệ của miền Bắc đă công khai hoặc gián tiếp nh́n thấy và cảm nhận sự thật và những cái đẹp, cái hay của cuộc đời và con người nơi đây!

Nhưng người cộng-sản Việt-Nam vẫn dùng Đảng cộng-sản như lá bùa để tiếp tục bắt bớ, cầm tù dân chúng cũng như người làm văn-nghệ thời trước 1975. Dù đă tuyên truyền Cởi Trói văn-nghệ từ cuối năm 1986, nhưng vào cuối năm 1990, công an cộng-sản vẫn lại bắt bớ những nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, Hồ Nam, Phạm Thái Thủy, các nhà thơ Vương Đức Lệ, Tô Thùy Yên, cùng Đoàn Viết Hoạt, dân biểu Nguyễn Mậu, v.v.

Mặt khác, những người làm văn nghệ miền Nam bị định mệnh xếp vào hàng “thua trận” đă không có ai viết để tự chối bỏ và trát tro bạn bè cùng hoàn cảnh; trái lại có người như Nguyễn Hiến Lê trước có cảm t́nh với “cách mạng” nay viết Hồi-kư phê phán và tỏ hối hận. Sống trong một chế độ như vậy, đánh giá các văn nghệ sĩ là một việc khó khăn và đầy tế nhị! Sau khi có chính sách “đổi mới”, từ 1988, đă có những nổ lực thẩm định lại những tác giả và tác phẩm từng bị kết án là phản động (và có cả tác giả bị thủ tiêu!): Trương Vĩnh Kư, Hồ Biểu Chánh, Tự-Lực văn-đoàn, Nam-Phong tạp-chí, phong trào Thơ Mới,... Nghĩa là trước khi “cho phép” “mồ ma miền Nam” được quật làm ... khảo cổ, đă có những “mồ ma, cô hồn” khác được khai quật trước, v́ lần hồi đă có những nhà nghiên cứu đi trước rồi nhà báo, nhà văn theo sau, dám “cởi mở” hơn khi nhắc đến và bàn đến những tác-giả nhiều thập niên trước đó vẫn có “vấn đề” chính-trị, cách-mạng, cải lương xă-hội, v.v. như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Quang Dũng, các tác-giả thuộc nhóm Tự Lực Văn đoàn, Tân Dân hay Nam Phong tạp-chí, cũng như các tác-giả miền Nam như Trương Vĩnh-Kư, Hồ Biểu-Chánh, v.v. Đoàn Phú Tứ và bài thơ Màu Thời Gian được “phục hồi”, hết bị “oan” đă “rơi vào hố thẳm của nghệ thuật tư sản bế tắc”!

Những “tọa đàm” và hội nghị gọi là “khoa-học” được liên tục tổ-chức dù giới lănh đạo văn-hóa vẫn chưa theo kịp thời đại: về Tự Lực văn đoàn 1988, về văn-học miền Nam thời khởi đầu ở trong Nam 1989, về Hồ Biểu-Chánh tại Tiền giang 1988, tọa đàm“Trương Vĩnh-Kư với vấn-đề văn-hóa” tại Sài-g̣n 8-2001, v.v. Một số tuyển tập từ các hội nghị này được xuất-bản đánh dấu những sửa sai, nói lại, đánh giá lại, có thể kể: Truyện Ngắn Nam Phong; Tự Lực Văn Đoàn: con người và văn-chương (1990); Tự Lực Văn Đoàn Trong Tiến Tŕnh Văn Học Dân Tộc (2000),... Các nhà nghiên cứu văn-học như Vũ Gia xuất-bản các nghiên cứu của ông về Nhất Linh, Hoàng Đạo (1997), v.v. Một số nghiên cứu và lư luận gia cộng-sản thay đổi lập trường 180 độ, viết lại theo quan điểm mới những ǵ chính họ đă viết thời trước đó. Nhất Linh được đề cao là “một tấm ḷng thiết tha canh tân văn-hóa dân-tộc”, tựa một nghiên cứu trên tờ văn-hóa nghệ-thuật (242, 8-2004). Phạm Cự Đệ, một văn-học sử gia, từng xổ toẹt giá trị của Tự Lực văn đoàn, Vũ Trọng Phụng, phong trào Thơ mới,... trong những nghiên cứu Tiểu Thuyết Việt Nam Hiện Đại (1974-5), đă gọi Xuân Thu Nhă Tập là “nghệ thuật tắc tị, kín mít, khó hiểu”(4), nay lập luận (nghịch) lại theo Cởi trói. Năm 1989, ông theo thời “hội luận, hội thảo” nh́n khác về Tự Lực văn đoàn “có hoài băo về một nền văn-hóa dân-tộc và thực sự đă đóng góp lớn cho nền văn-học dân-tộc”(5). Khoảng năm 2000, ông đăng báo hải-ngoại đánh tiếng thu góp ấn-phẩm của người Việt hải-ngoại để ... nghiên cứu và viết lại lịch-sử văn-học cả thế-kỷ. Một tập tổng luận Văn-Học Việt Nam Thế Kỷ XX: những vấn-đề lư-luận và lịch-sử do ông chủ biên được nhà xuất-bản Giáo dục in năm 2004 (971 tr.) trong đó các soạn giả đă “thừa nhận” vài vị ở hải-ngoại như Nguyễn Mộng Giác, Nam Dao, Thụy Khuê, Đặng Tiến, Nguyễn Hưng Quốc,... Thơ hải-ngoại và vài khuynh-hướng mới cũng được nhắc nhở tới! Về phần các nhà văn ở miền Nam trước 1975, họ được nói đến nhưng chưa đủ tầm quan trọng đóng góp của họ! Dù sao, đă có khác với những tổng kết trước đó như Nh́n Lại Một Chặng Đường Văn-Học (Nxb TPHCM, 2000) của Trần Hữu Tá. Theo tập này th́ trong 21 năm (1954-1975), người cộng-sản và nằm vùng thân Cộng vẫn độc diễn và đóng vai chính, người cầm bút quốc-gia chân chính vẫn bị phỉ báng, kết án, nhưng nhiều nhà văn thơ không làm chính-trị đă được Trần Hữu Tá đưa vào ... sử, như các nhà văn Vơ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, nhà thơ Kim Tuấn, v.v. hoặc “lôi kéo” rất phớt qua như B́nh Nguyên Lộc, Nhật Tiến (tr. 96)!







