R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,172 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Chú ư rằng tư duy trực giác cũng chỉ là một dạng thức đặc biệt của ư thức. Nó chẳng phải cái ǵ khác chiếc đèn pha của ư thức giúp con người phát hiện được chân lư một cách trực tiếp và bất chợt, không thông qua suy luận. Tất cả các nhà khoa học lớn đều thấy rơ điều đó. Henri Poincaré, nhà toán học vĩ đại nhất cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, cũng từng nói “Logic giúp ta chứng minh, trực giác giúp ta khám phá”. Nhưng có lẽ Einstein là người băn khoăn nhiều nhất về bí ẩn của trực giác, v́ thế ông thường xuyên nhắc tới vai tṛ định hướng của trực giác trong khám phá, đồng thời gợi ư cho chúng ta suy ngẫm về tính chất bí ẩn không thể giải thích của dạng năng lực tinh thần kỳ lạ này. Ông nói:
“Tri thức đóng vai tṛ thứ yếu trên con đường khám phá. Có một sự nhảy vọt trong ư thức được gọi là Trực giác hay gọi là ǵ tùy ư, nhờ đó mà bạn t́m thấy lời giải nhưng bạn không hiểu điều đó diễn ra như thế nào và tại sao” (The intellect has little to do on the road to discovery. There comes a leap in consciousness, call it Intuition or what you will, the solution comes to you and you don’t know or why).
Nếu Einstein c̣n để cho chúng ta tự suy đoán nguồn gốc của năng lực tinh thần kỳ lạ đó th́ Nicolas Tesla, một nhà khoa học xuất chúng đầu thế kỷ 20 lại nói rơ rằng nó đến từ một Trung Tâm trong vũ trụ.
consciousness-8Nicolas Tesla (1856 – 1943)
Vào thời của Tesla, khái niệm trung tâm phát thanh và truyền h́nh hoặc là chưa có, hoặc là c̣n quá non trẻ, vậy mà Tesla đă quan niệm bộ óc của chúng ta chỉ là một chiếc máy nhận thông tin, giống như chiếc radio hay tivi bây giờ vậy. Nói cách khác, theo Tesla, ư thức đơn giản chỉ là những thông tin xuất phát từ một Trung tâm trí tuệ trong vũ trụ. Trung Tâm này là ǵ, nếu không phải Thượng Đế? Đây, ông nói:
“Bộ năo của tôi chỉ là một điểm tiếp nhận. Trong Vũ trụ tồn tại một trung tâm mà từ đó chúng ta nhận được tri thức, sức mạnh, cảm hứng. Tôi chưa thâm nhập được vào những bí mật của trung tâm này, nhưng tôi biết nó tồn tại” (My brain is only a receiver. In the Universe there is a core from which we obtain knowledge, strength, inspiration. I have not penetrated into the secrets of this core, but I know that it exists) [7]
Câu nói trên, mặc dù không có chứng minh khoa học, nhưng nó mang bóng dáng của một ngoại cảm tiên tri. [8]
Một câu nói khác của ông cũng chứa đựng nhiều gợi ư về bản chất của nhận thức:
“Thật nghịch lư nhưng là sự thật khi nói rằng chúng ta càng hiểu biết càng trở nên dốt nát theo nghĩa đen, bởi v́ chỉ thông qua sự khai sáng th́ chúng ta mới ư thức được những hạn chế của chúng ta” (It is paradoxical, yet true, to say, that the more we know, the more ignorant we become in the absolute sense, for it is only through enlightenment that we become conscious of our limitations) [9].
