Thread: Your's Health
View Single Post
Old 07-23-2019   #2636
florida80
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,181 Times in 13,137 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Cơ chế chống dội ngược bị xáo trộn:

Như chúng ta đã biết, ở chỗ tiếp giáp giữa thực quản và bao tử, có một bắp thịt đặc biệt (sphincter), hoạt động như một van đóng lại mở ra. Khi thức ăn đang xuống bao tử, bắp thịt này lỏng ra để thức ăn đi xuống. Khi thức ăn đã vào hẳn bao tử, bắp thịt này khép kín để thức ăn và các chất trong bao tử không dội ngược được lên thực quản. Có sự dội ngược khi bắp thịt van đóng mở ấy bị yếu, không thường xuyên khép chặt.

Bắp thịt van yếu trong trường hợp ta bị những bệnh tấn công các bắp thịt, mang thai, hút thuốc lá, giải phẫu trong quá khứ làm hư hoại bắp thịt van, ... Một số thuốc như thuốc chữa cao áp huyết (Procardia, Adalat, Verapamil, ...), thuốc suyễn (Theo-dur, Slo-bid, ...) cũng làm bắp thịt van yếu đi. Hoặc ngược lại, dù bắp thịt này làm việc bình thường, nhưng khi áp suất trong bao tử tăng cao (béo mập, ăn quá no, ...), quá sức chịu đựng của bắp thịt van, bắp thịt van khép không được kín, lúc đó cũng có sự dội ngược.

Biến chứng

Ngoài những triệu chứng khó chịu chúng ta đã có dịp tìm hiểu ở một đoạn trên, bệnh dội ngược bao tử-thực quản còn có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm. Trong các chất dội ngược từ bao tử lên thực quản, có các chất hóa học, trong đó chất acid (tiết bởi các tế bào lót thành bao tử) là chất quan trọng nhất gây biến chứng.

Chất acid, khi dội ngược lên thực quản lâu ngày, có thể làm hư hoại niêm mạc của phần thực quản tiếp giáp với bao tử, gây bệnh viêm thực quản (esophagitis). Chỗ thực quản bị viêm kinh niên sau này có khi sẽ hẹp lại (stricture) gây khó nuốt, vì trên đường từ thực quản xuống dạ dày, thức ăn đi qua một chỗ hẹp, sẽ len lách xuống khó khăn hơn. Hẹp thực quản được chữa bằng cách nông chỗ hẹp với những dụng cụ y khoa đặc biệt, hoặc bằng giải phẫu.

Tuy nhiên, biến chứng nguy hiểm nhất của bệnh dội ngược bao tử-thực quản là ung thư thực quản, một trong những ung thư nguy hiểm và khó chữa. Những tế bào bình thường của thực quản, phải thường xuyên tiếp xúc với chất acid, bị chất acid biến đổi, lâu ngày có thể biến thành tế bào ung thư.

Định bệnh

Như tất cả mọi bệnh khác trong y học, định ra bệnh dội ngược bao tử-thực quản dựa vào bệnh sử, thăm khám cùng các phương pháp khác như phim chụp, soi thực quản và bao tử, ...

Bao giờ phần bệnh sử (phần bạn kể bệnh) cũng là phần quan trọng nhất. Vì lời kể của bạn là đầu mối bác sĩ dựa vào để suy luận và định bệnh. Giúp bác sĩ mau chóng định bệnh, bạn cần kể bệnh mạch lạc, có đầu có đuôi, và đầy đủ các chi tiết cần thiết. “Bao tử tôi hay bị yếu khi ăn đồ 'nóng', hoặc “Tôi hay bị đầy hơi khi ăn đồ 'nóng'”, rồi... cười, không đủ để bác sĩ định xem bạn bị: bệnh dội ngược bao tử-thực quản, bệnh loét bao tử, bệnh loét tá tràng, bệnh đau nhưng không có loét (nonulcer dyspepsia), hay bệnh ung thư bao tử, ... Hoặc bạn thực ra bị bệnh hẹp tắc động mạch vành tim (coronary artery disease), và đầy hơi ở đây là một triệu chứng đau ngực trá hình (atypical chest pain) của loại bệnh nguy hiểm này. Vậy, khi kể bệnh cho bác sĩ nghe, bạn nên kể theo thứ tự thời gian, dùng con số để diễn tả và lần lượt đi qua 8 điểm sau đây:

1. Bạn bị đau hay có triệu chứng bất thường từ bao lâu nay (how long?): mới vài ngày qua, một tuần qua, vài tháng qua, hay đã nhiều năm, ...? (không nên dùng những chữ mơ hồ như “lâu rồi”, “mới đây”).

