R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,172 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Tại sao vậy?
Tại vì đối với chuyện thế gian thì lý trí thường thắng thế, nên người ta nhìn sự việc một cách thận trọng. Nhưng về tình cảm và tâm linh thì con người trở nên rất yếu đuối, dễ mềm lòng. Đó là lý do tà sư tà đạo có thể hoành hành, do sự cả tin của người tìm đạo thiếu chánh kiến.
Trong kinh Kamala, đức Phật đã dạy đại ý rằng:
“- Đừng vội tin bất cứ điều gì chỉ vì đã nghe thấy,
- Đừng vội tin vào các truyền thống chỉ vì chúng đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được nhiều người nói tới hoặc đồn đại.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được tìm thấy trong các sách vở.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được các bậc đạo sư hay các vị trưởng lão dạy bảo.”
- Nhưng sau khi quán sát và phân tích, khi đã thấy mọi thứ hợp với lẽ phải và đem lại lợi ích cho mọi người, thì hãy chấp nhận nó và sống phù hợp theo nó.”
Nhà Phật có những công thức rất ngắn gọn để nhắc nhở Phật tử như “Văn, Tư, Tu”, nghĩa là đầu tiên phải nghe kinh, hoặc nghe giảng pháp (là văn), rồi suy nghĩ để tìm hiểu (là tư), khi đã hiểu rõ nội dung phần lý thuyết thì bước lên con đường tu hành (là tu).
Khi xưa phương tiện truyền thông nghèo nàn, kinh sách rất thiếu thốn, lâu lắm mới có một kỳ in kinh, thường là khắc lên miếng gỗ để in lên giấy bản, sách đóng bằng nhiều tờ giấy xếp lên nhau, dán bằng nhựa quả cậy, gọi là bìa phất cậy. Rất ít chùa có được một tủ sách kinh. Chùa nhỏ thường chỉ có năm ba cuốn kinh nhật tụng. Cho nên khi nào có quý vị tăng đi hoằng pháp thì dân chúng kéo nhau đi nghe rất đông. Những cơ hội như thế rất là hiếm hoi.
Ngày nay kinh sách in ra rất nhiều, băng giảng của quý vị cao tăng phổ biến khắp nơi, ngoài ra lại còn có những thư viện điện tử toàn cầu, dù ở tận hang cùng ngõ hẻm, không tới được chùa, mọi người vẫn có kinh sách và luận giải trong internet để mà đọc, vẫn có băng giảng, đĩa CD để mở máy lên nghe giảng pháp hằng ngày, nếu muốn.
Vì vậy, chúng ta nên áp dụng câu Văn, Tư, Tu một cách tích cực. Đồng thời chúng ta cũng cần nhớ bài học trong kinh Kamala, phải dùng chánh tri kiến để chiếu rọi vào những lời giảng, để phân biệt rõ chánh pháp hoặc tà pháp.
Nhờ có chánh kiến làm ngọn hải đăng, hành giả có thể tự mình phân biệt được, để không phí uổng công trình tu tập, mất thì giờ và tiền bạc đi theo tà sư, mang hận một đời.
Sau đây là một câu chuyện thiền, trích dịch từ cuốn “Collection of Stone and Sand”, do thiền sư Muju viết bằng Nhật ngữ, Paul Reps dịch sang Anh Ngữ.
“Bên nước Nhật thời xưa, người ta dùng đèn lồng bằng tre và giấy, có gắn nến bên trong. Một đêm kia, có một người mù đến thăm bạn, khi ra về, người bạn trao cho cái đèn lồng để anh ta cầm về. Anh mù từ chối:
- Tôi không cần đèn đâu mà. Đối với tôi thì sáng hay tối cũng vậy thôi.
Người bạn trả lời:
- Tôi biết là anh không cần đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm cái đèn này, thì biết đâu lại chẳng có người chạy tới đâm xầm vào anh. Cho nên anh hãy cầm lấy.
Người mù cầm đèn ra đi. Nhưng chưa được bao xa thì bỗng có người tông thẳng ngay vào anh ta từ phía trước. Anh ta giận dữ quát:
- Phải coi chừng chứ, bộ anh không nhìn thấy cây đèn này hả.
Người kia trả lời:
- Ông anh ơi, đèn của ông đã tắt ngóm mất rồi.”
Như chúng ta đã thấy, người mù cầm đèn vì quá tin tưởng vào cây đèn, không nghĩ tới chuyện đèn đã tắt. Nếu anh ta biết rằng mọi sự trên đời đều vận hành trong trạng thái vô thường, không có gì là bền vững, cây đèn ra gió có thể tắt bất cứ lúc nào, là có chánh kiến. Nếu anh ta có chánh kiến thì đã không giữ khư khư cái ý kiến rằng mình cầm cây đèn sáng, mà có thể nghĩ rằng đèn tắt mất rồi, không mắng người để bị cười nhạo.
Liên Hương (ĐPK)
|