Thread: Your's Health
View Single Post
Old 05-07-2019   #657
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

SƠ HỞ TRONG LUẬT PHÁP ĐĂ TẠO ĐIỀU KIỆN CHO KINH DOANH PHI PHÁP BÁN SẢN PHẨM DINH DƯỠNG BỔ SUNG NHƯNG QUẢNG CÁO NHƯ LÀ THUỐC TRONG CỘNG ĐỒNG VIỆT Ở HOA KỲ TRÔNG NHƯ BẤT KHẢ XÂM PHẠM BỞI LUẬT PHÁP.

Với nhiều điều luật và các quy định của luật pháp Hoa Kỳ đă được đề cập ở trên về sự khác biệt rơ ràng thuốc men và sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, người tiêu dùng có thể nghĩ rằng họ được an toàn khi tiêu thụ các sản phẩm này trong nước Mỹ. Nhưng thực tế là ngược lại.

Hồi trước th́ FDA kiểm soát và qui định các loại thực phẩm và sản phẩm dinh dưỡng bổ sung. Tuy nhiên, vào năm 1994 luật liên bang về Y tế và Giáo Dục về Dinh Dưỡng Bổ Sung “Dietary Supplement Health and Education Act (DSHEA 1994)” đă liệt sản phẩm dinh dưỡng bổ sung vào thành một thể loại riêng biệt từ thực phẩm và thành lập quy định riêng làm suy yếu một cách đáng kể quyền hạn của cơ quan FDA trong việc kiểm soát sản phẩm dinh dưỡng bổ sung. Do đó đă tạo cơ hội cho giới kinh doanh các sản phẩm này, nhất là hàng nhập khẩu, có thể lừa dối người tiêu dùng.

Luật DSHEA 1994 cho phép sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, không giống như các loại thuốc tây, không cần phải được FDA chấp thuận trước khi cho vào bán trên thị trường. Luật này xác định rằng trách nhiệm cho sự an toàn và hiệu quả của các sản phẩm và tính chính xác của các tuyên bố về lợi ích cho sức khỏe được ghi nhăn hoàn toàn đặt lên công ty sản xuất và phân phối sản phẩm chứ không phải FDA. Như vậy một khi các công ty này cố ư gian lận th́ là một khổ nạn cho người tiêu dùng. Kẽ hở này đă tạo cơ hội cho các doanh nghiệp gian lận trong kinh doanh sản phẩm dinh dưỡng bổ sung. Vấn đề này đă được thảo luận kỹ lưỡng trong bài khảo luận của các giáo sư Wheatley và Spink từ bộ Y Tế cùa tiểu bang New Jersey và trường đại học tiểu bang Michigan (Wheatley, V. M. and Spink, J. (2013): “Defining the Public Health Threat of Dietary Supplement Fraud”. Comprehensive Reviews in Food Science and Food Safety, 12: 599–613).

Luật DSHEA 1994 ngăn cấm nhà sản xuất và nhà phân phối sản phẩm dinh dưỡng bổ sung tiếp thị các sản phẩm bị pha trộn bậy hoặc ghi nhăn sai. Điều đó có nghĩa rằng các công ty có trách nhiệm để tự đánh giá sự an toàn cùa sản phẩm cũng như sự đúng đắn trong ghi nhăn của sản phẩm của họ trước khi tiếp thị để đảm bảo rằng họ đáp ứng tất cả các yêu cầu của DSHEA và quy định của FDA. FDA chịu trách nhiệm hành động chống lại sản phẩm dinh dưỡng bổ sung bị pha trộn hoặc ghi nhăn sai sau khi nó đă tràn vào thị trường. Như vậy nếu sản phẩm đă tràn vào thị trường rồi mà FDA không có đủ nhân lực và vật lực để theo dơi và kiểm soát th́ coi như là không ai kiểm soát được các sản phẩm này và đương nhiên người tiêu đùng trở thành nạn nhân nếu họ không có kiến thức thật sự về các sản phẩm này.

