Thread: Sưu tầm
View Single Post
Old 02-08-2020   #1389
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,172 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

4/ Những con đường tiệm cận tới bản chất của ư thức

Việc PSI không được công nhận là khoa học không phải là một tin buồn đối với những người tin vào thế giới tâm linh, mà ngược lại, đó là một tin vui, v́ nó chứng tỏ hai điều:
•Nó xác nhận hiện tượng tâm linh là có thật.
•Nó chỉ ra rằng khoa học vật chất không đủ để nghiên cứu ư thức và tâm linh. Nói cách khác, nó chỉ ra “cái gót A-sin” của khoa học duy vật ─ một dạng nhận thức dựa trên tư tưởng nền tảng cho rằng thế giới chỉ có vật chất và vật chất, ngoài ra không có cái ǵ khác.

Cái “gót A-sin” ấy cản trở con người tiến về phía trước trên con đường nhận thức sự thật. Điều này đă được nhấn mạnh bởi David Hawkins, nhà triết học khoa học nổi tiếng của Mỹ trong thế kỷ 20 (từng là thành viên trong Dự án Manhattan – Dự án chế tạo bọm nguyên tử của Mỹ trong những năm 1940). Ông nói:

consciousness-12“Trở ngại chính trên con đường phát triển của chúng ta là sự thiếu hiểu biết về bản chất của bản thân ư thức” (The main obstacle to our development is our lack of knowledge about the nature of consciousness itself). [14]

Làm thế nào để vượt qua trở ngại đó? Liệu khoa học có thể tự nó vượt qua trở ngại này không?

Câu trả lời là KHÔNG, chừng nào khoa học c̣n tiếp tục duy tŕ quan điểm lỗi thời cho rằng thế giới chỉ có vật chất và vật chất mà thôi. Nếu đóng khung trong quan niệm như thế th́ làm sao một lư thuyết thuần túy vật chất có thể giải thích một hiện thực phi vật chất? Chẳng phải các nhà khoa học giỏi nhất thế kỷ 20 như Max Planck, Einstein, Tesla, Gödel, Schrödinger,… đă nói rơ điều này rồi sao?

consciousness-13Các nhà triết học, thần học cũng thấy rơ điều đó. Trong cuốn “Vũ trụ trong một nguyên tử”, Đức Đạt Lai Lạt ma dùng thuyết nhân quả để bác bỏ khả năng quy giản tinh thần thành vật chất. Ngài viết:

“Điều cốt yếu để hiểu khái niệm của Phật giáo về ư thức – và sự bác bỏ của nó về khả năng quy giản tinh thần thành vật chất – là thuyết nhân quả” (trang 195, Công ty Nhă Nam và NXB Thế giới xuất bản năm 2016).

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng ư thức mang tính chủ quan, nhưng khoa học chỉ coi trọng những chứng cứ khách quan, và do đó khoa học dường như chẳng đạt được kết quả nào trong việc khám phá bản chất của ư thức:

“Kinh nghiệm của ư thức là hoàn toàn chủ quan. Tuy nhiên, điều nghịch lư là mặc cho thực tại không thể nghi ngờ của chủ quan tính của chúng ta và hàng ngàn năm khảo cứu triết học, có rất ít đồng thuận về vấn đề ư thức là ǵ. Khoa học, với phương pháp ngôi thứ ba đặc trưng của nó – cái nh́n khách quan từ bên ngoài – chỉ đạt được những tiến bộ ít ỏi đến kinh ngạc trong sự hiểu biết này” (trang 177, sách đă dẫn) (chữ in đậm do tôi nhấn mạnh, PVHg).

Vậy có cách nào để khoa học vượt qua trở ngại hiện nay không?

Đức Đạt Lai Lạt ma nêu lên một đề nghị: kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học với phương pháp nghiên cứu truyền thống của Phật học. Cụ thể, kết hợp phương pháp thí nghiệm khách quan, mà ngài gọi là “phương pháp ngôi thứ ba), của khoa học với phương pháp chủ quan của thiền định Phật giáo, mà ngài gọi là “phương pháp ngôi thứ nhất”.