Tôi không rơ câu nói này được nói ra vào thời điểm nào, nhưng nó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của Định lư Bất toàn của Gödel năm 1931. Định lư này khẳng định rằng nhận thức của chúng ta bị hạn chế. Nhưng Tesla ư thức được tính hạn chế đó không phải do Định lư Gödel, mà do được khai sáng, tức được Chúa mặc khải. Khái niệm được mặc khải thực ra cũng là khái niệm trực giác như Einstein nhấn mạnh, đó là món quà thiêng liêng…
consciousness-9Kurt Gödel (1906 – 1978)
Như chúng ta đă thấy, ư thức của con người bao gồm cả logic lẫn phi logic, và Douglas Hofstadter đă chỉ ra rằng tư duy logic không phải là thành phần mang tính người nhiều nhất. Tư duy mang tính người nhiều nhất là tư duy cảm xúc ─ dạng tư duy theo cảm hứng, phi logic và không tuân thủ chương tŕnh…
Sau một thời gian dài các nhà khoa học đánh giá trí thông minh theo cái gọi là IQ, để rồi thấy không ổn, gần đây họ sáng tác ra cái gọi là EQ. Đây là hệ quả của chủ nghĩa duy vật thô thiển, muốn quy mọi hiện tượng trong thế giới hiện thực về vật chất có thể cân đong đo đếm được. Điều đáng buồn là những sáng tác này được đám đông hùa theo, đương nhiên coi đó là những khái niệm khoa học. Nhưng đối với những người có cái nh́n triết học sâu sắc, đó chỉ là những tṛ hề khoa học. Bản thân chữ EQ (Emotional Quotient) đă là sai lầm, bởi cảm xúc là một hiện tượng không thể đo được. Nói cách khác, mọi giá trị đo lường về cảm xúc đều phiến diện, sai lệch, làm méo mó sự thật. Thí dụ, mọi cách cho điểm các bức tranh của Van Gogh đều vô nghĩa, kể cả việc đo giá trị bức tranh bằng số tiền bán được. Tất cả những con số đó đều là lừa dối, không phản ánh được cảm xúc thực sự của người thưởng thức tranh. V́ thế, Hofstadter từng nói nếu computer có thể vẽ tranh hay viết văn ở tŕnh độ nghệ thuật th́ đó sẽ là một thảm họa.
Tất cả những thảo luận nói trên sẽ có thể kém thuyết phục nếu không có Định lư Bất toàn của Kurrt Gödel, “nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle”.
Thật trớ trêu, Định lư Bất toàn là con đẻ của toán học logic, nó đặt nền móng cho khoa học computer, nhưng nội dung của nó lại nói lên tính bất toàn của logic. Nếu trường phái Hilbert tôn sùng logic như “đấng toàn năng” của toán học th́ Gödel lại hạ nó xuống đúng vị trí của nó, rằng logic là ngôn ngữ đắc dụng của computer, với những hạn chế mang tính bản chất không thể khắc phục được, và đối với con người, logic chỉ là một bộ phận của ư thức ─ ư thức của con người rộng lớn hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với cái phần logic đó. Đây, hăy nghe ông nói:
“Bộ năo là một chiếc máy tính được kết nối với một tâm linh” (The brain is a computing machine connected with a spirit) và “Ư thức được kết nối với một cái toàn thể” (Consciousness is connected with one unity) [10].
Chữ “bộ năo” trong câu nói trên phải được hiểu là ư thức lưu hành trong bộ năo. Vậy theo Gödel, ư thức ấy không chỉ có tư duy tính toán, tư duy theo chương tŕnh, mà bao gồm cả tâm linh ─ phần ư thức chứa đựng tất cả những ǵ mà toán học nói riêng và khoa học nói chung bất lực, chẳng hạn như cảm xúc âm nhạc, cảm xúc trước cái đẹp, cảm xúc thi ca, khả năng trực giác, ngoại cảm, tiên tri,… Ở một mức độ nào đó, có thể thấy Gödel vượt xa Einstein trong những suy nghĩ về bản chất của ư thức ─ ông không dừng lại ở chỗ ngạc nhiên trước sự kỳ lạ khó hiểu về những khả năng không thể giải thích được của ư thức, mà cho rằng cái ư thức đó được nối kết với một trung tâm trí tuệ nào đó của vũ trụ, cái mà ông gọi là “một toàn thể” (one unity). Ở chỗ này ta thấy Gödel có phần nào giống Tesla, khi Tesla cho rằng bộ năo chỉ là chiếc máy thu những tri thức được phát ra từ một Trung Tâm trong vũ trụ.
