VietBF - View Single Post - Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975
View Single Post
  #1  
Old  Default Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975
Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975



Các diễn đàn văn-học Việt-Nam (Internet và ngoài nước là chính) thời-gian gần đây đặc-biệt đăng đàn, đăng văn bản và bài viết, phỏng vấn nhau về văn-học miền Nam thời 1954-1975, cũng là phần văn-học sử chúng tôi đă nghiên cứu với mục-đích đóng góp phần đồng hành và hiểu biết nhỏ nhoi của cá nhân, và với văn bản gốc, từ những năm đầu thập niên 1990 – lúc chưa có nhiều văn bản internet và cả ebook như hiện nay. Vào thời điểm 2014 hôm nay, ở trong cũng như ngoài nước, đă có nhiều sinh viên, giáo-sư và nhà biên-khảo, phê-b́nh chuyên nghiệp và “nghiệp dư” đă bắt đầu đi sâu vào mảng văn-học này, dù với mục-đích có thể khác nhau, nhưng cách này hoặc các khác th́ vẫn là điềm tốt sau gần 40 năm tác-phẩm bị đốt, cấm, xuyên tạc và người làm văn-nghệ bị đày đọa đến chết hoặc phải bỏ nước lưu vong.

Nhân đây chúng tôi cho đăng lại một số bài về cùng đề tài:

1.“Văn-học Miền Nam Tự Do 1954-75” phần 1- Một thời văn-chương;

2.“Văn-học Miền Nam Tự Do 1954-75” phần 2- Một thời tưởng tiếc (từng phổ biến với tựa đề “Văn-học tự do khai phóng vẫn là nguồn hy vọng”);

3.“Thi Ca Miền Nam 1954-75”;

4.“Văn-học miền Nam qua một bộ ‘văn-học sử’ trong nước”.

Bài 1 và 3 đă đăng trên tạp-chí Chủ Đề (Portland OR) các số 1-2, Xuân và Hạ năm 2000, bài 2 viết tháng 2-2005 và và bài 4 viết tháng 7-2010 nhân một chuyến đi vùng Đông Nam Á; tất cả phần nào đă được cập nhật gần đây. Chúng tôi cũng viết về một số chủ đề khác (Cái chết, Dục tính, Nữ quyền, Nhóm Sáng Tạo, Tạp-chí Bách Khoa, Văn-học yêu nước, Văn-học chiến-tranh, Thể-loại tiểu-thuyết, Truyện ngắn, Phê-b́nh văn-học,...) và về một số tác-giả của Văn-học miền Nam, đă từng được phổ biến trên các báo giấy, các trang mạng Internet và xuất-bản trong các tuyển tập biên-khảo Văn Học Và Thời Gian (Văn Nghệ, 2000) và Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX : Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại (Đại Nam, 2004). Ngoài ra, tập Văn Học Miền Nam 1954-1975 đang được cập nhật tổng soạn lại và xuất-bản một ngày gần đây.* Nguyễn Vy Khanh (Canada, Dec 5, 2014)









Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975

Phần 1
Một thời văn-chương



1954-1975 là thời gian của một cuộc chiến tranh ư thức hệ quốc gia / cộng sản - đồng thời cũng là huynh đệ tương tàn với áp lực của các cường quốc trong một cuộc đối đầu gọi là chiến tranh lạnh! Việt Nam chia đôi ở vĩ tuyến thứ 17. Cuộc di cư năm 1954 đă thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật miền Nam cho đến thời điểm ấy chủ động bởi người địa phương mà nơi hoạt động mạnh là Huế, Qui Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ và nhất là Sài G̣n. Sài G̣n, thủ đô Nam phần, đă là nơi sinh hoạt báo chí và văn học nghệ thuật chủ yếu và nhiều nhà báo và văn nghệ sĩ gốc Trung và Bắc đă đến lập nghiệp hoặc cộng tác từ đầu thế-kỷ. 20 năm văn học này có sự đóng góp của nhiều nhóm văn nghệ, tư tưởng hay tập trung ở các tạp chí như Sáng Tạo, Quan Điểm, Văn Hóa Ngày Nay, Nhân Loại, Văn Đàn, Bách Khoa, Văn Học, v.v. Vào giai đoạn đầu 1954-1963, một nền văn nghệ tự do sinh hoạt trong một không khí văn hóa, tin tưởng, th́ đến giai đoạn sau 1964-1975, văn nghệ đa dạng hơn nhưng cũng đa tạp hơn với những người làm văn nghệ phân hóa, bạo động trong một xă hội thời chiến giá trị văn hóa mất dần.

Sau những đấu tranh văn nghệ cho chính trị ư thức hệ của hai năm đầu 1954-1955, người làm văn nghệ muốn làm nghệ thuật mới, thuần túy nghệ thuật hơn, kiểu nghệ thuật vị nghệ thuật. Sau sẽ rơ ra cũng là một công cụ của chính trị giai đoạn! Tạp chí Sáng Tạo ra đời trong hoàn cảnh mới đó. Số 1 ra tháng 10-1956 và kéo dài được 31 số, ngưng từ tháng 9-1959, đến tháng 7-1960 tiếp tục bộ mới nhưng cũng chỉ ra thêm được 7 số. Mai Thảo, trong số ra mắt tạp chí Sáng Tạo đă phần nào chủ quan nói văn nghệ từ thủ đô Hà Nội đă chuyển vào thủ đô văn hóa Sài G̣n! Nhưng khẳng định của Mai Thảo là một diễn dịch khác của một cơ cấu xă hội và chính trị bị-động, phải đối phó tức thời với kẻ thù cộng sản. Đảng Cần Lao được tổ chức như cơ cấu của kẻ thù, đ̣i hỏi hy sinh và một ḷng, một mục đích. Với những phương tiện tương đương. Sáng Tạo không đi ra ngoài quỹ đạo đó! Sáng-Tạo ra đời với cái gọi là ư thức văn nghệ mới và làm mới văn học cho thời đó. Tạp chí Sáng Tạo muốn làm đại diện cho nền nghệ thuật mới được gọi là “nghệ thuật hôm nay”.





Nói đến nhóm “tạp chí Sáng tạo” người ta nghĩ đến nhiều người: Mai Thảo “đầu đàn” với văn nói chung mới và tân cải h́nh thức, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và Quách Thoại với thơ tự do, Nguyên Sa với thơ ca tụng t́nh yêu tân kỳ, Cung Trầm Tưởng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn) và Trần Tuấn Kiệt làm mới thơ lục bát, Trần Thanh Hiệp và Nguyễn Văn Trung (Hoàng Thái Linh), người lập thuyết, người giới thiệu triết lư thời thượng của Âu châu. Ngoài ra c̣n có Doăn Quốc Sỹ, Thảo Trường, Viên Linh, Người Sông Thương (Nguyễn Sỹ Tế), Trần Dạ Từ, Thạch Chương (Cung Tiến), Vương Tân (Hồ Nam), Hoàng Anh Tuấn, Mai Trung Tĩnh, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Mặc Đỗ, Duy Thanh, Lữ Hồ, Trần Lê Nguyễn,... Sáng Tạo không phải là một văn đàn hay bút nhóm với chủ trương và hoạt động khắng khít như Tự Lực Văn Đoàn và nhóm Hàn Thuyên của thời tiền chiến. Các văn nghệ sĩ hợp tác như Nguyên Sa, Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, vv. sau tách riêng làm văn nghệ hoặc không tiếp tục chủ trương của Sáng Tạo nữa.