Cái khó trong sự kết hợp này là ở chỗ khoa học xưa nay chỉ chấp nhận “phương pháp ngôi thứ ba”, tức là chỉ chấp nhận những kết luận được rút ra từ những thí nghiệm khách quan, có thể lặp đi lặp lại, cùng cho một kết quả như nhau. Chẳng hạn, quy luật F = ma dù được bạn kiểm tra ở Việt Nam hay tôi kiểm tra tại Úc sẽ đều cho một kết luận như nhau. Và khoa học xưa nay không chấp nhận bất kỳ một kinh nghiệm cá nhân chủ quan nào, nếu nó không được kiểm chứng bởi những người khác và cho cùng một kết quả. V́ thế khoa học rất khó có thể chấp nhận những kinh nghiệm thiền định của các bậc tu hành bất kể các ngài đắc đạo như thế nào. Xin nhắc lại ư kiến của nhà vật lư Peter Hodgson trong cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC đă dẫn ở trên:

“…kinh nghiệm cá nhân độc nhất, dù gây ấn tượng như thế nào đối với người nhận, không thể xem là một phần của khoa học”.

Giả sử có một thiền giả cao cấp đă chứng ngộ được những sự thật huyền nhiệm ở những cơi giới ư thức siêu linh, đồng thời lại là một nhà khoa học xuất chúng về vật lư, có khả năng quy kết những sự thật chứng ngộ được thành một định luật biểu thị dưới dạng toán học, liệu định luật đó có được khoa học công nhận không?

Câu trả lời là KHÔNG, nếu định luật đó không thể phát biểu được ở “ngôi thứ ba”, tức là không được kiểm chứng bởi những người khác ở địa vị hoàn toàn khách quan.

Thực chất vấn đề Đức Đạt Lai Lạt ma nêu lên cũng chính là vấn để hóc búa nhất của PSI ─ làm thế nào để kiểm chứng những ư thức nẩy sinh trong bộ năo của những nhà ngoại cảm? Làm thế nào để biết ư thức thực sự diễn ra như thế nào ở các “vị thánh chữa bệnh”? Không có cách nào cả. Chúng ta chỉ có thể xác nhận đó là những hiện thực, những sự thật diễn ra trước mắt, để tin rằng đó là những phép lạ có thật. Đọc cuốn “Nguyễn Đức Cần, nhà văn hóa tâm linh” của Nguyễn Phúc Giác Hải và Nguyễn Tài Đức, do NXB Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2013, một người có thể chất tinh thần lành mạnh không thể không tin đó là sự thật. Cá nhân tôi, tôi hoàn toàn tin đó là sự thật, v́ hai lư do: một, tôi có người nhà được cụ Cần chữa bệnh; hai, bản thân tôi có những trải nghiệm tâm linh nhất định, đủ để tôi tin vào sự tồn tại của những thế giới tâm linh khác và cao hơn thế giới vật chất của chúng ta. Tuy nhiên, niềm tin của cá nhân tôi và của hàng ngh́n hàng vạn người khác không đủ để trở thành một phát biểu ở “ngôi thứ ba” mà khoa học yêu cầu. Đức Đạt Lai Lạt Ma viết:

“Tôi biết rằng có sự hoài nghi sâu sắc về các phương pháp ngôi thứ nhất trong khoa học hiện đại” (trang201, sách đă dẫn).

Nhưng ngài cho rằng ĐĂ ĐẾN LÚC khoa học phải t́m cách dung nạp những trải nghiệm chủ quan, nếu thực sự muốn khám phá bí ẩn của ư thức, bởi bản thân ư thức mang tính chủ quan:

“Do đó một nghiên cứu khoa học toàn diện về ư thức phải dung chứa cả hai phương pháp ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất” (trang 199, sách đă dẫn).

Đây thực sự là một lời mời gọi khoa học nhưng đồng thời là một thách thức quá lớn đối với khoa học, bởi nếu khoa học chấp nhận “ngôi thứ nhất” th́ khoa học không c̣n là khoa học nữa, ít nhất là khoa học theo cách hiểu như hiện nay.

Riêng tôi, từ lâu tôi đă cho rằng có thể tiệm cận tới thế giới kỳ diệu của ư thức bằng một phương pháp hoàn toàn khác, đó là phương pháp của logic toán học, mà Kurt Gödel từng gợi ư. Để đi theo hướng này, nhà khoa học phải xây dựng cho ḿnh một hệ tiên đề. Từ đó nêu lên các định lư, tập hợp các định lư sẽ tạo nên một lư thuyết logic về ư thức. Nếu lư thuyết này phù hợp với các hiện tượng thực tế liên quan đến ư thức th́ nó sẽ được chấp nhận; ngược lại nếu mâu thuẫn với thực tế th́ sẽ bị loại bỏ.
florida80_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.09906 seconds with 10 queries