|
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,181 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
15) Kinh Về Bạo Lực
Đức Phật dạy:
-943. Chớ để bị lôi kéo vào lời sai trái
Chớ ưa thích ngoại h́nh sắc tướngHăy hiểu tận tường ngă chấp
Xa ĺa tranh căi, xô xát, bạo lực.Nh́n vào thế giới ngày hôm nay, bạo lực lan tràn là v́ chấp vào đúng-sai, quan niệm của tôi đúng, anh sai. Chấp vào ngoại h́nh, sắc tướng như: Cách thờ phượng, cách ăn mặc, để râu tóc, khăn trùm đầu kín mặt mà ḿnh cố chấp và cho đó là biểu tượng linh thiêng. Và sau cùng là do chấp Ngă, tức cho rằng thực có “cái tôi”. Từ “cái tôi” mà đẻ ra “cái của tôi”. Đụng vào “cái của tôi” dù “cái của tôi” đó ở trên Cung Trăng, chắc chắn phải đổ máu. Đó là nguyên do của bạo lực.
16) Kinh Về Sariputta (Xá Lợi Phất)
-963. Đức Phật: Ta sẽ nói cho ngươi, Xá Lợi Phất, ngươi đă biết [Pháp] về những ǵ thoải mái với người đă ly dục người thường tới nơi cô tịch người ước muốn Giác Ngộ theo Chánh Pháp.
-964 Vị sư tỉnh thức, trí tuệ, sống cô tịch không nên có năm nỗi sợ: ruồi nhặng, muỗi ṃng, rắn gặp gỡ người khác, loài thú bốn chân.
-965 Cũng chớ nên sợ tín đồ giáo pháp khác kể cả khi người dị giáo kia làm điều kinh sợ. Thêm nữa, người đi t́m thiện lành nên vượt qua tất cả các hiểm nguy khác – 966. Kham nhẫn cả khi bệnh, đói và khát chịu đựng cả khi trời trở lạnh, cực nóng.
Người tu sĩ không nhà chớ dao động hăy tinh tấn, ra sức tu học.
B-Phẩm Qua Bờ Bên Kia (Đáo Bỉ Ngạn)
“Phẩm Qua Bờ Bên Kia gồm 16 kinh, mỗi kinh ghi lại những lời đối thoại của 16 giáo sĩ Bà La Môn với Đức Phật. Nhóm 16 vị này là học tṛ của đạo sĩ Bavari. Sau các câu đối thoại, 15 vị đầu tiên tức khắc vào thánh vị A La Hán. Các bộ chú giải đời sau nói dị biệt về giáo sĩ thứ 16. Vị này tên Pingiya. Có chú giải nói rằng ngài Pingiya sau khi đối thoại với Đức Phật (Kinh Sn 5.16) vào thánh vị Sơ Quả (Nhập Lưu), có chú giải khác nói rằng ngài Pingiya đắc thánh vị Tam Quả (Bất Lai).”
“Phần giới thiệu của kinh này là do đời sau ghép vào. Phần này kể rằng người Bà La Môn Bavari thông thạo các bộ Vệ Đà, bản thân có 16 môn đệ giỏi, và mỗi môn đệ có trường dạy với các môn đệ riêng. Bavari bị một dị nhân tới làm bùa chú, trù ếm là Bavari sẽ bị chẻ đầu làm bảy mảnh v́ không có để cúng ông này 500 tiền vàng. Bavari sầu khổ, được một vị thiên (trời) tới chỉ dẫn, rằng hăy t́m Đức Phật để cứu nạn. Bavari nhờ 16 môn đệ t́m tới Đức Phật. “
– 998. [Bavari] Bậc Toàn Giác rất hiếm gặp nơi thế giới này đă tới. Hăy nhanh chóng tới thành Savatthi để gặp Người Tối Thắng này.
-999. [Các môn đệ] Kính thưa Ngài Bà La Môn, làm sao chúng con biết vị đó là Đức Phật Toàn Giác? Thầy hăy chỉ chúng con cách làm sao để biết đó là vị Thế Tôn?
-1000. [Bavari] Trong các bộ Vệ Đà truyền lại cho chúng ta có ghi về 32 tướng tốt của bậc Thượng Nhân.
-1001. Hễ có ở tay chân 32 tướng tốt của bậc Thượng Nhân, vị đó sẽ chỉ có hai nơi định sẵn, không có trường hợp thứ ba.
-1002. Nếu sống đời tại gia, vị này sẽ chiến thắng địa cầu này, không dùng gậy hay gươm, vị này cai trị theo Chánh pháp.
