|
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,181 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
Về mặt tu dưỡng, phát triển trí tuệ một cách thích đáng trong ḍng tâm thức để liễu tri tánh Không là một phương pháp đối trị vọng tưởng ngă chấp. Nói cách khác, để thấy cái tôi không thực hữu thờicần phải thành đạt thứ trí tuệ hiểu được h́nh thức bản năng của sự chấp thủ cái tôi. Nhờ thế mới có thể nhổ tận gốc sự chấp ngă theo bản năng tức là cắt đứt gốc rễ của sinh tử. Theo Đại thừa, bồ đề tâm là cửa ngơ duy nhất của con đường đến giải thoát, là pháp tu căn bản để đạt được tuệ quán đặc biệtchứng ngộ tánh Không.
Phương pháp căn bản để thực hiện tư tưởng “chân không diệu hữu” của Đại thừa được nhắc đến một cách rất tha thiết và thành khẩn trong bài văn Khuyến phát bồ đề tâm của Đại sư Thật Hiền do HT Thích Trí Quang dịch và giải. Ở phần tiểu dẫn, Ḥa thượng viết: “Đối với người học Phật, phát bồ đề tâm không những là bước đầu mà c̣n là căn bản, không những là căn bản mà c̣n là cứu cánh”, và giải thích: “Phát bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng bồ đề, kế đó phát triển tuệ giác ấy, cuối cùng phát hiện bản thể của tuệ giác ấy là chân như. Giai đoạn trước hết, chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng bồ đề hàm có hai tính chất mà thành ngữ thường nói là thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.”
“Về lư do phát bồ đề tâm, ngoài nỗi thống khổ sinh tử mà ḿnh mục kích và ư thức, có hai việc mà kinh luận đề cập nhiều nhất, đó là tự biết ḿnh có thể làm Phật, và tha thiết hơn cả, nghĩ đến sự suy tàn của Phật pháp.”
Đặc sắc của sự thể hiện tinh thần “thượng cầu bồ đề, hạ hóa chúng sinh” là tuy có hai phương diện nỗ lực, mưu cầu sự giác ngộ cho chính ḿnh và mưu cầu sự giác ngộ cho kẻ khác, nhưng tựu trung chúng cùng một thể, không thể chia ra làm hai mà phải luôn luôn hợp nhất mới hội đủ điều kiện tất yếu để đi đến chỗ hoàn thành cái đại thệ nguyện của Bồ tát. Do đó, một số câu hỏi được đặt ra:
– Làm sao các bực đă thành tựu tuyệt trừ mê lầm ảo kiến về tự ngă, chứng ngộ Phật tánh, và thực hiện giải thoát có thể trở lại lăn lộn và ḥa đồng với thế gian đầy dẫy phân biệt, hư vọng, ái dục, và chấp trước?
– Tri thức thường nghiệm và tư duy lượng đoán của con người có khả năng đến mức độ nào để thông đạt sự quan hệ căn bản giữa vọng tâm và tịnh tâm?
– Làm sao giải quyết sự căng thẳng giữa một bên là khuynh hướng muốn mô tả tự tính, tự thể của sự vật và bên kia là ư thức về giới hạn biểu tượng và diễn đạt của ngôn ngữ?
Trung luận giúp ta phần nào t́m thấy kiến giải cho những vấn đề nêu ra trong các câu hỏi đó.
Về mặt giáo hóa nhằm mục đích thành đạt chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng bồ đề, nếu nh́n một cách tổng quát cấu trúc của Trung luận thời chỉ thấy vỏn vẹn bài XXIV.18, một trong số 446 bài tụng, là có đề cập vấn đề “hạ hóa chúng sanh”. Hầu hết các bài tụng khác đều hướng về “thượng cầu bồ đề”, triệt để phủ định để phá chấp và tiêu diệt hư luận trong quá tŕnh tu dưỡng, tích cực phủ định giá trị biểu tượng tiến tŕnh thực tại của ngôn ngữ, và phủ định luôn cả đường lối suy luận thông tục nữa.