Sáng Tạo đă góp phần làm mới văn học về văn cũng như thơ, về h́nh thức, thể cách cũng như nội dung. Thanh Tâm Tuyền cổ vơ thơ Tự do, không vần, bất ngờ về ư và chữ dùng, xuất bản Tôi Không C̣n Cô Độc (1956) và Liên, Đêm, Mặt Trời T́m Thấy(1964). Thơ Thanh Tâm Tuyền dùng ngôn ngữ để phá hủy ngôn ngữ, phó mặc mạch thơ, nhạc điệu cũng như ngôn ngữ thơ, để ngôn từ tự do trôi chảy như sự vật vô tri vô nghĩa từ nguyên thủy. Với Nguyên Sa, thơ tự do là thơ phá thể (1), trong khi Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn, “thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do” mà cao điểm sẽ là thơ văn xuôi (2). Cổ vơ thơ Tự Do và khi tưởng đă thành công gây tiếng vang thuận tiện, nhất là với những người làm thơ mới ra đời, nhóm Sáng Tạo bèn đi xa hơn phủ nhận giá trị thơ văn tiền chiến và kháng chiến. Mai Thảo và nhóm bạn của ông rất dị ứng với quá khứ ! Nhiều nhóm văn nghệ sĩ đă lên tiếng phản đối, nhất là ở Huế. Dù ǵ th́ Thanh Tâm Tuyền rồi Nguyên Sa đă khai pháo mở đường cho ḍng thơ sẽ được gọi là Thơ Tự Do, một vận động đă bắt nguồn từ thời kháng chiến nguyên thủy là phản ứng lại thơ mới và thơ thời tiền chiến. Thơ lục bát đă được canh tân với một số nhà thơ thời Thơ Mới, nay trên tạp chí Sáng Tạo, lục bát được tiếp tục hiện đại hóa với ngôn ngữ tân kỳ, h́nh ảnh mới hơn, bất ngờ, cũng như trong cách dùng chữ, ngắt câu. Khởi xướng bởi Cung Trầm Tưởng, tiếp đó có Sao Trên Rừng, Trần Tuấn Kiệt, Trần Đức Uyển, Hoài Khanh, Kim Tuấn, Hoàng Trúc Ly, ...

Mai Thảo là người đă đóng góp cho một cách làm mới hành văn. Những sáng tạo về ngôn từ, cách chấm câu, văn tùy bút, cảm giác. Cách dùng chữ trang trọng, chấm câu theo t́nh cảm và diễn tiến câu chuyện. Mai Thảo cổ vơ lối viết văn như vẽ tranh. Chỗ chấm phá, chỗ chi tiết. Chỗ nâng cao chỗ xuống thấp. Đêm Giă Từ Hà Nội, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời cũng như hai tậpTùy Bút và Căn Nhà Vùng Nước Mặn là những thử nghiệm thành công. Những chữ dùng nay đă quen nghe quen thấy, nhưng vào những năm 1956-62 là những cái mới đă làm hơn một người chau mặt ! Truyện Thanh Tâm Tuyền tiêu biểu qua Bếp Lửa (1957) và Khuôn Mặt (1964), coi cuộc đời là một vô nghĩa toàn diện. Con người “hôm nay” lên đường, lữ hành, tự vạch đường, tự thoát khỏi tầm thường và khuôn sáo. Cô đơn trong trừu tượng sâu thẳm của con người, nhưng cuối cùng cái phi lư vẫn bủa vây, đẩy con người lún sâu thêm vào trong thực tại mà ư nghĩa nguyên thủy bất động của sự vật vẫn chưa t́m thấy. Thảo Trường dùng những tra vấn khắt khe nhưng chân thành của con người trí thức có đức tin, để nh́n con người và chiến tranh! Cả ba dụng văn nhưng nếu Mai Thảo làm xiếc với chữ, Thanh Tâm Tuyền khiến con chữ sắc lạnh và Thảo Trường nung lửa cho từng chữ dùng!

Sáng Tạo đă mở đường cho những người làm văn nghệ mới từ nay rủ nhau lên đường: Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Gió Mới, Nghệ Thuật, ... Sáng Tạo có công gây hứng khởi, khai phá những cái mới. Trong phỏng vấn của tạp chí Văn vào năm 1971, Mai Thảo đă nh́n nhận : “Tờ Sáng Tạo là của những thí nghiệm và những mở đường (...) Tôi không nh́n Sáng Tạo như nơi phát xuất và h́nh thành một ḍng văn học nghệ thuật. Lớn chuyện quá. Một tinh thần nào, một cách thế nào th́ có” (3). Sau khi đă thử “phóng cái lao ư thức về đằng trước” và chối bỏ đằng sau, những thành quả của văn nghệ tiền chiến - Mai Thảo và nhóm của ông rất dị ứng với quá khứ ! Họ khẳng định: ”Những khuynh hướng mới là những trở thành tất yếu và biện chứng của một quá tŕnh đổi thay và tiến hóa của nghệ thuật hiện đại Việt Nam” (4). 15 năm sau, Mai Thảo kể lại những ngày Sáng Tạo : “Chất nổ ném vào. Cờ phất. Xuống núi, xuống đường. Ra biển, ra khơi. Và cuộc cách mạng tất yếu và biện chứng của văn chương đă bắt đầu (.... ). Trong một thực trạng dày đặc những chất liệu của sáng tạo và phá vỡ như vậy, văn học nghệ thuật mặc nhiên không c̣n là tả chân Nguyễn Công Hoan, lăng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực” (5). Nói chung, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Tô Thùy Yên là những thành công, những mới mẻ - nhưng xét cho cùng Mai Thảo, Tô Thùy Yên vẫn chưa rời cái nền cũ, hồn xưa. Quách Thoại, Doăn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế xưa, khuôn phép hơn nữa, c̣n Duy Thanh, Thạch Chương đă ngừng lại ở những thử nghiệm hiện sinh buông thả như người Âu-châu!