Cái mà Tesla gọi là một Trung Tâm, và Gödel gọi là một Toàn thể, thực ra là Thượng Đế, hoặc Đấng Sáng tạo, Đấng Toàn năng, Nhà Thiết kế Vũ trụ, Nhà Lập tŕnh Vũ trụ, Chúa, Brama, Alah, Bà Mẹ Tự Nhiên,… Điều này rất dễ hiểu, bởi cả Tesla lẫn Gödel đều công khai bầy tỏ Đức tin của ḿnh.
Tesla từng nói: “Quà tặng sức mạnh tinh thần đến từ Chúa, Thực thể Thần thánh, và nếu chúng ta tập trung tư tưởng của chúng ta vào chân lư đó, chúng ta sẽ ḥa hợp với sức mạnh vĩ đại ấy. Mẹ tôi dạy tôi t́m kiếm mọi chân lư từ trong Kinh Thánh”. [11]
Gödel c̣n đi xa hơn thế, ông không chỉ khẳng định sự tồn tại của những thế giới khác với thế giới chúng ta đang sống, mà c̣n dùng toán học logic để chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Đầu năm 2013 hai nhà khoa học computer là Christoph Benzmüller thuộc Đại học Tự do ở Berlin (Free University of Berlin) và Bruno Woltzenlogel Paleo thuộc Đại học Kỹ thuật Vienna đă bắt tay vào việc “computer hóa” toàn bộ chứng minh của Gödel. Không đầy một năm, đến Tháng 10, kết quả được công bố trong một công tŕnh mang tên: “Formalization, Mechanization and Automation of Gödel’s Proof of God’s Existence” (H́nh thức hóa, Cơ giới hóa và Tự động hóa chứng minh của Gödel về sự hiện hữu của Chúa). Công tŕnh này được giới khoa học computer nhiệt liệt hưởng ứng như một mẫu mực của bài toán computer hóa các định lư toán học. [12]
consciousness-10Erwin Schrödinger (1887 – 1961)
Erwin Schrödinger là nhà vật lư lỗi lạc người Áo, đoạt Giải Nobel năm 1933, nổi tiếng với phương tŕnh sóng trong Cơ học Lượng tử. Ông tuyên bố rất rơ ràng và dứt khoát về bản chất của ư thức như sau:
“Ư thức không thể giải thích được bằng những thuật ngữ mang tính vật chất. V́ ư thức là khái niệm gốc rễ, không thể giải thích được bằng thuật ngữ của bất cứ thứ ǵ khác” (Consciousness cannot be accounted for in physical terms. For cansciousness is absolutely fundamental. It cannot be accounted for in terms of anything else). [13]
Ư kiến này có thể xem như một lời thuyết minh hoặc tán thưởng ư kiến của Planck đă dẫn ở trên, rằng phải có ư thức th́ mới nhận thức được mọi thứ, ư thức là mắt xích đầu tiên của hệ thống nhận thức, v́ thế không thể giải thích mắt xích đầu tiên ấy là cái ǵ được.
Tóm lại, luận thuyết Descartes vẫn đứng vững trong thế kỷ 20, ít nhất trong tư tưởng của những nhà khoa học tài giỏi nhất và có tầm nh́n triết học sâu xa nhất.
Tuy nhiên, các nhà khoa học duy vật không có lựa chọn nào khác là phải cố gắng chứng minh ư thức chỉ là một dạng vật chất đặc biệt nào đó. Hy vọng chứng minh này dấy lên mạnh mẽ trong bối cảnh xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng ngoại cảm và tâm linh trên khắp thế giới. Nổi tiếng nhất là hiện tượng chữa bệnh bằng tâm linh có hiệu quả thực tế rất cao của nhà chữa bệnh bằng tâm linh Bruno Gröning ở Đức giai đoạn 1949-1959 và nhà chữa bệnh bằng tâm linh Nguyễn Đức Cần ở Việt Nam những năm 1970,… Nhiều dự án nghiên cứu những hiện tượng này đă xuất hiện ở nhiều quốc gia, được gọi tắt trên sách báo quốc tế là PSI, thu hút sự chú ư của rất nhiều nhà khoa học lẫn người không làm khoa học. Vậy kết quả PSI ra sao?
|