Luật DSHEA 1994 đặt trách nhiệm về sự an toàn và hiệu quả của các sản phẩm và tính chính xác của các tuyên bố về lợi ích sức khỏe trên ghi nhăn hoàn toàn vào các công ty. Như vậy khách hàng có thể khiếu nại đến các doanh nghiệp sản xuất hoặc phân phối các sản phẩm nếu có vấn đề xảy ra. Điều này chỉ chỉ có nghĩa nếu các doanh nghiệp kinh doanh một cách lương thiện dựa trên cơ bản danh dự (Honor code). Nhưng chuyện ǵ sẽ xảy ra nếu các nhà sản xuất và nhà phân phối của các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung cố ư gian lận?

Bài học về chất ma hoàng (ephedra) chứa các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung mà ngày nay đă trở thành ngoài ṿng pháp luật từ năm 2004 là rơ ràng. Trong các chất bị pha trộn vào sản phẩm ngay lập tức có thể tạo hiệu ứng kích thích tạo cảm giác phấn chấn cho người dùng, nhưng trong một thời gian dài, tác động tích lũy của nó có thể gây hại và thậm chí đưa tới tử vong. Người tiêu dùng có thể quá tin tưởng vào quảng cáo và không biết rằng các quảng cáo này là thất thiệt và sự nguy hiểm về lâu về dài mà họ có thể nhận lănh từ sản phẩm mà họ tốn tiền mua.

Trong nhiều trường hợp, người tiêu dùng có thể không biết rằng các sản phẩm bán cho họ thậm chí không có một nguồn gốc hợp pháp, có nghĩa là các nhà sản xuất hoặc nhà phân phối có tên trên bao b́ của sản phẩm thật sự không hiện hữu một cách hợp pháp. Đáng tiếc là không có sự thực thi pháp luật hiệu quả để kiểm chứng sự thật về các sản phẩm bổ sung dinh dưỡng đang có mặt trên thị trường và cũng không có sự thực thi pháp luật về các quảng cáo sai sự thật, đặc biệt là khi quảng cáo gian dối được truyền bá vào người tiêu dùng bằng các ngôn ngữ khác hơn là tiếng Anh như tiếng Việt, ngay cả khi các trường hợp gian lận đă được báo cáo cho giới hữu trách.

FDA đă không bao giờ có đủ nguồn lực để đối phó với số lượng rất lớn các kinh doanh phi pháp với các quảng cáo láo về sản phẩm dinh dưỡng bổ sung trên thị trường. FDA đă cho biết rằng họ không có đủ nhân lực để theo sau quá nhiều nhà phân phối nhỏ của các sản phẩm này. Nhỏ không có nghĩa là kinh doanh loại này nhỏ bởi v́ đứng sau họ là các nhà sản xuất lớn làm ra sản phẩm và đóng nhăn riêng cho các nhà phân phối “nhỏ” (private labeling companies). Người tiêu thụ thường không biết các nhà sản xuất lớn đó v́ họ không để tên của họ trên ghi nhăn của sản phẩm.

Qua các nhà phân phối “nhỏ”, sản phẩm được truyền bá đến người tiêu dùng thông qua rất nhiều phương tiện truyền thông lớn như Direct TV hay Comcast. Ví dụ, trong các cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ và Canada, nếu ta dạo một lượt trên các kênh truyền h́nh trực tiếp 2072, 2073, 2074, 2075, 2076, 2077, 2078, và đặc biệt là 2079, các quảng cáo sai lệch về sản phẩm dinh dưỡng bổ được quảng cáo như thuốc được phát sóng liên tục 24 giờ mỗi ngày! T́nh trạng tương tự xảy ra khi người tiêu dùng bật các chương tŕnh tiếng Việt trên Comcast hoặc các đài truyền h́nh hay radio địa phương khác, cũng như số lượng lớn các phương tiện truyền thông khác như báo ngày và tạp chí định kỳ.

Khi bị tố giác bởi các học giả trí thức trong cộng đồng, các nhà quảng cáo cho rằng đó là quyền tự do ngôn luận theo Tu Hiến Pháp Thứ Nhất (First Amendment of the Constitution). Đó là lối ngụy biện sai lầm trong trường hợp này. Phán quyết gần đây của ṭa án liên bang Hoa Kỳ Bắc California chống lại các nhà tiếp thị sản phẩm trị bệnh tiểu đường đă phản ánh một bước tiến đáng kể trong nổ lực của toà án và cơ quan FTC nhằm triệt hạ các kinh doanh phi pháp quảng cáo sản phẩm dinh dưỡng bổ sung cũng như các sản phẩm về sức khoẻ khác với tuyên bố về lợi ích sức khoẻ của sản phẩm một cách vô căn cứ.