Mặt khác, trong bầu không khí chính trị mới, tự do và dân chủ của sau hiệp định Genève 1954 đó, văn chương của Vơ Phiến, Đỗ Tấn, Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn, Doăn Quốc Sỹ, Đỗ Thúc Vịnh, Kỳ Văn Nguyên, ..., những con người từng theo kháng chiến, đă góp phần xây dựng chính trị miền đất mới trong giai đoạn đắp nền của thời đệ nhất cộng ḥa. Tác phẩm của họ đă đáp ứng những chờ đợi của con người thời đó. Văn chương trở thành vũ khí đấu tranh chính trị với cộng sản, dĩ độc trị độc, cũng như người cộng sản đă đặt văn nghệ thành chính sách. Những chuyện xảy ra ở các liên khu kháng chiến. Trong Người Tù, Kỳ Hoa Tử, Khu Rừng Lau, Mùa Ảo Ảnh, v.v., đấu tranh con người và chính trị là một! Doăn Quốc Sỹ quyết tâm bảo vệ lư tưởng, ư nghĩa đă có, dứt khoát vai tṛ của người trí thức, phải bỏ chủ nghĩa cộng sản, đề cao dân tộc tính và t́nh người khi c̣n có thể. Nguyễn Mạnh Côn nhiệt thành Đem Tâm T́nh Viết Lịch Sử tŕnh bày cho đồng hao và thế hệ trẻ biết những thất vọng của ông về một chủ nghĩa, với kinh nghiệm chính ông Lạc Đường Vào Lịch Sử (1965). Một cách phá đổ huyền thoại kháng chiến đồng thời nhận chân giá trị thực của công cuộc vận động kháng thực đó!

V́ an sinh của miền Nam cộng ḥa, nơi tập hợp mới của con người không cộng sản, văn chương chống cộng, tố cộng, đề cao tự do, cảnh tỉnh người dân về hiểm họa cộng sản là thiết yếu, là những viên gạch không thể thiếu trong hoàn cảnh. Miền Nam đến cuối thập niên 50 đă có được những cơ cấu chính trị và xă hội nền tảng của một chế độ dân sự hiện đại. Nhưng từ năm 1960, đă bắt đầu có những tiếng nói khác nhịp với chính quyền. Nhóm Caravelle (4-1960), rồi đảo chính ngày 11-11-1960, rồi hai phi công Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử thả bom dinh Độc lập 2-1962, những nỗ lực chính trị của một số người của chế độ muốn cứu nền đệ nhất cộng ḥa không kết quả, bàn cờ domino khiến “đồng minh” Hoa Kỳ thiếu kiên nhẫn muốn đi nước cờ theo ư ḿnh, bèn cấu kết đưa đến đảo chính 1-11-1963, rồi chỉnh lư, biểu dương chính trị, tôn giáo, v.v. Người hiểu biết sẽ thấy khi chế độ đệ nhất cộng ḥa bị lật đổ, chống Cộng trở thành đa dạng, sẽ hết c̣n dễ dàng. Miền Nam sinh nhiều lănh tụ, quyền lực bị kiềm tỏa bởi quân phiệt và đảng phái thích quyền hành hơn là làm cách mạng. Người ta nhân danh chiến tranh, muốn cảnh giác hiểm họa cộng sản. Và một tuổi trẻ năng động trong hành tŕnh trí thức và tâm cảm, nhiều khắc khoải, ưu tư, nhưng họ lại có thể không cùng kinh nghiệm kháng chiến hay chống Cộng, dễ ngây thơ chính trị.

Miền Nam bốc lửa, nếp thanh b́nh tương đối của thời ngưng chiến sau 1954 dần mất. Nhà văn cũng như bao người dân khác, bị thời cuộc xáo trộn, phải đối phó. Sinh hoạt văn hóa cũng bị biến cố thời thế ảnh hưởng, và ảnh hưởng nặng nề. Những Sáng Tạo, Hiện Đại, Thể Kỷ Hai Mươi, ... đề xướng văn nghệ “hôm nay” th́ từ 1964, những tạp chí Văn, Văn Học, Nghệ Thuật, Tiếng Nói, v.v. đă “hiện đại” mạnh mẽ hơn! Rồi sự góp mặt của một thế hệ nhà văn trẻ hơn như Lê Tất Điều (Khởi Hành, 1961), Nguyễn Đ́nh Toàn (Chị Em Hải, 1961), Dương Nghiễm Mậu (Cũng Đành, Gia Tài Người Mẹ, xuất bản cùng năm 1963). Người hiểu biết sẽ thấy khi chế độ đệ nhất cộng ḥa bị lật đổ, dân chủ bị phản bội - mà những người sinh hoạt chính trị h́nh như cũng chưa thực hành được dân chủ, chưa chấp nhận “tṛ chơi” dân chủ - chống Cộng sẽ hết c̣n dễ dàng. Và một tuổi trẻ năng động trong hành tŕnh trí thức và tâm cảm, nhiều khắc khoải, ưu tư, nhưng họ lại có thể không cùng kinh nghiệm kháng chiến hay chống Cộng, dễ ngây thơ chính trị.

Cái không khí Dostoievski nặng nề và bi quan, cái không khí buồn tột cùng hay bất lực đó đă thấy trong các tác phẩm của Vơ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, ... cũng như cái phi lư dửng dưng trong tác phẩm Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đ́nh Toàn. Thanh Tâm Tuyền và Nguyễn Đ́nh Toàn chẳng hạn đều đi t́m ư nghĩa của cuộc sống; trong khi Thanh Tâm Tuyền hăm hở mà dửng dưng, tự hào, không cảm tính, th́ Nguyễn Đ́nh Toàn chậm chạp khám phá theo cảm tính và tư duy.

Nhóm “Bách Khoa” lúc đầu là nơi tụ tập những người kháng chiến cũ như Huỳnh Văn Lang, Vơ Phiến, Phạm Ngọc Thảo,..., nhóm “Nhân Loại” của những người miền Nam tiếp tục ... kháng chiến xoay ra chống chính quyền miền Nam, sau báo đ́nh bản và nhiều người vô bưng theo cộng sản như Lư Văn Sâm, Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hoà hoặc tiếp tục nằm vùng như Vũ Hạnh, Sơn Nam. Ngoài ra đối với giới làm văn nghệ từ đất văn vật vào, Nguyễn Đức Quỳnh đă một thời ảnh hưởng một số trí thức, văn nghệ sĩ và “lư thuyết gia” văn nghệ trong số có những thành viên của Sáng-Tạo hay của nhóm Quan Điểm, qua những buổi gọi là “đàm trường viễn kiến” của họ.

Nhóm Tinh-Việt văn-đoàn gồm Phạm Đ́nh Khiêm, Phạm Đ́nh Tân, Nguyễn Văn Thọ, .... chủ trương đem Đạo vào Đời và Đời vào Đạo. Họ có cơ quan Văn Đàn và từ năm 1958 lập hai giải thưởng văn học Trương Vĩnh Kư và Lecomte de Nouy (6). Nhóm viết và dịch với mục đích phổ biến giới thiệu những tư tưởng mới, nhất là của Thiên Chúa giáo. Hai nhóm khác của Thiên Chúa giáo cũng đă đóng góp nhiều cho nền văn học giai đoạn này: Văn Bút Trần Lục khi di cư vô Nam đă xuất bản hàng trăm tài liệu và tác phẩm, các thành viên của Học-hội Ra Khơi thuộc địa phận Bùi Chu như các linh mục Kim Định, Trần Văn Hiến-Minh, Vũ Ngọc Trác, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Hoàng Sỹ Quư, Đỗ Quang Chính, Nguyễn Hưng,... đă xuất bản nhiều tác phẩm về triết học Đông Tây, Việt học và ngữ học rất đáng kể. Riêng linh mục Kim Định đă có công đặt nền móng khoa học cho triết học Việt Nam.