Ngoài các tác-phẩm được tái bản riêng từng tập, các tác phẩm của các tác giả thuộc Tự Lực văn-đoàn và tiền chiến đă được in lại lần đầu trong tuyển tập Văn Xuôi Lăng Mạn Việt Nam (1930-1945) (1989-90, gồm 8 tập), sau đó có bộ Văn Chương Tự Lực Văn-Đoàn (1999) 3 tập. Một số tác-giả trước đó từng bị phê phán, cấm đoán xuất-bản và sinh hoạt, từ những năm kháng-chiến 1945 đến khoảng 1987, những nhà văn liên hệ đến vụ án Nhân Văn giai-phẩm hoặc xét lại như Quang Dũng, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Vũ Trọng Phụng, Đoàn Phú Tứ, Hàn Mặc Tử,... người đă quá cố người c̣n sống (ṃn) lần lượt được xét lại, từ 1988, được các cơ quan báo chí và hội của Nhà Nước nhắc nhở tên tuổi hoặc được xuất-bản công khai (Quang Dũng, Đặng Đ́nh Hưng,...) hoặc t́nh cờ, kiên tŕ (Phùng Cung với tập thơ Xem Đêm 1995; Hoàng Cầm với Mưa Thuận Thành 1988, c̣n tập Về Kinh Bắc th́ chờ từ 1959 đến 1994 mới được xuất-bản dù vẫn có điều kiện!), v.v. Các tác-phẩm gọi là “di tác” của Ngô Tất Tố thời tiền-chiến đă được tuyển in lại toàn bộ (!) từ những công tŕnh t́m kiếm từ nhiều năm qua, ở trong nước cũng như qưa các thư viện và văn khố của các nước như Pháp, Hoa-Kỳ. Một công tŕnh khá đồ sộ, chia thành nhiều tập: Ngô Tất Tố - Chuyện Người Đương Thời, Kư Sự và Truyện Ngắn, NTT - Tiểu Phẩm Báo Chí, NTT - Thơ, Thơ dịch và B́nh thơ, trong đó có nhiều nghiên cứu cũng như sáng-tác, dịch thuật mà nhiều người thời sau chưa hề được đọc. Và về biên-khảo văn-học, trong nước đă xuất-hiện rất nhiều công tŕnh mới. Bên cạnh những tuyển tập xào soạn lại từ những ấn bản trước vẫn có những biên-khảo văn-học sử và phê-b́nh lư luận có giá trị thông tin và lịch-sử. Một số tên tuổi về nghiên cứu và lư luận phê b́nh ở hải ngoại được nhắc đến, tham khảo, trích dẫn nhưng đáng tiếc có vài “nhà nghiên cứu, phê b́nh” ở trong nước đă trích dẫn, “luộc” ư và cả cắt/dán bản văn của người ở ngoài - mà cá nhân chúng tôi cũng đă ‘nhận diện’ bản văn và ư của ḿnh trong một số bài viết và sách ở trong nước.

Nhưng cũng từ đó, một số giáo sư, nhà văn của chế độ Việt Nam Cộng-ḥa được tham khảo, lên tiếng hoặc nghiên cứu công khai trở lại, những giáo sư Nguyễn Văn Trung, Bằng Giang, Vũ Văn Kính,... Một số nhà văn thơ miền Nam cũ bắt đầu cộng tác hoặc gửi đăng bài trên các báo và cuối cùng th́ xuất-bản sách công khai như 30 năm trước, của những Lê Phương Chi (Tâm T́nh Văn-nghệ Sĩ - những phỏng vấn trên Bách Khoa và Tin Sách thập niên 1960, tiếc là văn bản đă ‘hiệu đính’ lại), Thế Phong (kư Thế Nhật), Nguyễn Tôn Nhan nhà thơ thành học giả (Từ Điển Văn Học Cổ Điển Trung Quốc, Từ Điển Thành Ngữ Trung Quốc, Từ Điển Hán Việt: Văn ngôn dẫn chứng, Kinh Lễ, v.v.), Huỳnh Phan Anh (Không Gian Và Khoảnh Khắc Văn Chương tuyển trích lại những bài từ hai tập trước 1975 và bài mới viết về các tác giả ngoại quốc), v.v. Về phần sáng tác tái xuất những Cao Thoại Châu (Bản Thảo Một Đời, 1991), Nguyễn Bắc Sơn (Đời Như Một Nhà Thơ Đông Phương 1995), Huy Tưởng (Hỏi Đường Cùng Mây Trắng,..), Trần Dzạ Lữ (Hát Dạo Bên Trời 1995) và Gọi T́nh Bên Sông 1997 được xuất bản sau hơn 30 năm góp mặt với làng thơ), Ngy Hữu (Thị Trấn Khô, được thân hữu xuất bản sau khi mất), v.v. Cả xuất-bản và gửi tác-phẩm ra ngoài nước một cách công khai hơn trước đó: Nguyễn Thụy Long xuất-bản nhiều tập Hồi Kư Viết Trên “Gác Bút” 1999, Thuở Mơ Làm Văn Sĩ 2000, Giữa Đêm Trường 2000, Thân Phận Ma Trơi 2000,..., Thế Phong gửi xuất-bản Hồi Kư Ngoài Văn-Chương, Văn Quang gửi bài đăng trên Internet, trở thành giây liên lạc trong ngoài, giúp vài nhà văn và xuất-bản Sài-g̣n Cali 25 Năm Gặp Lại 2000, Ngă Tư Hoàng Hôn 2001, các phóng sự tiểu-thuyết Lên Đời 2004-5, v.v. Ở đây chúng tôi không muốn nói đến “tác-phẩm” của những nhà văn thơ theo cộng hoặc nằm vùng v́ dĩ nhiên được trả công nhất là những năm đầu sau 1975. Nay th́ “chân dung” nhiều người trong số đó đă phải nhiều tang thương khác!

Kế đó là hiện-tượng sách và sách dịch của các nhà văn sống thời Việt Nam Cộng-ḥa từng bị cấm, nay được t́m kiếm để in lại.Chúng tôi không tham khảo được thư-mục ấn phẩm hàng năm của Thư Viện quốc-gia Hà-nội, nhưng cũng được thông tin về hiện-tượng này. Các tác-giả của miền Nam lần hồi được in lại, bắt đầu với Thế Uyên, Nguyễn Mộng Giác với bộ Sông Côn Mùa Lũ (Hà-nội: Văn-học, 1998) - đă là một “biến cố” (không văn-học dĩ nhiên!) cùng thơ và sách Bùi Giáng, truyện Ngọc Linh, B́nh Nguyên Lộc, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ,... Các nghiên cứu văn-hóa dĩ nhiên được dùng lại, cả trang trọng giới thiệu, như của Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục,... Vấn-đề nay không c̣n là in được hay được in mà là vấn-đề bản quyền! Khi có dịp “tham quan” nước ... cựu-thù Hoa Kỳ và Pháp, nhiều người đến các thư viện quốc-gia và đại-học tham khảo và cả lợi dụng chụp phóng ảnh đem về trong nước in lại. Thử hỏi nếu không có những “tên” thực dân mới (HK) cũ (Pháp) giữ hoặc tặng cho các văn khố và thư-viện th́ gia tài văn-hóa Việt Nam làm sao t́m lại được từ những tro tàn “phần thư” thời đại mới gây ra?