Ngày 19 tháng Hai năm 2014 ṭa án này đă phán quyết rằng công ty Wellness Support Network Inc. phải trả 2.200.000 dollars bồi thường và nhận một lệnh phạt 20-năm cấm các chủ sở hữu của công ty không được quảng cáo trị bệnh tiểu đường sai trái. Ṭa án đă bác bỏ lời ngụy biện của công ty này rằng Tu Hiến Pháp Thứ Nhất bảo vệ quyền tự do ngôn luận của họ trong quảng cáo thương măi. Toà án đă tuyên bố rằng Tu Hiến Pháp Thứ Nhất trên nguyên tắc không bảo vệ các nhà sản xuất và phân phối sản phẩm dinh dưỡng bổ sung – cũng như bất kỳ sản phẩm ǵ trong trường hợp tương tự – quảng cáo sai trái hoặc lừa đảo (FTC vs. Wellness Support Network, Inc., Et Al., case No. C-10-04879 JCS).

Đạo luật Y tế và Giáo Dục về Dinh Dưỡng Bổ Sung “Dietary Supplement Health and Education Act (DSHEA 1994)” đề cập về giáo dục công chúng. Nhưng chuyện ǵ đă xảy ra khi các phương tiện truyền thông như các mạng lưới truyền h́nh và đài phát thanh đă tự do một cách vô trách nhiệm nhận tiền để phát sóng các quảng cáo sai sái và lừa đảo, và liên tục nhồi sọ người tiêu dùng, trong khi các học giả có trách nhiệm không có sự hỗ trợ để nói lên sự thật, hoặc có được một sự bảo vệ để chống lại sự trả đũa từ kẻ lừa đảo như sự dọa nạt hay các vụ kiện phủ đầu khi họ can đảm nói lên sự thật để giúp quần chúng?

Sự thật là khá oái ăm khi các doanh nghiệp gian lận với quảng cáo sai trái và lừa đảo sản phẩm bổ sung dinh dưỡng có thể tồn tại mạnh mẽ hơn và có tổ chức hơn để có thể dập tắt bất kỳ hảo ư nói lên sự thật hay nổ lực của các học giả người muốn giáo dục cộng đồng để tránh bị lừa đảo về thuốc men. Sau đây là các ví dụ thực tế về kinh doanh sản phẩm bổ sung dinh dưỡng với quảng cáo sai lạc và lừa đảo hiện tại đang xảy ra trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ.

VI. VÍ DỤ VỀ CÁC TỔ CHỨC KINH DOANH SẢN PHẨM DINH DƯỠNG BỔ SUNG NHƯNG QUẢNG CÁO LÀ THUỐC TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI HOA KỲ. CÁC SẢN PHẨM BÁN RA ĐƯỢC DÁN NHĂN VỚI TÊN CÁC NHÀ SẢN XUẤT VÀ ĐẠI LƯ KHÔNG ĐĂNG KƯ VỚI CHÍNH PHỦ.

Coi thường pháp luật hiện hành với các quy định về sản phẩm dinh dưỡng bổ sung cũng như những nghiêm cấm về việc quảng cáo láo và lừa đảo, trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ đang tràn ngập các doanh nghiệp bán sản phẩm dinh dưỡng bổ sung nhưng quảng cáo chúng như thuốc. Lối kinh doanh phi pháp này đă có trong cộng đồng nhiều năm nhưng nay đă trở nên rất phổ biến và có tổ chức hơn. V́ vậy mà nhiều học giả và giới trí thức trong cộng đồng tuy biết đó là phi pháp nhưng cũng tin rằng nó có thế lực bất khả xâm phạm bởi pháp luật.