Sau những năm bôn ba hoạt động chính trị, làm bộ trưởng và lưu vong, năm 1951, Nhất Linh trở lại quê nhà về sống ẩn ở Đà-Lạt. Năm 1958, ông “xuống núi” gây dựng lại Tự Lực văn-đoàn, nhà xuất bản Đời nay và ra mắt tạp chí Văn Hóa Ngày Nay chủ xướng một văn chương vượt thời gian và không gian. Từ năm 1951, sách Tự Lực văn-đoàn đă được tái bản với tên nhà Phượng Giang, vẫn thành công về số lượng tiêu thụ. Nhưng ngoài công lao khám phá những cây viết mới như Nhật Tiến, Đỗ Phương Khanh, Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam, Tường Hùng, ... ông cũng như dư vang của Tự Lực văn-đoàn đă không được những người làm văn nghệ mới đón nhận tích cực lắm; trở thành đề tài tranh luận chối bỏ của những người làm văn nghệ “hôm nay” trên Sáng Tạovà cả trên Nghệ Thuật khi nhóm đă ră (7). Tác phẩm của Tự Lực văn-đoàn được đưa vào chương tŕnh Việt văn, đă được chính yếu đọc bởi giới học sinh. Độc giả nói chung t́m đến những tác giả và tác phẩm mới hơn, trong số có những tác giả mới của nhóm Tự Lực văn-đoàn như đă nói ở trên. Nhất Linh thất bại đến với giới trẻ, hết sinh lực và hợp thời đại, bộ Xóm Cầu Mới cũng như tạp chíVăn Hóa Ngày Nay, nhưng tinh thần gọn sáng được tiếp nối với Nguyễn Thị Vinh, Nhật Tiến. Chính Thế Uyên, một người cháu của Nhất Linh cũng là một nhà văn mới vô nghề cũng đă phủ bác văn chương của Tự Lực văn-đoàn (8). Từ năm 1960 trên các tạp chí văn nghệ Sài-G̣n đă có những bài luận công tội của Nhất Linh đối với văn học! Trong số những hiện tượng phủ nhận vai tṛ những người làm văn hóa đi trước, c̣n có Trần Thanh Hiệp lư thuyết gia nhóm Sáng Tạo, diễn thuyết “Về viễn tượng văn nghệ miền Nam” tại Câu Lạc Bộ Văn Hóa (1-8-1960) đă đi quá xa khi xổ toẹt văn học miền Nam trước khi ông di cư vào (9). Văn Đàn của nhóm Tinh Việt Văn Đoàn đă phản ứng mạnh mẽ chống vị luật sư lư thuyết gia “văn nghệ hôm nay” này! Dĩ nhiên nhóm Tinh-Việt văn-đoàn cũng chống cả văn chương hiện sinh ngoại nhập với các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan, Nguyễn Khắc Hoạch và các nhà văn mới của Sáng Tạo, Hiện Đại và Thế Kỷ Hai Mươi!

Về báo chí, thời này đa dạng, trăm hoa cùng nở; nở theo chính trị và biến động của một miền Nam hết an b́nh. Nhà báo làm chính trị, “chầu ŕa” như một số đảng phái bắt đầu hết hậu thuẫn của dân chúng. Khi chiến tranh và xáo trộn lên cao độ, đă có những tờ báo chui của sinh viên và trí thức, “góp phần” gây xáo trộn thêm miền Nam. Cũng là thời của nhiều nhóm tranh đấu chính trị tập trung quanh các báo Thái Độ, Lập Trường, Hành Tŕnh, Đối Diện, ... với những nhà văn dấn thân như Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, Nguyên Vũ, Thế Uyên,... hay phản chiến như Kinh Dương Vương, Nguỵ Ngữ, Trần Hữu Lục, Thái Luân, Thế Vũ, v.v. - những phẫn nộ của họ không được chú tâm của người cùng chiến tuyến, vài người trong số sẽ bị đối phương xử dụng, tác phẩm của họ trở nên vô dụng trong một xă hội quay cuồng bởi những giá trị khác hơn.

Về tạp chí văn học, tờ Văn (số 1, 1-1-1964), tương đối sống lâu nhất và đă đóng góp nhiều cho việc hiện đại hóa văn nghệ miền Nam. Qua ba đời Trần Phong Giao, Mai Thảo và Nguyễn Xuân Hoàng, nhưng thời họ Trần tạp chí phẩm chất cao, có chiều hướng xây dựng một nền văn nghệ mới, hiện đại và đa dạng đông-tây; đă có công giới thiệu các tác giả, công bố nhiều văn liệu đặc biệt và khám phá nhiều cây viết trẻ (như Y Uyên), có những số báo độc đáo về Triều Sơn, Nhất Linh, Nguyễn Đức Quỳnh, Hàn Mặc Tử, Hồ Biều Chánh, v.v. Trần Phong Giao từ 1972 chủ trương tạp chí Giao-Điểm theo h́nh thức Văn nhưng mất dần ảnh hưởng! Văn Học của Phan Kim Thịnh là tạp chí cũng đă góp nhiều công sức cổ vơ một nền văn chương mới và ghi dấu nhiều chủ đề văn học Việt Nam và thế giới.

Về thi-ca, nếu Thơ Mới dù tự do hơn, phóng túng hơn thơ cũ nhưng thường ở trong khuôn tế nhị, thơ mộng th́ đến thời này nhất là ở những năm chiến tranh, tâm t́nh con người giao động nhiều, mất mát thua thiệt nhiều, như bất lực trước tàn bạo của chính trị và chiến tranh, đă có những giọng thơ khinh bạc, như Nguyễn Bắc Sơn, cũng là thời thơ văn bốc lửa của miền Trung địa đầu của miền Nam. Miền Trung đă xôi động với những biến cố Phật giáo 1963, 1965, đại học Huế, nhóm Lập Trường, rồi biến cố Tết Mậu Thân, cổ thành Quảng Trị, v.v. , với những cây viết trẻ Trần Vàng Sao, Thái Luân, Nguyễn Nho Sa Mạc, Luân Hoán, Mường Mán, Hoàng Lộc, Thành Tôn, Thái Tú Hạp,...Miền Trung đă chứng tỏ thiết yếu cho văn học miền Nam; so với tỉ lệ dân số, người đọc ở đó đă nhiều mà người viết cũng nhiều!