2. Bao lâu triệu chứng bất thường xảy ra một lần (how often?): mấy lần mỗi ngày, hay mấy lần mỗi tuần? hay chỉ thỉnh thoảng vài lần một năm, ...?

3. Mỗi khi bạn có triệu chứng bất thường, triệu chứng kéo dài bao lâu (how long does it last): vài giây, vài phút, vài tiếng, cả ngày, liên tiếp vài ngày, ...?

4. Triệu chứng bất thường xảy ra trong trường hợp nào (in what circumstance does it occur?): ngày hay đêm? lúc đang hoạt động hay nghỉ ngơi? sau khi ăn? mấy tiếng sau khi ăn? Triệu chứng xảy ra sau khi ăn một thức ăn đặc biệt nào? (Chúng ta hay dùng chữ “đồ nóng” một cách mơ hồ để chỉ một số những thức ăn. Y học Mỹ chỉ dùng khái niệm nóng lạnh để nói về nhiệt độ. Nên diễn tả một cách chính xác: “Tôi bị đầy hơi ở vùng bụng trên mỗi khi ăn thức ăn có mỡ, có ớt, hay khi uống nước cam chua, ...” thay vì: “Tôi bị đầy hơi mỗi khi ăn 'đồ nóng'”, kẻo bị bác sĩ Mỹ, qua thông dịch, hiểu lầm là bạn có triệu chứng mỗi khi ăn thức ăn nóng nấu trên bếp.)

5. Triệu chứng bất thường hay đau đích xác ở đâu và có lan truyền đi chỗ khác hay không (where is it?): nếu có thể được, bạn chỉ chỗ có triệu chứng bất thường hay bị đau bằng một ngón tay.

6. Đau ra sao (how is the pain?): đau như dao đâm? đau như lửa đốt? đau như có vật nặng đè?

7. Các triệu chứng bất thường khác đi kèm khi bị đau (what are the associated symptoms?): khi bị đau, bạn có bị khó thở, choáng váng, toát mồ hôi, buồn nôn hay ói mửa? hoặc bất cứ triệu chứng gì khác đi kèm khi đang bị đau?

8. Khi có triệu chứng bất thường hay bị đau như bạn vừa kể trên, bạn làm gì cho dễ chịu hơn (what do you do to get relief?): bạn phải ngồi hoặc nằm nghỉ, hay vẫn có thể tiếp tục làm việc, hoặc phải đi đi lại lại cho bớt đau. Khi bị đau, bạn hay dùng thuốc gì ở nhà để chữa đau (Aspirin, Tylenol, Maalox, Mylanta, ...) và kết quả ra sao?

Bạn cũng đừng quên mang theo tất cả những thuốc men đang dùng ở nhà đến cho bác sĩ xem, kể cả những thuốc mua không cần toa. Điều này vô cùng quan trọng, giúp vào sự định bệnh rất nhiều. Vì nhiều thuốc có thể gây đầy hơi, khó chịu, hoặc đau vùng bụng trên. Thí dụ những thuốc chống đau như Motrin, Advil, Naproxen, ..., những thuốc có chứa chất Aspirin như Anacin, Alka-Selzer. Biết bạn đang dùng thuốc gì, bác sĩ có thể đoán biết các bệnh bạn đang bị, hoặc triệu chứng bạn đang có có phải do thuốc gây ra hay không. Nếu nghi triệu chứng do thuốc gây ra, cùng với sự chữa trị bằng các thuốc bao tử, bác sĩ còn khuyên bạn nên ngưng thuốc nghi gây triệu chứng.

Sự thăm khám trong trường hợp bệnh dội ngược bao tử-thực quản thường không cho thấy gì đặc biệt. Một đôi khi, bạn thấy vùng bụng trên khó chịu, hay hơi đau khi vùng này được bác sĩ sờ nắn. Sau phần bệnh sử và thăm khám, nếu định bệnh đã khá rõ (người bệnh khéo kể bệnh, có các triệu chứng điển hình của bệnh, thăm khám không cho thấy có bệnh gì khác), bác sĩ thường bắt đầu chữa cho bạn ngay. Nếu chưa có định bệnh rõ rệt, hoặc khi sự chữa trị không cho những kết quả mong muốn, bác sĩ có thể sẽ cho bạn chụp phim hoặc soi thực quản và bao tử, để xác định xem có đúng bạn bị bệnh dội ngược bao tử-thực quản hay không.

Các cách chẩn đoán khác như: theo dõi sự chuyển động của thực quản, đồng thời đo nồng độ acid (pH monitoring) trong lòng thực quản, cũng có khi được sử dụng để định bệnh.
florida80_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.11085 seconds with 10 queries