Để t́m hiểu Ngài Long Thọ theo lập trường Bát nhă đă căn cứ vào điểm tất yếu nào để phủ định tất cả những tướng sai biệt mà chủ trương tánh Không, Kimura Taiken đưa ra hai lư do. Một là dựa trên nhận thức luận mà cho rằng thế gian này hoàn toàn là biểu tượng của tâm, ngoài tâm ra tất cả đều không. Hai là căn cứ vào nền tảng tất yếu về sự tu dưỡng để thực hiện lư tưởng giải thoát niết bàn mà thấu suốt tất cả đều là không. Tuy nhiên, trên phương diện nhận thức luận cái không tuy phủ định ư nghĩa hiện tượng, nhưng một khi dạt đến diệu hữu thời hiện tượng bị phủ định được sống trở lại với ư nghĩa giả danh. Về phương diện tu dưỡng, cái không tuy phủ định để thấy không có tự ngă nhưng v́ thế mà khẳng định thấy không có ǵ để chấp trước, và do đó phát huy được cái tinh thần hoạt động tự do vô ngại, đúng như kinh Kim Cang đă nói: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”.
Trung quán luận xác chứng rằng luận lư không thể dẫn ta đến Không, nhiều nhất là đến chân trời vô tự tính của thế tục. Trái lại, luận lư muốn có ích lợi phải tuôn ra từ Không. Ngay cả luận lư cũng vô tự tính, nghĩa là thuộc tục đế. Lập trường chủ trương tánh Không vô tự tính cũng vô tự tính nốt. Do đó, mọi cơ sở diễn đạt tư tưởng đều bị hủy diệt. Khi đối phương chỉ trích rằng nếu tất cả đều Không, thời suy luận, giáo pháp, tu tập, và đạo quả đều trở nên vô nghĩa, Bồ tát Long Thọ bảo: “V́ tánh Không mà các pháp được thành lập, nếu không có tánh Không, th́ tất cả pháp không thể h́nh thành.” (Trung luận, XXIV.14)
Trả lời như vậy có nghĩa là ǵ?
Có nghĩa là phải có khả năng tri nhận tánh Không, nhân duyên của Không tánh, và cả Không nghĩa nữa th́ mới thấu hiểu sự h́nh thành của vạn pháp. (Trung luận, XXIV.7).
Nhờ trí quán Không, càng biết rơ hết thảy hiện tượng đều vô tự tính, càng tuệ tri chân đế là thực tại tuyệt đối tối thượng, thời càng thấy rơ thế gian này chỉ toàn ước định giả tạm, đầy vọng tưởng và phiền năo. Không nghĩa bao trùm cái thế gian này của tục đế trong đó ngôn ngữ đă được dùng để mô tả chân đế. Nói cách khác, tánh Không khẳng định vai tṛ của tục đế là giải thích sự tồn tại của vạn pháp mặc dầu vạn pháp đó không có tự tính. Cái thế gian của tục đế cũng là cái thế giới mà hành giả ngay khi đạt được căn bản Vô phân biệt trí ḥa đồng hoạt động độ sinh, hướng dẫn những ai phát tâm bồ đề tu tập thành đạt tuệ giác.
Đoạn văn sau đây trong Nhiếp luận của Vô Trước, HT Thích Trí Quang dịch giải, sẽ làm sáng tỏ ư nghĩa chân lư Tam đế: Không, Giả, Trung gợi ra trong Trung quán luận.
“Trí vô phân biệt không nhiễm như hư không, là v́ (phần gia hành của nó) chuyển được các ác nghiệp cực nặng, nhờ vào sự tin hiểu (chân như vô phân biệt).
Trí vô phân biệt không nhiễm như hư không, là v́ (phần căn bản của nó) thoát ly mọi sự chướng ngại, được gọi là thích ứng với sự được và thích ứng với sự thành.
Trí vô phân biệt như hư không, là v́ (phần hậu đắc của nó) thường đi trong thế gian mà không bị mọi sự của thế gian làm cho ô nhiễm.”
Ba phần gia hành, căn bản, và hậu đắc của trí vô phân biệt tuần tự ví “như người chưa hiểu luận văn mà muốn hiểu, như người hiểu được, như người hiểu được mà dạy được.”
Trong Trung luận, tiêu diệt hư luận để thượng cầu bồ đề tương ứng với phần gia hành. Thành tựu công tŕnh thực chứng tánh Không tương ứng với chứng đắc Vô phân biệt trí hay Đại trí. Khẳng định lại duyên khởi là giả danh để ḥa đồng với thế gian nỗ lực hóa độ chúng sanh tương ứng với chứng đắc Hậu đắc trí
|