Thơ thời này c̣n có những khuynh hướng triết lư, về phận người và vũ trụ như thơ Phổ Đức, thơ Thiền Bùi Giáng: một phương tiện giải thoát cuộc sống khó khăn hoặc chính trị không lối thoát. Thơ ảnh hưởng Phật giáo có Phạm Thiên Thư, Nhất Hạnh, Hoài Khanh, Phạm Công Thiện, Xuân Phụng,... Song hành có thơ Vũ Hoàng Chương với Rừng Phong (1954) và nhiều thi tập sau đó lúc đầu c̣n phong cách, dù vẫn cái buồn chán chường cuộc đời và tâm sự sống sót sau cuộc chiến tranh, nhưng sau thành thù tạc và lạc lơng giữa thời đại hết c̣n là của thi nhân. Đinh Hùng với Mê Hồn Ca đem đến cho văn học Việt Nam một thế giới huyền sử hoang đường của thời huyền thoại, như cánh tay nối dài của tuyên ngôn Dạ Đài thuở 1943, sẽ trong sáng gần cuộc đời hơn vớiĐường Vào T́nh Sử năm 1961. Thơ t́nh yêu có hiện tượng Nhất Tuấn với các tập Truyện Chúng Ḿnh, t́nh ngang trái v́ hoàn cảnh phân ly của đất nước nhưng vẫn có chỗ cho hy vọng, không bi thảm, của người thanh niên đă khoác áo lính. Nguyên Sa là một hiện tượng đáng kể khác nhưng chỉ vào đầu giai đoạn. Trần Dạ Từ đă có Thuở Làm Thơ Yêu Em, Phạm Thiên Thư - nhà tu ngắn hạn đa t́nh dài dài, với Động Hoa Vàng, v.v. Hoàng Trúc Ly, Cung Trầm Tưởng, Kiên Giang, Trần Tuấn Kiệt, Lệ Khánh, Cao Mỵ Nhân, ... đă để lại nhiều bài thơ t́nh đẹp. Miền Đông có Nguyễn Tất Nhiên đă là hiện tượng với những vần thơ học tṛ ca tụng t́nh yêu được phổ nhạc và phổ biến rộng răi nhất là trong giới học sinh, sinh viên! Về kịch, Băo Thời Đại của Trần Lê Nguyễn, Thành Cát Tư Hăn của Vũ Khắc Khoan đáng được ghi nhận, bên cạnh những đóng góp của Thanh Tâm Tuyền, Doăn Quốc Sỹ, Ngô Xuân Phụng, Nghiêm Xuân Hồng, Phan Tùng Mai, v.v.

Ngôn ngữ phong phú ra, nhiều ngành triết học, khoa học, văn chương bành trướng với sự lớn mạnh của các phân khoa Văn Khoa và các viện đại-học công cũng như tư. Triết lư, văn học Phật giáo phát triển với sự thành lập viện đại học Vạn hạnh, với những tạp chí Tư Tưởng, Vạn Hạnh, Giữ Thơm Quê Mẹ, các nhà xuất bản Lá Bối, An Tiêm, Ca Dao... các tác giả Nhất Hạnh, Vơ Hồng, Hoài Khanh, ... Phía Công giáo với các viện đại học Đà-Lạt, Minh Đức, Thụ Nhân,... góp phần phát triển bộ môn triết học và ngôn ngữ học cũng như văn học với các công tŕnh của các giáo sư và linh mục Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Văn Lư, Cao Văn Luận, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Sỹ Quư, Nguyễn Khắc Xuyên, Kim Định, v.v. Về văn học, Bùi Xuân Bào, Bùi Tuân, Vơ Long Tê, Phạm Đ́nh Tân, Nguyễn Văn Trung, Thảo Trường, v.v. cũng như các nhóm Nhận Thức (Huế), Tinh-Việt văn-đoàn, Sống Đạo, Phương Đông, Đối Diện, v.v. đă góp phần gây ư thức tôn giáo và góp phần nhận thức trách nhiệm trần gian, bám sát thời sự của chiến tranh và xă hội nhiều giao động.

Ở miền Nam từ sau đệ nhị thế chiến, một luồng gió tự do cá nhân đến từ Âu châu hiện sinh. Cá thể là chính, là khởi điểm đồng thời là trạm tới của mọi giá trị. Ư nghĩa cuộc đời chỉ có thể có từ kinh nghiệm cá nhân mỗi người, và tự do lựa chọn, như một số nhân vật của Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu và Nguyễn Đ́nh Toàn. Nay không c̣n khuôn mẫu văn hóa chung, phổ quát, trừu tượng, nay chỉ có chủ thể mà không c̣n khách thể!

Ngôn ngữ trở thành âu lo chính, trở thành sống chết, quan trọng, chứ không phải không có cũng chẳng sao. Văn chương với ngôn ngữ như h́nh với bóng; có văn chương, ngôn ngữ mới sống và trưởng thành. Ngôn ngữ trong một hoàn cảnh nào đó, có thể đem đến tự tin, nói như Jean-Paul Sartre, văn chương một thời đại vong thân khi tự nó không dứt khoát làm chủ mà c̣n lệ thuộc những quyền lực đời hoặc một ư thức hệ, khi văn chương tự xem như phương tiện, công cụ thay v́ phải là mục đích vô điều kiện. Thành ra văn chương khoác chiếc áo siêu h́nh, như từ chối hiện thực, đời thường. Đi xa đến những tưởng là vô nghĩa, phi lư, trong thực tế là những tư duy thâm sâu, và chính ngôn ngữ và sáng tạo trong ngôn ngữ đă đem lại tính cách văn chương cho văn, thơ,...

Văn nghệ trở thành phương tiện hành động, phản kháng, trong một cuộc đời phi lư, như chiến tranh, như những cái chết của người thân hay bạn hữu. Người tuổi trẻ nhận ra văn chương không phải là chốn trốn tránh sự thực, thực tại, mà là phải đáp ứng nhu cầu hôm nay và là để thuyết phục. Tiếng bom, những viên đạn lạc, những người bạn nằm xuống v́ lựa chọn chiến tuyến hoặc nạn nhân vô t́nh. Nhiều người làm văn nghệ trẻ thập niên 1960-1970 đă đi đến dấn thân - hoặc tưởng là như vậy, để gạt bỏ những sợ hăi bất tường của đời thường - cái hăi sợ mà Heidegger từng nói đến, đưa cá nhân đến đối đầu với hư vô và sự phi lư trước cái phải lựa chọn! Cuộc kiếm t́m cái nhân cách, một cái tính cách hiện đại hóa, thời thượng, .. Khởi từ ư tưởng định mệnh khó hiểu, cái số mệnh nghịch thường với con người, với tự do chân chính. Con người luôn bị định mệnh đe dọa, vậy th́ viết là để xác định tự do v́ hăi sợ không có thật!