1003. Nếu xuất gia, vị này sẽ là bậc Gỡ Bỏ Vô Minh, là bậc Thế Tôn, là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, vô thượng.
– 1015. Nay là lúc Đấng Thế Tôn ngồi trước tăng đoàn, đang giảng pháp cho các tỳ khưu, như tiếng gầm sư tử trong rừng.
-1016. Ajita nh́n thấy Đức Phật, hào quang như mặt trời sáng rực, như mặt trăng trong đêm rằm.
-1017. và sau khi nh́n thấy các đặc tướng đầy đủ nơi tay chân của Đức Phật, Ajita vui mừng đứng bên, và hỏi thầm trong tâm.
-1025. [Ajita] Bavari hỏi về đầu và về chẻ đầu ra nhiều mảnh. Xin Thế Tôn giải thích, gỡ bỏ nghi ngờ của chúng con.
-1026. [Đức Phật] Hăy biết vô minh gọi là “cái đầu” trong khi hiểu biết ra (giác ngộ) chính là “chẻ đầu ra” , nối kết với tín, niệm, định, dục tinh tấn, và năng lực.
-1027. [Người kể] Với cảm xúc lớn, bày tỏ tôn kính, chàng trai quấn tấm da nai lên một vai, quỳ lạy đặt đầu nơi bàn chân Đức Phật
– 1029. [Đức Phật] Người Bà La Môn Bavari, hăy sống vui, an lạc với các môn đệ. Và quư vị hăy sống vui, an lạc. Và chàng trai này, mong chàng sống trường thọ.
-1030. Tất cả nghi ngờ nào Bavari, hay ông, hay bất kỳ ai có, hay bất cứ những ǵ trong tâm, người đều được phép hỏi.
-1031. Được Đức Phật cho phép, Ajita ngồi xuống, hai tay chắp kính lễ và hỏi Đức Như Lai câu hỏi đầu tiên.
1) Các câu hỏi của chàng thanh niên Ajita
-1032. [Ajita] Thế giới này bị những ǵ bao phủ? Sao nó không chiếu sáng ra được? Xin ngài nói cái ǵ làm nó ô nhiễm? Nỗi sợ lớn của thế giới là ǵ?
-1033. [Đức Phật] Vô minh bao che thế giới này. Nó không chiếu sáng được v́ ngăn che bởi tham dục và không tỉnh thức (không được thấy như nó là). Tham cầu là ô nhiễm của nó. Ta nói, khổ là nỗi sợ lớn của thế giới.
2) Các câu hỏi của Tissa-Metteyya
– 1040. [Tissa] Ai thỏa măn trong thế giới này? Ai không dao động? Ai là người trí tuệ, đă biết suốt cả hai đầu (quá khứ và tương lai), và không nhiễm ô nơi chặng giữa (hiện tại)? Ai mà ngài gọi là bậc Thượng Nhân? Ai là người vượt qua được mạng lưới tham ái thêu dệt?
-1041. [Đức Phật] Đó là người sống đời trong sạch giữa các thọ lạc, xa ĺa tham, luôn luôn tỉnh thức và tịch lặng, tự quán chiếu sâu thẳm, không c̣n ǵ dao động.
-1042. Đó là một người trí tuệ, đă biết cả hai đầu nhị biên, và không dính mắc vào chặng giữa. Ta gọi đó là bậc Thượng Nhân, người đă vượt qua mạng lưới lưới thêu dệt ái nhiễm.
3) Các câu hỏi của Punnaka
-1043. [Punnaka] Đối trước người bất động, người đă thấy cội rễ, con xin nêu câu hỏi: V́ sao nhiều đạo sĩ, dân chúng, giới quư tộc và giới Bà La Môn trong thế giới này cúng lễ các vị thiên? Xin Đức Phật trả lời cho con.”
“Qua lời Phật dạy, nghi lễ tôn giáo là vô ích. Cúng lễ, hiến tế vô ích. Giải thoát là người đă thấy được xa và gần trong thế giới này (has discerned far and near in the world). Xa và gần là ǵ? Có thể hiểu như Kinh Sn 5.2. Nhưng Kinh Sn 5.3 không nói ǵ về chặng giữa, cho nên “xa và gần” có thể hiểu như nh́n thấy trong chánh niệm các pháp tập khởi và biến diệt. Đức Phật cũng dạy là phải vắng lặng và tỉnh thức và xa ĺa tham với sân.”
|