Cũng cần nói đến hiện-tượng sách miền Nam ấn bản in trước 1975 từng bị cấm (và đốt) nay đă (tái) xuất hiện ở các thư viện đại học trong nước như ĐH Sư phạm Sài-g̣n. Xin ghi lại vài tựa sách: Chiến Tranh Cách Mạng: tiểu luận và tài liệu (Thế Uyên. Sài g̣n: Thái Độ, 1968, số định danh: 355.4 TH250U-ch); Tổng Thức Vận Toàn Diệu: vận mệnh ḍng tổng hợp các nhận thức toàn (Lư Đại Nguyên. Sài g̣n: Lư Đại Nguyên, 1956, số định danh: 181.197 L600NG-t), Mối t́nh màu hoa đào (Nguyễn Mạnh Côn. Sài g̣n: Giao Điểm, 1967), toàn bộ của Nguyễn Văn Trung và Nghiêm Xuân Hồng trong có Cách mạng và Hành động (Quan điểm, 1964, số định danh: 909.7 NGH304H-c), cũng như một số sách của Tạ Tỵ (2), Doăn Quốc Sỹ (13), v.v. Nếu không có sách của người và đảng cộng-sản Việt Nam bên cạnh th́ người mơ ngũ sẽ tưởng đang ở Sài-g̣n ... trước 1975!

Gần đây nhiều nhà văn chúng tôi biết đă in sách trong nước (rẻ và đẹp hơn) từ thơ đến truyện, như Phạm Ngọc (Mùa Khát Vọng, NXB Đà Nẵng, 2004). Nguyễn Ước đă in lại nhiều bản dịch về tôn giáo và văn-hóa. Đấy là nói về sách xuất-bản hoặc tái bản đàng hoàng hoặc cửa sau, chưa kể đến những vụ “luộc sách” (in ăn cắp sách)! Nguyễn Thị Thanh B́nh có ghi trên b́a tập truyện Dấu Ấn xuất-bản 2004 rằng bà từng in chui ở Việt Nam. Nhà thơ Phan Nhiên Hạo (Chế Tạo Thơ Ca 2004) gần đây đă gửi đăng thơ trên báo trong nước (Người Hà-Nội,...) và được trân trọng giới thiệu với người đọc trong nước (Văn-Nghệ Trẻ, 25-2-2005). Trần Thiện Đạo sống ở Pháp và từng cộng tác tạp-chí Văn thời Trần Phong Giao cũng xuất bản Chủ Nghĩa Hiện Sinh Và Thuyết Cấu Trúc(NXB Văn học 2002) và Cửa Sổ Văn Chương Thế Giới (NXB Văn hoá Thông tin, 2003). Một số khác trước sau về Việt-Nam lại ngỏ ư muốn về sống ở trong nước!? Nguyễn Quốc Trụ về trong nước lên báo trong đề cao cái trong. Nhà thơ Du Tử Lê về nhưng tuyển tậpThơ T́nh (NXB Văn-nghệ TP HCM, 2005) của ông đă in và được Trần Mạnh Hảo, v.v. trân trọng giới thiệu đă xuất lại bị tịch thu và cấm! Yên Tử cư-sĩ Trần Đại Sỹ (Nam Quốc Sơn Hà 2003, Anh Hùng Tiêu Sơn NXB Trẻ 2003, Anh Hùng Đông A Dựng Cờ B́nh Mông2004),... xâm nhập thị trường tiểu-thuyết lịch-sử trong nước. Nhiều người viết ở Đông Âu từng đi lao-động và tị-nạn nay xuất-bản trong nước: Nguyễn Văn Thọ in thơ Mảnh Vỡ, Cửa Sổ, Bên Kia Trái Đất, tập truyện Gió Lạnh, Vàng Xưa (2004), giải thưởng của báo Văn Nghệ, hội Nhà văn Việt Nam và báo Văn nghệ Quân đội, tập tùy bút Đào Ở Xứ Người (2005), Lê Minh Hà xuất-bản các tập truyện Gió Từ Thời Khuất Mặt và Thương Thế Ngày Xưa (2005) và Những Giọt Trầm sau khi đă thành công với độc giả Việt Nam ở hải-ngoại; Phạm Hải Anh, giải thưởng của hội Nhà văn Việt Nam 2003 với Đi Hết Đường Mưa (bạt Vương Trí Nhàn, NXB Hội Nhà văn 2002) sau Huyết Đằng 2001 in ở Cali do nhà Văn Mới (và T́m Trăng Đáy Nước 2003) - hai nhà văn nữ này in chung tập truyện Sâm Câm (NXB Phụ Nữ 2004), Thế Dũng với Hộ Chiếu Buồn, v.v. Thuận sống ở Pháp, sau khi in Made in VietNam, Paris 11 tháng 8 vàChina Town / Phố Tàu (NXB Đà Nẵng, 2005) được Nguyên Ngọc đề cao, tự xem như nhà văn trong nước. Nguyễn Ḥa gần đây khi phê b́nh tập Văn-Học Việt Nam Thế Kỷ XX của Phan Cự Đệ đă đặt nghi vấn: “...với văn học của người Việt ở hải ngoại chẳng hạn, khi mà trong những năm gần đây, tác phẩm của một số nhà văn lâu nay đă định cư ở nước ngoài như Nguyễn Mộng Giác, Thế Dũng, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Quỳnh Trang Cindi Nguyen, và gần đây nhất là của Thuận... đă được xuất bản trong nước th́ có nên, dù chỉ là bước đầu, bàn đến văn chương của người Việt ở hải ngoại?” (evan.com, 31-3-2005).