Văn học miền Nam thời này cũng như của thế kỷ XX nói chung có cái thị kiến to lớn, loại viễn kiến, có tham vọng sâu xa, đụng đến phần sâu thẳm: nền văn học này v́ thế có hai đặc điểm trội bật là chính trị và siêu h́nh, triết lư. T́nh cảnh của một tập thể dù muốn hay không cũng tự chính trị hóa, trong mọi sinh hoạt, kể cả văn chương đă ảnh hưởng chăng? Có thể nói công việc nghị luận, nghiên cứu hay quan sát sinh hoạt văn học cũng là một cách làm văn học, v́ tập thể, v́ tương lai, mà nội dung cũng có thể tải những tâm t́nh, nguyện vọng của một thế hệ, của những người chứng. Đưa đến tính cách thời gian của văn học, nhất là văn học ở ngoài nước, v́ những công việc văn chương này luôn hàm ư phê phán quá khứ và hiện tại, luôn như t́m cách rọi ánh sáng vào bóng tối ám của bạo lực, của một tập thể chuyên quyền, như t́m cách nói lên tiếng nói bị vùi dập, bị đẩy vào câm lặng tuyệt đối!

Nhiều phương-pháp nghiên cứu và phê-b́nh được thử nghiệm và sử-dụng. Phương pháp phân tâm Freud đi t́m trong tiềm thức, tuổi thơ của tác giả - bỏ ư thức để đi vào lănh vực tiềm thức, trực giác, những ấn tượng, cảm xúc, ám ảnh đau thương thời thơ ấu của nhà văn thơ chẳng hạn, như Đỗ Long Vân khi viết về Chế Lan Viên (10).

Phương pháp xă hội học th́ t́m trong bối cảnh kinh tế, chính trị và xă hội chung quanh tác giả để cắt nghĩa tác phẩm. Đi xa và một chiều biến thành phương pháp phê b́nh duy vật của K. Marx, dựa trên lập trường gọi là giai cấp, cách mạng và chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa, dựa trên quá tŕnh phát triển của xă hội và của lịch sử. Ở miền Bắc khởi từ Trường Chinh từ những năm 1948, sau đó các vị làm công tác phê b́nh chỉ việc theo, như Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Đ́nh Kỵ, Hoài Thanh, v.v. Phê b́nh hiện sinh, nói đến con người như một cái ǵ do con người tự tạo, một hiện hữu tiên thiên trước yếu tính. Thuyết phê b́nh văn học “thi tứ không gian” (La poétique de l’espace) của Gaston Bachelard được Lê Tuyên áp dụng trong các giáo tŕnh ở đại học văn khoa Huế vào thập niên 1960, về ca dao tục ngữ, Kiều, Cung Oán ngâm khúc và đă xuất bản tập Chinh Phụ Ngâm Và Tâm Thức Lăng Mạn Của Kẻ Lưu Đày (11) năm 1961 và gần đây ở ngoài nước, cuốn Thể Tánh Của Thi Ca (12).

Cấu trúc luận (Lévi-Strauss, Michel Foucault, ...) từ thập niên 1960 khai tử “tác giả”, chỉ nhắm văn bản, cấu trúc của tác phẩm là cái xuất hiện trí thức của tác giả, của con người. Phương pháp chống nhân bản, có thể đưa đến phong trào sinh viên 1968, chống chiến tranh Việt Nam và đưa đến phong trào “tiểu thuyết mới” chủ tŕ cái chết của tác giả. Người viết mang mặt nạ, cũng là thời của tiểu thuyết thực nghiệm (experimental novels), tiểu thuyết phá thể - gốc gác, dấu vết triết học Marx đặt nặng vai tṛ sản xuất và vai tṛ của nó trong lịch sử. Huỳnh Phan Anh ít nhiều xử dụng những phương pháp này. Đỗ Long Vân t́m “con đường tơ lụa” trong Kiều và t́m dấu ấn ngôn ngữ giúp t́m dấu vết con người trong Nguồn Nước Ẩn Trong Thơ Hồ Xuân Hương. Hai thập niên sau có thuyết Hău Cău trúc luận (Post-Structuralism) chủ trương tách rời tổng thể khỏi cấu trúc, Jacques Derrida đưa ra thuyết Hủy Tạo (Deconstruction) phân tích kư hiệu để giải mă tác phẩm, không phân tích, tác phẩm trở nên bất tri. Phê b́nh hậu hiện đại cũng chú trọng khía cạnh chính trị. Sau Foucault là F. Jameson, Stanley Fish xem văn chương là một bằng chứng của sự đàn áp. Văn chương bị áp đặt dưới cái nh́n trừ “tà”, tố cáo. Vạch màn sương mù để nh́n “thực chất”. Phê b́nh hậu hiện đại phá hủy huyền thoại văn chương, lột trần, đặt lại vấn đề, tra vấn, t́m kiếm “chân lư”.

Các phương pháp đó có thể là những phương tiện, những lăng kính, những cách thức để hiểu văn học Việt Nam, sẽ là những đóng góp tốt, như Nguyễn Văn Trung khi nghiên cứu về văn học và tiểu thuyết (13), như Lê Tuyên khi viết về Chinh Phụ Ngâm (11), Đỗ Long Vân khi giải mă thơ Hồ Xuân Hương (14), Huỳnh Phan Anh về nhiều tác giả và tác phẩm (15), ...






Một nền văn nghệ mới khai sinh từ kinh nghiệm thế chiến thứ nh́ với những Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir, Françoise Sagan,... là một nền văn nghệ có tính chất triết lư “gần” con người và cuộc đời trần gian, xa thần quyền. Nhiều khuynh hướng văn nghệ mới được các giáo sư trẻ du học từ Âu châu về phổ dương, các ông Nguyễn Nam Châu, Nguyễn Văn Trung (Hoàng Thái Linh), Nguyên Sa Trần Bích Lan, Nguyễn Khắc Hoạch,... trên các tạp chí Đại Học của viện đại học Huế và các tạp chí văn nghệ mới Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Hiện Đại, v.v. Nhiều cây viết khác cũng góp phần giới thiệu những trào lưu văn nghệ mới, hiện tượng luận, Heidderger, và siêu h́nh học, Nietzche,... như Bùi Giáng, Tam Ích, Phạm Công Thiện, Đặng Phùng Quân, Trần Đỗ Dũng, Lê Huy Oanh, Trần Thiện Đạo, Trần Phong Giao, Nguyễn Nhật Duật, Huỳnh Phan Anh, Cô Liêu Vũ Đ́nh Lưu, Hoài Khanh, v.v.

