𝐂𝐡𝐚𝐢 𝐧𝐮̛𝐨̛́𝐜 𝐦𝐚̆́𝐦 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐭𝐫𝐚̣𝐢 𝐭𝐮̀ Ú𝐜
Dù đã nói chuyện với anh nhiều lần qua điện thoại, đây là lần đầu tiên tôi trực tiếp đến thăm anh trong trại tù cách nơi tôi làm việc gần 100 cây số. Trong căn phòng họp chưa đầy 2 mét vuông, mới bước vào, thoạt nhìn thấy tôi, anh có vẻ lúng túng. Tôi cười nhẹ trấn an và ra dấu mời anh ngồi xuống.
Tôi mắng nhẹ anh: “Nghe nói mấy tuần qua anh bệnh vì nhịn ăn. Sao anh lại làm thế? Nếu anh không biết tự lo cho mình thì tôi cũng chẳng có cách nào để giúp anh được.”
Nghe vậy, tôi thấy ánh mắt anh long lanh cảm động. Tôi đoán có lẽ từ ngày trốn ở lậu và dính vào tội hình sự, anh không có thân nhân nào ở Úc quan tâm đến anh. Có lẽ vì thế, mà dù chỉ là bị nghe vài lời trách móc bằng tiếng Việt từ một kẻ xa lạ, anh vẫn khao khát cảm giác thân quen đó thì phải.
Anh kể: “Vâng, mấy tuần trước đúng là tôi nhịn ăn và ngã bệnh nặng. Nhưng một tuần qua tôi khỏe lại nhiều rồi cô ạ.”
Tôi ngạc nhiên hỏi: “Thế là sao anh?
Anh kể tiếp: “Lúc mới chuyển về đây, tôi không quen thức ăn trong này. Nhìn thức ăn Úc là tôi ngán muốn nôn. Nghĩ lại tôi chán đời và bỏ ăn luôn. Nhưng cách đây hơn một tuần, ban quản lý hỏi thăm tôi muốn và thèm ăn gì. Tôi chỉ trả lời rằng tôi nhớ món ăn Việt Nam và nhất là thèm được ăn nước mắm. Thế là hai ngày sau, họ mua cho tôi nguyên một thùng nước mắm và dặn, từ nay tôi muốn ăn đồ ăn Việt Nam hay món gì thì cứ cho họ hay, họ sẽ mua về để tôi tự nấu. Nhờ có nước mắm mà kể từ đó, tôi nhận làm đầu bếp cho tổ của mình. Giờ cả tổ của tôi đều biết và rất thích thức ăn Việt Nam. Tôi vui lắm cô ạ. Nước mắm Việt Nam cứu tôi đó cô!”
Tôi nhìn anh thương hại: “Thế tình trạng sức khỏe của anh hiện giờ đã ổn chưa?”
Anh trình bày thêm: “Hiện tôi tập thể dục thường xuyên hơn. Mới đây tôi cũng được khuyến khích chọn học một tay nghề nào đó để sau này tôi còn có tương lai sau khi được thả. Những người cai tù rất tử tế với tôi cô ạ.”
Tôi bắt đầu vào đề: “Tình hình hiện giờ anh sẽ ở trong đây ít nhất là 5 năm nữa. Nhưng chúng tôi sẽ tìm cách xin giảm án phạt cho anh để anh được sớm trở về với gia đình. Anh nghĩ sao?”
Anh trố mắt nhìn tôi hỏi dồn: “Nhưng tôi có được ở lại Úc không cô?”
Tôi trả lời: “Nếu anh được thả sớm và mãn án tù thì kế đến là anh sẽ được trả về Việt Nam. Chứ anh đâu còn phận sự hay visa gì để được ở lại Úc tiếp tục.”
Nói đến đây, mắt anh như có vẻ đanh lại ra chiều muốn đưa ra chỉ thị tuyệt đối với tôi: “Nếu vậy thì tôi không cần cô đại diện nữa. Tôi không cần ra khỏi nhà tù này sớm. Ở đây tôi còn sống tốt lành và tự do hơn. Nếu ra sớm mà không được ở lại thì tôi không cần cô giúp tôi. Tôi không cần luật sư!”
Buổi chiều hôm đó sau 1 giờ đồng hồ trao đổi với anh, tôi đã không còn dịp nào gặp lại anh nữa.
Mấy tuần sau đó, tôi nhận được một lá thư từ một trại tù nữ tại Nam Úc. Nội dung lá thư hối thúc chúng tôi gửi địa chỉ người thân của thân chủ chúng tôi để họ có thể sắp xếp xe cộ đưa thân chủ chúng tôi về nhà bình an vào ngày mãn hạn tù.
Nước Úc thật nhân đạo. Mỗi khi phạm nhân được trả tự do, ban trại tù rất vui mừng. Không những thế, họ còn chuẩn bị các bước hỗ trợ trước đó để trang bị cho phạm nhân một số kiến thức hay tay nghề để khi được trả tự do, phạm nhân có thể hội nhập và đóng góp vào xã hội sớm nhất có thể.
Riêng về một thân chủ đặc biệt từ chối sự giúp đỡ của tôi. Đến giờ phút này, nhiều năm sau nhìn lại, vẫn luôn là một ưu tư khắc khoải trong tôi. Có những lúc trong đêm thanh vắng tôi tự nhủ: “Anh vốn không cần một luật sư giúp anh ra khỏi tù sớm. Đừng có tiếc nuối hay áy náy nữa! Điều anh cần, không phài là thoát ra khỏi ngục tù của thể xác, mà là ngục tù của tư tưởng!”
__________________
|