Biên-giới trong-ngoài có c̣n không? Một số dùng tiền mua bảng hiệu nhà xuất-bản trong nước để in sách đem từ ngoài về, số khác người trong cuộc mới biết như Nam Dao (Trăng Thuê Ảo Ảnh NXB Lao Động và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây 2008), Mai Ninh (Ảo Đăng 2003, do Nguyên Ngọc đề tựa - lại Nguyên Ngọc!) - tất cả đều do Hội Nhà Văn Hà-nội xuất-bản. Mai Ninh in thêm Cá Voi Trầm Sát (Nxb Trẻ, 2004). Hai cây viết “du học” này đi theo khuynh-hướng thời thượng ngoài-in-trong của nhiều nhà văn đi trước. Thực hư lịch-sử sẽ phán nhưng chúng tôi ước đoán mấy “trí thức” ngụy-tín và dân du học từng phản chiến hoặc thờ ma cộng-sản trước 1975 sẽ là nhóm ra mặt tung hoành mảnh đất lắm người nhiều ma của thị trường chữ-nghĩa ở hải-ngoại cũng như trong nước và mặt trận đă... bắt đầu! Ngoài ra, “mảng” văn-chương “thuần túy, vị nghệ-thuật” đă có nhiều giao lưu, hợp tác. Các tạp-chí Thơ, Văn Học, Hợp Lưu, v.v. đă là nơi gặp gỡ thường xuyên. Tuy nhiên “mảng” “văn-học đấu tranh” là mảng nhiều cảm tính và lư tưởng sống chết th́ trong hay ngoài nước vẫn là những con đường rầy xe lửa không ga bến. Trong hoàn cảnh giao thời đó, nhóm Thư Quán Bản Thảo ở Hoa Kỳ đăng thơ văn trên tạp-chí cùng tên và xuất-bản các tập thơ và truyện của một số thân hữu (của họ) đang sinh sống khó khăn hoặc bệnh tật trong nước hoặc đă mất. Các số đặc biệt về nhà văn Y Uyên, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Nguyễn Bắc Sơn, Vơ Hồng, Trần Dzạ Lữ, v.v. và tái bản một số tập thơ văn như Chiến-Tranh Việt Nam Và Tôi của Nguyễn Bắc Sơn, v.v. Ngoài ra, Thư Ấn Quán đă đặc biệt sưu tập và xuất-bản các tuyển tập thơ văn như Tuyển Truyện Thời Chiến của Y Uyên, Một Thời Ư Thức, Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thơ Tự Do Miền Nam, Thơ T́nh Miền Nam (1954-1975), Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến, v.v.

Ở trong nước, lư luận thay đổi và ngôn-ngữ sử-dụng cũng đă thay đổi theo thời. Những từ “Ngụy, Mỹ Ngụy, bù nh́n, thực dân mới, v.v.” dần mất trong diễn văn chính thức, chỉ sử-dụng khi cần cảnh cáo hay lo sợ phản-kháng. Mỹ trở thành bạn làm ăn, trao đổi thương mại sau trao đổi giáo dục, xă-hội! Việt kiều “đĩ điếm” trở thành “khúc ruột ngàn dặm” được nâng niu, nhắc nhở mỗi khi nói đến ... tiền, kinh tế và ... tái thiết! Nghĩa trang Quân đội Biên Ḥa có thể sẽ được trùng tu. Nguyễn Cao Kỳ về nước mối lái cho tư bản Mỹ, quay mặt lại đồng đội của ông với vài tuyên bố scandale. Thiền sư Nhất Hạnh cùng phái đoàn cả trăm người cũng về nh́n lại quê hương th́ đă trễ, họ không c̣n có cơ hội chứng kiến các trại “cải tạo” và vùng “kinh tế mới”, lúc đó mà họ về giảng thuyết nhân bản, từ bi th́ đă quá đắc sách và lưu lại hậu thế một tấm gương không nứt rạn được! Ngoài ra, những trục trặc đối với tập Thơ T́nh của Du Tử Lê và vụ Nguyễn Hưng Quốc bị cấm nhập cảnh vào giờ chót ở phi trường cũng đáng gây suy nghĩ về “diễn văn” và luật lệ của lănh đạo và quan chức trong nước!

Tựa sách của nhà lư luận cộng-sản Trần Trọng Đăng Đàn nói trong phần đầu bài này được đổi từ “ Văn-học thực dân mới Mỹ ở miền Nam” ra “Nam Việt Nam” khi tái bản năm 1993 và 2000 một cách ... “nhẹ nhàng”! Dù vậy, ông này mới đây vẫn giật ḿnh đ̣i hỏi ... lùi: trong một hội thảo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh đă tổ chức cuộc về Lư luận - Phê b́nh vào 20-3-2004, TTĐĐ đă cảnh giác đồng nghiệp và chỉ đạo: “Lượng thông tin tổng hợp hôm nay lớn. Tổ chức Hội đồng LLPBTƯ là cần thiết, nhưng tổ chức “chóp bu” chưa nắm được lực lượng, tổ chức được lực lượng. Vấn đề hiện nay nằm ở phần lư luận. Trước kia tập trung đánh giặc, chín bỏ làm mười. Hiện nay, trong các giảng đường ta giảng về lư luận thế nào? Ta phải có một êkíp nắm được, hiểu được đối tác, đối đầu là ai để làm việc. Có một số người quá khích ở nước ngoài nói rằng: “Về văn hoá các anh thua rồi, bây giờ không c̣n ǵ để nói nữa”. Có thật vậy không?”. Chính-trị th́ có lư do để lo xa và paranoi, c̣n toàn trị ngày nào th́ không lạ ǵ những biện pháp đối với văn nghệ sĩ!

Ở trong nước, từ hơn mười năm nay, những người nghiên cứu của nền văn học vẫn nổi tiếng là “một chiều, phải đạo, minh họa” đă có những cố gắng thay đổi cách nh́n và cách nghiên cứu. Không dễ! Hội thảo của Hội đồng lí luận phê b́nh văn học, nghệ thuật trung ương ngày 14-1-2005, tại Hà-Nội, vẫn loay hoay trong địa-đạo quản-lư chỉ-huy “... quan hệ giữa chính trị và văn nghệ là vấn đề có tầm quan trọng cần được chú ư nghiên cứu một cách sâu sắc, thuyết phục. Bản chất ư thức hệ của văn nghệ là điều không thể phủ nhận. Nhưng mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị nằm trong các mối quan hệ nhiều mặt giữa văn nghệ và văn hoá, kinh tế, đời sống v.v& tự thân nó cũng là quan hệ nhiều chiều. ở đây cần tránh các quan niệm cực đoan, đi t́m văn nghệ thuần tuư, hoặc xem văn nghệ chỉ là vũ khí phục vụ một cách thô thiển cho chính trị” (Văn Nghệ, 25-2-2005).