Từ 1964, trong số những người làm văn nghệ xuất hiện một khuynh hướng triệt để hơn. Họ không bằng ḷng với thành quả đang đạt được. Một trong những người đó là Nguyên Sa chủ trương nghệ thuật phải hay và không làm văn nghệ theo phe nhóm hẹp ḥi vẫn thường hay “múa gậy vườn hoang” (16) như ông viết trong Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ. Ông đă nh́n lại quăng đường văn nghệ thời vừa qua, và đă kết án đó là một “nền văn chương trú ẩn” (17). Ông kết tội những người làm văn nghệ thời Sáng tạo trong đó có ông, đă phủ nhận văn học “lăng mạn” của tiền chiến “một cách mù mờ”. Ông cho rằng chủ trương văn nghệ mới của Sáng-tạo đă “vội vă, làm giản lược nhăn quan phán xét, làm phủ nhận thiếu vững chắc”. Theo ông, các nhà văn thời Sáng Tạo “chỉ chê văn chương lăng mạn. Tức là chúng tôi có thể làm văn chương hiện sinh. Chúng tôi có thể làm văn nghệ dấn thân. Chúng tôi có thể làm tiểu thuyết mới”. Tuy nhiên “đó là sự buồn bă ghê gớm của thế hệ năm mươi sáu mươi. Tiền chiến buồn bă bao nhiêu th́ chúng ta buồn bă bấy nhiêu. Bởi v́ những động đá trú ẩn. Tiền chiến và năm mươi sáu mươi vẫn là những nền văn nghệ trú ẩn trong những động đá kiên cố. Vẫn là những nền văn nghệ b́nh an và kỹ lưỡng” v́ “chúng ta chỉ yêu mến cái mới đă được chấp nhận. Chúng ta chỉ sáng tạo trong khuôn khổ (...) làm mới trong kích thước của cái mới đă được mang lại bởi những người làm văn học nghệ thuật không phải là chính ḿnh. (...) Ta chỉ là những người học tṛ tốt “ bắt chước hiện sinh, hiện thực xă hội. Nguyên Sa và một số trí thức của tờ Đất Nước đi đến quyết định “Nhớn rồi, ... phải rời bỏ những vùng trú ấn cũ,... những động đá cần thiết cho mùa Đông nhưng tù hăm lắm, tê liệt lắm” để “dấn thân”, “dân tộc” “đi về trước mặt. Đi đâu? Chưa biết. Đó là cuộc phiêu lưu”. Có thể “sự khám phá thần thánh” mà “cũng có thể là sự gục ngă. Gục ngă v́ dại khờ. Gục ngă v́ điên loạn. Nhưng trong văn nghệ, cũng như trong t́nh ái, chẳng thà gục ngă trong dại khờ c̣n hơn sống măi trong khôn ngoan. Chết ở chân trời thử thách, chết trong cuộc phiêu lưu c̣n hơn sống măi tầm gửi trong động đá trú ẩn êm ấm.”. Khi Nguyên Sa viết những ḍng trên là lúc văn chương “chính trị” của những Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Vơ Phiến, Doăn Quốc Sỹ, v.v. không c̣n đánh động được người đọc, làm như đă xong nhiệm vụ những năm đầu xây đựng nền tảng của một miền Nam không cộng sản. Thời gian sau đó cũng đă trả lời một cách oái oăm rằng văn chương hướng về dân tộc và tôn giáo sẽ là một thất bại khác - ít ra đă không tạo được những cây bút nỗi tiếng như vào thời cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Những cây viết thiên tả ở miền Nam như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Thế Nguyên, Nguyễn Trọng Văn liên tục theo dơi và tấn công những người làm văn nghệ khác, luôn nhân danh những “giá trị” chính họ không áp dụng. Cô-Liêu Vũ Đ́nh Lưu, Bùi Đức Uyên, Trần Văn Nam, ... có những đóng góp phê b́nh nghiêm chỉnh hơn!

Khuynh hướng văn chương dấn thân trội bật, từ ư thức đến chính trị. Khởi từ đây những tạp chí Đất Nước, Đối Diện, Tŕnh Bày, Hành Tŕnh, Thái Độ... đối đầu với chính trị và chiến tranh, mở một “chiến trường” chính trị và xă hội hơn, dấn thân sâu hơn. Một số văn nghệ sĩ dấn thân và phản chiến được người đọc theo dơi. Dấn thân có Thảo Trường, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Ngô Thế Vinh, Trần Hoài Thư, ...; phản chiến có Thế Nguyên, Mường Mán, Cung Tích Biền, Trần Vàng Sao,... về sau rơ ra là nằm vùng!

Từ những ră rời, tuyệt vọng do xă hội thời chiến đưa tới, vài năm sau làn sóng hiện sinh thời thượng là mốt “tiểu thuyết mới” đến từ Pháp với Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Xuân Hoàng,.... Một loại “phản tiểu thuyết”, nói như Jean-Paul Sartre, đối thoại và độc thoại cùng t́nh cảm nội tâm trộn lẫn, thứ tự thời gian đảo lộn, không cần đến cốt truyện, có khi không cả người kể. Nhân vật thường ở ngôi thứ ba (il, elle, on). Một thế giới rất “khách quan”, ở ngoài!

Sau khi đất nước chia đôi năm 1954, các trào lưu triết lư, văn-hóa và văn-chương hậu chiến như hiện sinh và hiện tượng luận ảnh-hưởng đến các sinh hoạt văn-hóa ở miền Nam. Hiện sinh xuất phát từ thời đệ nhị thế chiến, ảnh hưởng từ Heidegger và K. Jaspers và nối tiếp tiểu thuyết về thân phận con người, khuynh hướng lớn mạnh từ khi Jean-Paul Sartre xuất bản La Nausée năm 1938 và coi như chấm dứt với Les Mandarins của Simone de Beauvoir năm I954. Các nhà văn thơ miền Nam thuộc nhóm Sáng tạo, tạp chí Văn, Văn Học, Nghệ-Thuật, .. phản ánh phần nào khuynh hướng tiểu thuyết này. Đời là phi lư, là hố thẳm không thể vượt qua v́ luôn hiện hữu giữa con người và thế giới, giữa khát vọng con người và sự bất lực của thế giới bên ngoài thoả măn cá nhân! Con người xa thần quyền, chỉ biết giá trị của hiện tại và thực tại, lo sống cho cá nhân và hôm nay (Bếp Lửa, Tuổi Nước Độc,..), đời sống th́ buồn tẻ mà cá nhân th́ xác thịt và cảm tính mạnh hơn (Bốn Mươi, Ṿng Tay Học Tṛ, Tôi Nh́n Tôi Trên Vách, Sám Hối,...). Truyền thống, phong hóa, ... bị rời xa, bị phê phán, nh́n lại, cả chế diễu, v́ phải hiện đại. Sáng Tạo chê bai chối bỏ Tự Lực văn-đoàn. Rồi ảnh hưởng của tiểu thuyết Hoa Kỳ cũng như J. Joyce và Kafka, tiểu thuyết của một thế hệ lạc lơng, nên chưa thất vọng đă chán chường, tự chuốc lấy vấn-đề!

Khuynh hướng tiểu thuyết về dấn thân và thân phận con người nổi từ thập niên 30 ở Pháp với André Malraux, Céline, Saint-Exupéry, Bernanos, Montherlant, Aragon,... Một thể loại tiểu thuyết không chấp nhận giải trí xuông, mà đánh động lư trí bằng cách đưa tới phạm trù bi đát của phận người. Nhân vật thường tiêu biểu cho một giá trị. Tiểu thuyết từ nay là một dấn thân, một nếp sống hoạt động. Céline, qua Voyage au bout de la nuit, chống chiến tranh, chủ nghĩa thực dân, chống người Mỹ,... Malraux, viết Les Conquérants và La Condition humaine sau khi đă tham gia những cuộc cách mạng đẩm máu ở Trung-Hoa, trong rừng già Đế Thiên Đế Thích, t́m Đạo (La Voie royale), nhất là với L’Espoir, ông chống phát-xít, cổ vơ tự do. Với ông, tiểu thuyết hiện đại là “một phương tiện thích hợp nhất để nói đến cái bi đát, chứ không chỉ là một khám phá cá nhân”. Sau Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, khuynh hướng tiểu thuyết dấn thân đậm nét văn học miền Nam từ giữa thập niên 1960 với những Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư, Nguyên Vũ, ... trước khi trở thành phản chiến ở đầu thập niên 1970. Dấn thân tự do tŕnh bày, đem cái Tôi, cả trần truồng, trong một thế giới suy đồi, dù tự do, bên cạnh những đ̣i hỏi giá trị văn hóa hoặc ḷng tin. Văn chương thật sự phản kháng khi có đe dọa, bủa vây : Ngô Thế Vinh, Phan Nhật Nam,.. Từ phản kháng, có những nhà văn đi đến đối đầu đ̣i lật đổ chế độ, sau rơ ra do chỉ thị chứ chẳng ḷng thành ǵ : Vũ Hạnh, Thế Nguyên, Trần Hữu Lục (Cách Một Gịng Sông),... Chúng tôi đă có dịp tổng kết “mảng” tiểu thuyết này trong một nhận định đă xuất bản, Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh (1957-1997).







Kỹ thuật viết thay đổi! Phải chăng có thể nói đến những “thử nghiệm”, “tiến bộ”, “cải đổi” theo thời gian sự nghiệp và kinh nghiệm? Nguyễn Đ́nh Toàn là một thí dụ điển h́nh. Tiểu thuyết đầu Chị Em Hải xuất bản năm 1961, cốt truyện, nhân vật rơ rệt và động tác giản dị. Tác giả chi tiết ở những mô tả y phục và cử chỉ nhân vật. Ư tưởng làm nền có thể đạo đức, triết lư, nhưng chỉ mới ở ngưỡng cửa những ư tưởng phi lư, buồn nôn. T́nh yêu như một “thú” đau thương. Hải ham đọc sách, thông minh nhưng lănh đạm đến với t́nh yêu, lần đầu là căn gác lỡ lầm đáng tiếc! Những người tuổi trẻ này sống với “những khắc khổ đau đớn của cuộc đời vấy lấy họ. V́ họ đọc sách và biết nhiều họ sống lư tưởng nhưng lại biết rơ ḿnh viễn vông và sự thất vọng tàn của họ (...) Họ thu ḿnh trong chiếc vỏ cứng của cô đơn. Đó là một sự kiêu ngạo vô lư. Nhưng chính đó cũng là cứu cánh của họ. Nếu đập vỡ cái vỏ ấy, họ không c̣n là họ nữa, có thể họ sẽ tự tử v́ không chịu nổi cái vô lư của hiện hữu ḿnh...”. Đến Những Kẻ Đứng Bên Lề (1964), nhân vật phức tạp hơn, có sinh khí hơn, trong một cuộc sống đày bất trắc của chiến tranh. Thái, nhân vật chính, sống buông thả, sa đọa, nhưng cuối cùng bỏ Sài G̣n để trở về với biển cả. “Tôi là một kẻ viễn vông, ưa suy nghĩ như một cái cây tự mọc lá” (18). Con Đường (1967) đánh dấu một chặng đường mới trong việc t́m kiếm kỹ thuật và ngôn ngữ, trước đó, ông “thường bận tâm về vấn đề của cuốn tiểu thuyết sẽ viết, kể từ cuốn Con Đường tôi bận tâm về vấn đề viết chính cuốn tiểu thuyết đó nhiều hơn” như lời ông xác nhận trong một phỏng vấn của tạp chí Văn (19). Đến Áo Mơ Phai (1972), giải thưởng Văn-học Nghệ-thuật 1973, yếu tố “truyện” nhường chổ cho “truyện kể” để tác giả kể hồi ức, kỷ niệm. Tập tiểu thuyết bắt đầu như sau:

“Hà Nội 1954, tháng sáu chưa hết, nhưng mùa Thu đă đầy hơi lạnh. Buổi chiều im trong văn pḥng bước ra tới cửa Ṭa Đô Chánh, Quang đă có thể trông thấy sương mù trên mặt hồ Gươm”.

Và kết thúc ở trang 309 : “Lan ao ước được ḥa hợp; được tan biến vào Hà nội, đồng thời nàng cũng hoảng sợ khi tưởng tượng ra nàng đang kề sát mặt mũi ḿnh bên cạnh cái xác chết đang bắt đầu lạnh ngắt.

Nàng cũng mong mỏi một buổi chiều nao ngồi ở bao lơn đó, nàng sẽ trông thấy Quang đi tới. Lan không gọi nhưng Quang cũng sẽ ngửng lên và trông thấy nàng. Họ sẽ phải gặp nhau một lần cuối cùng như thế trong Hà nội, rồi có sẽ gặp nhau ở nơi xa xôi nào khác nữa không, là việc sau.

Ḷng mong đợi gay gắt đến nỗi, đă có khi Lan tưởng như nàng sẽ chết thật, sẽ không bao giờ thở được nữa”(20).

Ở giữa là cuộc sống b́nh thường của những nhân vật vốn là bạn hữu và gia đ́nh trong chốn không gian đó! Mất mát và đợi chờ là nội dung của truyện, nếu người đọc muốn ngừng lại ở một nội dung, một cốt truyện, một thảm kịch. Kỹ thuật tiến đổi, như tác giả xác nhận:

“Mỗi tác phẩm đă viết ra như que diêm đă được đốt cháy, nhà văn có bổn phận phải sang tạo, dù rằng toàn bộ tác phẩm chỉ là sự nối dài từ cuốn đầu tiên. Nhiều người đă nói tôi dùng lối viết quá dài, cả trang không chấm trong Áo Mơ Phai này mới mang đủ sắc thái không khí của Hà Nội. Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang song trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu... Áo Mơ Phai thoát ra từ cơn mơ đó từ khi tôi xa Hà Nội mới 17 tuổi...” (21).

florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
florida80's Avatar
Release: 05-04-2019
Reputation: 201051


Profile:
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,230
Last Update: None Rating: None
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	34.jpg
Views:	0
Size:	41.4 KB
ID:	1376692  
florida80_is_offline
Thanks: 7,294
Thanked 45,890 Times in 12,765 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139 florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
 
Page generated in 0.15152 seconds with 11 queries