Từ hai thập niên qua, chữ nghĩa văn chương bị kinh tế thị trường xô đẩy, biến dạng, nhường chỗ cho một chợ sách báo đáp ứng những nhu cầu mở tầm mắt, học hỏi kiến thức ngoài sau nhiều thập niên bị cấm đoán, đưa đến nhu cầu sách báo phổ thông, kiến thức tổng quát, thường là những bản dịch từ sách báo Âu Mỹ trong số đă có những bản dịch từ nhiều thập niên trước đó ở miền Nam Cộng Ḥa mà đă từng trớ trêu bị đốt hủy và cấm sau tháng 4-1975 như của các tác giả J.-P. Sartre, A. Camus, E. Caldwell, F. Nietzche,..., như sách y học phổ thông, sách “học làm người”, “tổ chức khoa học” đời sống, công việc,... Văn học rút gọn lại trong những ấn phẩm tuyển tập về những tác giả đă thành danh, cả những nhóm và tác giả từng bị phỉ báng và cấm đoán hoặc các tuyển tập truyện Âu Mỹ. Thời của dịch giả và nhà xuất bản tư và cả công nếu biết theo thời. Dịch đủ thứ, cả lư luận phê b́nh mà quên phát triển luận lư văn-chương nội hóa. Với sự giúp đỡ của nước ngoài như tạp-chí Văn-Học Nước Ngoài thuộc Hội Nhà Văn Việt Nam.Pháp tái lập trường Viễn-đông bác-cổ (EFEO), xuất-bản và trợ cấp in sách báo. Nước Đức giúp dịch và in lại H. Hesse cũng như giúp tổ chức các tọa đàm. Các nước khác như (Thụy Điển, Áo, Nhật, Đại Hàn (khuynh hướng mới từ khi phim bộ Hàn quốc được thay món Trung quốc),... cũng vào trong quỹ đạo mới đó! Nhà văn hội viên Hội nhà văn quốc doanh trở nên dịch-giả dễ kiếm được lợi nhuận và có thể được mời ra nước ngoài tham quan. Các nhà văn nhà báo của miền Nam (Hoàng Ngọc Tuấn, Phan Kim Thịnh, Lư Hoàng Phong,...) cũng nhờ mốt dịch mà sống c̣n! Cũng có một khuynh hướng phỏng dịch về lư thuyết văn-học, nằm trong khuynh hướng chung ở trong nước đua nhau dịch, mà từ mấy năm qua đă trở thành tranh luận, phê phán, có khi rất nặng nề hoặc thù cá nhân.

Có thể nói nếu không có chính sách Cởi trói văn nghệ, đă không có những công tŕnh nghiên cứu mới mẻ về hai nền văn học Miền Nam thế kỷ XIX cũng như miền Nam tự-do trước 1975. Và đă có “giao-lưu, gặp gỡ”! Tác-phẩm và tác-giả từng bị cấm đoán bằng nghị định và chiến dịch như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Duyên Anh,... được nhắc đến. Trần Trọng Đăng Đàn và các nhà “phê b́nh” của Viện Văn học Hà-Nội có tấn công thơ tự do mà họ gọi xiên xỏ là “bí hiểm”, “tắc tị”, “quái thai”, “hỗn tạp những rối rắm quái gở”, “những thứ ngôn-ngữ ô uế tới mức thô bỉ” (6) và “dựng lại cái thây ma mà mười lăm năm về trước những người trong nhóm Xuân Thu nhă tập đă nêu lên”. Đó là mặt nổi của tuyên truyền, v́ mặt khác, ngay từ 1977 họ đă sợ thứ văn-học hư hỏng của miền Nam đó được người “chiến thắng” lén lút t́m đọc thời c̣n bị cấm. Dù bị cấm. đe, nhưng họ thú nhận đă không thành công,“không thể thỏa măn với những công việc chúng ta (CSVN) đă làm (...) những đoạn nhạc vàng vẫn truyền đi trên các băng ghi âm một cách bất hợp pháp, những cuốn tiểu-thuyết, những tập thơ mang nội dung phản động hoặc đồi trụy vẫn được chuyền tay nhau, không những ở các tỉnh miền Nam mà ngay cả ở một số thành phố miền Bắc (...) Chúng ta phải đề cao cảnh giác, không thể xem nhẹ những tác hại của nó được” (7). Trong nước đă có những nghiên cứu “cởi trói”, đă có cái nh́n “khách quan” hơn. Trần Thị Mai Nhi viết về “nhóm Sáng Tạo” đă nh́n nhận họ “muốn có một ‘đường hướng sáng tạo’, muốn là ‘kẻ sáng tạo ngôn ngữ trong thơ ca’(...). Họ muốn đổi mới niêm luật, cú pháp, chấm câu, từ ngữ trong thơ cả. Rồi việc họ chấp nhận thứ ‘tiếng của vỉa hè’ cũng không hoàn toàn chỉ là một sự lập dị. (...) Đúng thôi, văn học Sài G̣n gặp văn học phương Tây ở quan niệm thẩm mỹ...” (8). Bùi Giáng được chiếu cố nhiều nhất, được khám phá đủ chiều, có tạp-chí như Thời Văn ra cả số đặc biệt. Hoàn cảnh mới đă cho phép những phát hiện mới, mà sau nhiều thập niên mù quáng v́ chiến tranh, có những cái đă bị biến hủy nhưng cũng có những nhận diện, cảm thông về những cái tưởng đă chết hoặc yếu đi như tôn giáo. Vả lại, tôn giáo đă trở nên nguồn sống tâm linh của nhiều người, kể cả cán bộ. Cuộc chiến chính thức tàn năm 1975, những thất bại của chuyên chính từ 1975 đến 1986 đưa đến Cởi Trói như một lối thoát dọ dẫm có cái hay là đă tạo môi trường những cố gắng mới với quan điểm mới hơn, dân tộc hơn, tổng hợp hơn. Trong hoàn cảnh đó càng ngày càng có những nghiên cứu trở về với truyền thống dân tộc thật sự, đó là điều nên mừng. Bước đầu khó khăn đă có người đi, dĩ nhiên c̣n cần nhiều nghiên cứu sâu xa và khách quan hơn nữa!

Về văn-học hải-ngoại, gần đây trong nước đă có những nhận xét khác tiếng nói chính thức, như một bài viết của Nguyễn Vĩnh Nguyên trên báo Sài G̣n Tiếp Thị được tờ Tuổi Trẻ On-line (10-6-2005) đăng lại. Nhân điểm qua một vài cây viết phần lớn xuất phát từ miền Bắc xă-hội chủ nghĩa, ông cho rằng: “Văn học hải ngoại, bản thân cũng chia nhiều hướng; tuy nhiên với bạn đọc VN, chúng ta chỉ nên xét trên cơ sở những gương mặt đă xuất hiện tác phẩm và gắn bó với ḍng chảy của văn học trong nước, có tác động không những với cộng đồng nơi nhà văn sống và viết mà c̣n với người đọc trong nước. (...) Môi trường văn chương đă bắt đầu có những hé cửa tiếp nhận sự đa tuyến, đa chiều. (...) Sự phân chia giới tuyến trong và ngoài nước trên lănh địa văn học suốt ba mươi năm qua có lẽ đă quá đủ. Hợp lưu đang là vấn đề đang được hoá giải theo thời gian. Hẳn rằng, với nhiều nhà văn chân chính ở hải ngoại, không bị câu thúc bởi những hằn học quá khứ và những lư do cầm bút phi văn chương, ai cũng muốn được hợp lưu trước khi hội nhập. Nh́n nhận và đón nhận ḍng chảy văn chương hải ngoại là một câu thúc nội tại để đưa nền văn học phát triển hơn. Trong ṿng khoảng 5 năm trở lại đây, có thể nói, lực lượng này đă có nhiều đóng góp, thậm chí có những tác phẩm sau khi được in tại quê nhà, thực sự gây bất ngờ đối với những đồng nghiệp trong nước lâu nay măi lúng túng không t́m được cái nh́n mới về những vấn đề đời sống đương đại” (9).

Dù có một số chữ dùng khác biệt, người Việt trong và ngoài nước vẫn có thể đọc sách báo của nhau, t́m hiểu nhau và có những đồng tâm, tri kỷ về một số sự việc và vấn đề lớn nhỏ. Người viết xuất-bản chung trong ngoài, đă có nhiều thử nghiệm, lúc đầu phải chịu vài “chết non” v́ kỷ-luật “chính-trị” như dự án của Khánh Trường chủ biên tạp-chí Hợp Lưu thời 1990 - ngược lại, cũng v́ cái kỷ luật đó mà nhóm Montréal thân trong nước thời đó đă ra tuyển tập Việt Kiều Với Quê Hương: Thơ Văn Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, 1975-1990 (NXB TpHCM, 1990). Sau đó th́ đă có nhiều tuyển tập nhiều cây viết trong ngoài đáng kể có tuyển tập 26 Nhà Thơ Việt Nam Đương Đại (Tân Thư, 2002) và nhất là khuynh-hướng thời thượng dịch đáp ứng nhu cầu “ṭ ṃ” (voyeurisme) chính-trị hơn là văn-chương của vài tác-giả trong nước và lâu lâu xen kẽ vài cây viết hải-ngoại hoặc miền Nam tự-do như các tuyển dịch của Phan Huy Đường, của Đoàn Cầm Thi,...! Các nhà văn ở ngoài cũng có mặt trong một số tuyển tập xuất-bản trong nước, như Tuyển Tập Văn Mới (2005). Nhu cầu thưởng thức văn-học nghệ thuật không có biên giới, nếu có là do chính trị bày tṛ. Nhà văn Vương Trí Nhàn trong một bài viết gần đây đă tiết lộ “Văn học Sài G̣n đă đến với Hà-Nội từ trước 1975” (10) trong giới văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc.

Tưởng cũng cần ghi nhận là Internet và toàn cầu hóa đă đưa người viết và người đọc đến gần nhau hơn, trực tiếp hơn, và đồng thời tạo cơ hội cho các “tác-phẩm” khó khăn xuất-bản ở một nơi có thể ra mắt ở nơi khác - như trang Talawas (vừa ngưng hoạt động) và damau.org với mục Trên Kệ Sách _http://kesach.org ‘xuất bản’ dưới h́nh thức ebook từ các tác phẩm đă hoặc sẽ xuất bản, bên cạnh chương tŕnh ‘Cho & Nhận’ với mục đích “hỗ trợ các tác giả trong và ngoài nước gặp khó khăn trong việc ấn hành và phổ biến tác phẩm văn học của ḿnh. “Khó khăn” bao gồm những trở ngại tài chánh, kiểm duyệt văn hóa/chính trị, và rào cản địa lư”. Cũng từ đó sinh ra các hiện-tượng Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh, thơ Tân H́nh-Thức, nhóm Mở Miệng và nhóm Ngựa Trời, v.v. Các ấn phẩm bị thu hồi, cấm lưu hành ở trong nước cũng có thể ‘ra mắt’ người đọc trong và ngoài nước qua phương tiện Internet như tập truyện Tột Đỉnh T́nh Yêu 2008 của Nguyễn Thúy Ái, v.v. (nhưng Internet cũng đi nhanh hơn kiểm duyệt và nhà xuất bản như trường hợp bản thảo cuốn ‘Hồi kư’ của Nguyễn Đăng Mạnh gần đây). Tại Sài-G̣n, nhóm Mở Miệng đă xuất-bản Khoan Cắt Bê Tông, một tuyển tập thơ, dưới tên nhà xuất bản Giấy Vụn, in 100 bản với lời chú “In xong & nộp bản lưu cho các tác giả 9-2005”, với sự góp mặt của 23 tác giả trong và ngoài nước. Nói chung, những năm gần đây, Nguyễn Việt Hà (Khải Huyền Muộn, 2005), Bùi Hoằng Vị, Nguyễn B́nh Phương, Nguyễn Viện, Ngô Tự Lập, Phan Triều Hải, Hồ Anh Thái (Tự Sự 265 Ngày, 2005), Nguyễn Vĩnh Nguyên (Khu Vườn Lưu Lạc 2006), Nguyễn Thế Hoàng Linh,... là những cây bút có kỹ thuật và/hoặc nội dung mới, đa dạng, có nhiều triển vọng! Nói hy vọng vẫn nằm ở văn-học tự-do, khai phóng, là vậy!

Sau một thời kỳ khá dài, từ Cởi Trói văn-nghệ đầu 1987 đến gần đây, các cây viết như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng rồi Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, v.v. đă khai thác nhân tính và nhân phẩm làm người Việt Nam cũng như đă tập tễnh khai thác những cái tâm linh, linh cảm mà lư trí chủ chủ nghĩa xơ cứng chưa thỏa măn được, nay lớp nhà văn mới tới muốn đi xa hơn chăng? Các nhà văn trong nước (và một ít ở ngoài nước) có khuynh-hướng thời thượng nếu không viết tiểu-thuyết lịch-sử th́ nói chuyện thế-giới bên kia, “không thật”, nói cái thiêng để tránh lách cái phàm, thể hiện những chiều kích thời-gian không thật, đă qua! Nhà văn mượn hồn nhập xác, nh́n vào thế giới bên kia, tâm linh, v.v. Sau những Cơi Người Rung Chuông Tận Thế (Hồ Anh Thái), Phần Hồn (Nguyễn Mạnh Tuấn), Đêm Thánh Nhân (Nguyễn Đ́nh Chính), Thoạt Kỳ Thủy (Nguyễn B́nh Phương), Thiên Thần Sám Hối (Tạ Duy Anh), v.v. So với nguồn cơn văn-chương của châu Mỹ latinh, Việt Nam ta không cùng văn-cảnh, do đó thứ văn-chương này phải chăng là để trốn tránh thực tại? Nhà văn do đó đánh mất vai tṛ của ḿnh hoặc chứng tỏ là ngụy trí thức. Làm như người viết không dám lấy đề tài trong hiện thực, “đương đại” sợ đụng đến những thế quyền chăng? Mặt khác, nhà văn muốn khai thác chất phi lư trong tính cách con người, thám-hiểm sức mạnh của thời gian v́ sự quên lăng như đang chực chờ đâu đó!

Khuynh-hướng này mang tính hậu hiện-đại, đề cao cái ngược lại với duy-lư, mô-phạm, khoa-học, lạc quan,... ; tóm, con người ở đây hết là cái rốn của vũ trụ. Dịch lư được vận hành trở lại, mở rộng ṿng tay đón tiếp phi lư, vô thường, biến hóa, tóm, con người chưa chết nhưng thường ở bên cạnh hay ở đâu đó, có khi hội-nhập vào vũ trụ, thiên nhiên - con người hết làm cứu cánh, trở nên một trung dung hấp lực. Văn-chương đo đó không biên giới, không nhất thiết phải trung thành với một trường phái. Vai-tṛ của con chữ được đề cao. Ngôn-từ hết phải đúng văn phạm, hợp lư,...; ngôn từ ở đây được đón nhận như được viết hay nói ra! Kết cấu của tiểu-thuyết hết c̣n là một cấu trúc toàn bộ, mà có thể chỉ là những phần mảnh không thể dán hoặc nhập vào nhau. Một thế-giới mơ tưởng vốn là trù phú cho sáng-tạo, nay chiếm ngự trong óc sáng-tạo của nhà văn thơ, cố t́nh, với tư duy.

Một h́nh-thức hậu hiện-đại khác cũng đang thao diễn trên trường văn trận bút, đó là văn-chương khai phóng nữ quyền và dục tính. Cách mạng t́nh dục tiếp tục với văn học hải ngoại nhưng rất mới với trong nước nhất là với các nhà văn nữ. Họ lên tiếng về những âu lo, tâm t́nh mà lâu nay nhất là ở Việt Nam ít thấy, nói thẳng những lo âu thực tế, sờ mó được, cảm được, không cần nhiều ngơ quanh, đi ṿng. Người nữ chống văn minh, văn hóa dựa trên quyền hành đàn ông, phụ quyền, chống Tây phương kỹ nghệ định nghĩa đàn ông ở khả năng sáng tạo và chế biến sự vật. Phụ nữ chống văn chương như một nền chế, họ thích mặt trận “ngôn ngữ” hơn, thích phổ dương liên hệ trực tiếp với chữ viết cũng như với thân xác. Xây dựng lại nội dung bằng đường thoát ngôn ngữ. Lạc thú thân xác đi liền với lạc thú ngôn ngữ, đến sau lạc thú ngôn ngữ. Người nam đi vào văn để t́m hoặc nếu đă thấy, tŕnh bày lư thuyết, triết lư hay một “nghiệp”, người nữ th́ đến để thực hiện cái tôi, xác định cái tôi, cá nhân. Và họ đi vào t́nh dục của đời thế tục, tận hưởng phút giây, lăng mạn t́nh yêu đến tự do t́nh dục. Người nữ sống đời hải ngoại hội nhập, choáng ngợp giữa những lạ-lẫm (exotic), ngợp trước tự do ở xứ người, tự do tuyệt đối và cá nhân chủ nghĩa, từ vật chất, thân xác, t́nh cảm,... Có thể họ muốn giả vờ, trưởng giả, nhưng lại không giữ lề, thích tự do, khám phá,... T́nh dục trước khi là hiện tượng xă hội, văn hóa, đă là thân xác. Nhà văn nữ muốn làm chủ câu chuyện cũng như tác động hành xử dâm dục, muốn đưa ra ánh sáng cái khuất ch́m,... Một diễn văn đi xa hơn đ̣i nữ quyền, mà tranh đấu cho một “văn hóa” nữ-hệ hay cho một cái tôi sùng sục, dục, hay dồn nén, thiếu thốn? Đưa tính dục cá nhân vào đời sống tập đoàn và xâm nhập những lănh vực cho tới đó cấm kỵ hoặc không can dự ǵ! Trong nước, đời sống và thân phận phụ nữ có khác, do đó cách “tiếp cận” cũng khác. Dương Thu Hương qua Chốn Vắng (No Man’s Land) tỏ lộ một số khuynh-hướng t́nh dục, thủ dâm, những cách làm t́nh, đi xa tả cơ quan sinh dục. Ở đây, nhà văn nữ đ̣i quyền dân sự, nên, dễ hiểu khởi từ bản thân, Đỗ Hoàng Diệu là một tiếp cận khác, buông thả hơn. Ngay cả cây bút đồng-nội Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện Cánh Đồng Bất Tận cũng đă muốn “mượn” t́nh dục để chuyển tải bi kịch của sự đói nghèo triền miên, của sự dốt nát, của sự hẹp ḥi...Văn-chương nhắm phần-mảnh, tầng kín, sống vội, với cái có thực, v.v., tức khuynh-hướng hậu hiện-đại, phá bỏ hoặc tránh né những tuyên ngôn to lớn. Như vậy, hiện-tượng tính-dục và nữ quyền đă từ hải-ngoại nhập vào trong nước, như một hợp lưu (chung ḍng nước!) của con người hôm nay! Với văn chương tính-dục, chúng tôi thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu với những quẩn quanh trần-b́ không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng, nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị t́nh dục, thân xác giam hăm tù đày, định nghĩa về văn-chương h́nh như đă bị hăm hiếp một cách tội nghiệp vậy! Người đọc dĩ nhiên không khỏi có những nghi vấn: phải chăng văn-chương tính của cái được viết ra mới là chính, là cốt lơi? Lên đường t́m kiếm làm mới văn-chương hoặc buông thả theo hiện thực, hoang tưởng; hai hiện-tượng văn-học này sẽ sống lâu hay yểu mệnh như bao hiện-tượng khác? Phải chăng đây cũng là phản ảnh của một đời sống mới, tự-do và triệt để không giới hạn? Theo thiển nghĩ th́ câu trả lời đă tiềm ẩn trong nghi-vấn!



*
Chúng tôi nhận ra một số nghịch lư và đương nhiên dịch lư. Trong một nghiên cứu gần đây (Miền Nam Đạo-Lư), chúng tôi đă ghi nhận những nỗ lực văn-hóa của Nam-kỳ thuộc địa trong việc bảo tồn và phát huy đạo lư truyền thống khi thực-dân Pháp đến xấm chiếm và đô hộ miền Nam Cochinchine; và các tiền bối đă thành công. Miền Nam Cộng Ḥa in facto đă bị chấm dứt hiện hữu ngày 30-4-1975 (dù hăy c̣n sống động trong tâm tưởng và hồi kư của nhiều tai mắt và của cả người miền Nam). Nước mất th́ nhà tan, con người phân tán, Việt Nam hải-ngoại thành h́nh. Trong nước th́ người dân mất nước, mất chính quyền và thẩm quyền, mất quyền công dân, xác thân bị kiềm chế trong các trại gọi là “cải tạo” hay “kinh tế mới”, dĩ nhiên văn-hóa cũng bị xóa nát vùi dập. Các sản phẩm nghệ thuật, âm nhạc (nhạc vàng), văn-chương, văn-học, văn-hóa ǵ ǵ của miền Nam cộng ḥa đều bị xóa, với nghị định, với hàng trăm bài báo và sách lư luận, nghiên cứu như vừa tŕnh bày. Nhưng kẻ thắng trận (miền Bắc cộng-sản) dù cố t́nh bôi xóa văn-hóa của miền Nam, đă thất bại với thời gian (v́ cấm vận, chiến-tranh lạnh, đôla, v.v.). Nhưng chủ yếu là người cộng-sản Việt Nam đă không có một văn-hóa phổ quát và nhân bản khả dĩ có thể thay thế. Trong học đường, ngoài xă-hội mọi người đă nh́n thấy một thứ không-văn-hóa đang làm băng hoại xă-hội thời hậu chiến. Và con người đă chạy trở lại t́m những thứ mà nền móng xă-hội “mới” đă không có hoặc không thể có, của Việt Nam cộng ḥa và của Nam-kỳ Cochinchine cũng như của một xă-hội Việt Nam bị phê là “lạc hậu” và cả “phong kiến” nhưng có rễ văn-hóa, có căn bản con người, một nhân bản không thiết yếu phải có tính khoa-học, nhưng có nền tảng! Nghĩa là vẫn có hy-vọng!

Nói hy vọng để khôn ngoan và khả năng khai-phóng được có cơ xuất hiện, v́ hiện có những tạp-chí có vẻ giao-thoa hợp-lưu trong-ngoài đầy những sáng tác có tính rác rưởi nhất thời, khai thác những dục vọng thấp hèn, rất tư riêng, bệnh hoạn, dâm-bôn, cũng được cho ra như một cố gắng để được nói đến như những “nhà văn thơ” đương-đại, hậu đương-đại hay giải phóng. Cái gọi là văn-chương, văn-học có những điều-kiện đương-nhiên hoặc ngầm của nó, mà không một tập đoàn, chủ báo hay nhà văn nào có thể tự diễn hay tác oai tác quái mà tồn tại lâu dài được. Người đọc cũng như lịch-sử văn-học hăy c̣n đâu đó như là thẩm phán cuối cùng!

Với đầu tư cùng du-lịch quốc tế và tiền hàng tỉ hàng tỉ mỗi năm đổ về của Việt kiều, chính quyền trong nước không ... cách mạng theo th́ cũng phải thích ứng, cập nhật. Những “bóng ma” tàn tích của cuộc chiến vừa qua, như ma “thực dân mới”, “biệt kích”, v.v. nay đă hiện nguyên h́nh là ... bạn! Chiến-tranh xưa nay ít ai thật đại thắng, thường th́ gặp thời (Điện Biên 7-1954, miền Nam 4-1975, v.v.). Đă nói chiến-tranh th́ phải có thắng thua, nhưng dân-tộc th́ không bao giờ thua, có chăng là giàu thêm và khôn ngoan ra dù phải thêm xương máu! Văn-học th́ lại càng không có chuyện thắng thua, nói thắng thua là tṛ con người bày ra, cưỡng ép, cường điệu, kể cả chuyện hợp lưu! Văn-học cũng không là chuyện kinh tế hay mạnh được yếu thua! Như vậy thiển nghĩ thế thời có thế nào th́ văn-học vẫn là hy vọng v́ trước mắt chúng tôi không tin người Việt sẽ có đồng thuận về văn-hóa - khó, v́ làm văn-hóa th́ con người phải văn-hóa trước đă (to be or not to be)! Trong hoàn cảnh đó, văn-học sẽ là bước đầu, nếu thật ḷng lên đường!

Chú thích

1. Trích từ Văn Hóa Văn Nghệ Miền Nam Dưới Chế Độ Mỹ Ngụy (Hà-Nội: Văn Hóa, 1977), tr. 8.

2. Theo Trần Thọ, Tạp-chí Cộng-Sản 10-1981.

3. _http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62HYPERLINK "http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectI d=NV234&p=2"&HYPERLINK "http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectI d=NV234&p=2"subjectId=NV234HYPERLINK "http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectI d=NV234&p=2"&HYPERLINK "http://www.dlu.edu.vn/detail_subjectdraft_faculty.aspx?orgId=62&subjectI d=NV234&p=2"p=2

4. X. Phong Trào “Thơ Mới”. Hà-Nội: NXB Khoa-học xă hội, 1982. Tr 268.

5. Tự Lực văn đoàn: con người và văn-chương. Hà-Nội: Văn học, 1990. Tr. 57.

6. Trần Trọng Đăng Đàn. Văn Học Thực Dân Mới Mỹ Ở Miền Nam Những Năm 1954-1975, tập 2. Hà-Nội: Sự Thật, 1991. Tr. 68, 72.

7. Trích Lời Nói Đầu. Văn hóa, văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ-Ngụy. Sđd.

8. Trần Thị Mai Nhi. Văn Học Hiện Đại Văn Học Việt Nam Giao Lưu Gặp Gỡ. Hà-Nội: Văn Học, 1994. Tr. 135, 136.

9. Nguyễn Vĩnh Nguyên. “Văn học hải ngoại: “ḍng riêng” có gặp “ḍng chung”?”. Tuổi Trẻ On-line 10-6-2005.

10. _http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=4354

(2-2005; 11-2008 +)

Nguyễn Vy Khanh


Code:
https://sites.google.com/site/tuyent...hoi-tuong-tiec
florida80_is_offline   Reply With Quote
 
Page generated in 0.26199 seconds with 10 queries