Ví dụ về việc vi phạm pháp luật trên là một trong những trường hợp quảng cáo láo lớn nhất trong cộng đồng Việt Nam từ năm 2013. Tổ chức buôn bán này gồm một nhóm tự xưng là những đại diện của một công ty lớn đă có trên tám mươi năm bên Đức chuyên sản xuất tế bào gốc cấy từ nhau thai cừu. Sản phẩm của họ ghi nhăn là dinh dưỡng bổ sung có xác định các thành phần hoạt chất là nhau thai cừu, chiết xuất hạt nho và dầu hạt nho với một cáo thị rằng “Sản phẩm này không dùng để điều trị, chữa bệnh, hoặc ngăn chặn bất cứ căn bệnh”. Ngược lại, trong hàng loạt các quảng cáo trên các buổi giao lưu đàm thoại trên đài truyền h́nh và radio, các người tiếp thị của tổ chức này gồm nha sĩ, một người quảng cáo radio, một thợ thẩm mỹ, và một xướng ngôn viên truyền h́nh Việt, thêm vào là các chứng nhân, đă quảng cáo rằng thuốc tế bào gốc nhau cừu của họ có thể điều trị, chữa, làm giảm, hoặc cải thiện nhiều căn bệnh kinh niên như cao huyết áp, tiểu đường, suy thận, bất lực sinh lư, bệnh gút, và bệnh vẩy nến, v.v… Các nhân viên tiếp thị không hề tiết lộ rằng nghề nghiệp thực sự của họ là thợ thẩm mỹ hay người làm quảng cáo radio. Nhưng qua các lối giải thích khoa học tế bào gốc dùng như thuốc của họ cùng với các phim ảnh minh họa, khán thính giả trung b́nh không biết nhiều về khoa học có thể có ấn tượng sai lầm rằng họ có thể là khoa học gia hay bác sĩ!

Họ c̣n dám để cả h́nh ảnh của một bệnh nhân bị bệnh vẩy nến với da bệnh hoạn trước và một làn da mau lành sau khi được điều trị bằng “thuốc” của họ. Ấn tượng hơn, họ c̣n tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại các trung tâm thương mại lớn đông người Việt ở California, ở đó họ quảng cáo thuốc của họ với lời “chứng thực” của nhiều “bệnh nhân”. Bên cạnh truyền h́nh, các tiếp thị thuốc “tế bào gốc từ nhau thai cừu” này cũng phát sóng quảng cáo của họ trên các đài phát thanh địa phương và cũng có nhiều bài viết quảng cáo in trên báo chí và tạp chí Việt ngữ.

Quảng cáo truyền h́nh của họ được phát sóng trên hầu hết tất cả các đài truyền h́nh và radio Việt ngữ ở Mỹ. Nội dung của các quảng cáo rất là thuyết phục cho công chúng bởi v́ nó có chứa nhiều h́nh ảnh di động mô tả tế bào gốc hoặc minh họa khoa học y sinh học, thường được cắt xén từ các video giáo dục khoa học có sẵn trên internet, các h́nh ảnh của một công ty dược phẩm lớn ở Đức mà họ gọi là công ty sản xuất của họ. Tuy nhiên nếu ai tinh ư coi thật kỹ và t́m hiểu th́ sẽ thấy các h́nh ảnh đó thật sự là của một học viện bên Đức mang tên “Life & Brain Institutes” hoàn toàn khác với công ty họ quảng cáo và không dính líu ǵ đến đến cái nhau cừu của họ.

Mặc dầu quảng cáo rầm rộ như vậy trên đài truyền h́nh, nhưng lúc họ tổ chức họp báo ở thành phố San Jose California để nói về công ty của họ, khi bị đồng hương chất vấn về gốc gác công ty của họ bên Đức th́ họ lại bảo là họ mới tạo dựng công ty của họ bên Đức trong một pḥng laboratory nho nhỏ không có ǵ qui mô hết.

Bởi v́ họ không có một bất kỳ tài liệu pháp lư ǵ chứng tỏ sản phẩm “tế bào gốc từ nhau thai cừu” của họ đă được nhập khẩu từ Đức, thậm chí là tờ nhất-vận đơn (Bill of Ladding), quá rơ ràng rằng các sản phẩm được sản xuất trong đất Mỹ bởi một số công ty sản xuất ghi nhăn tư nhân. Theo luật pháp th́ người tiêu dùng có quyền được biết danh tính của các nhà sản xuất đă làm các sản phẩm bán cho họ. Khi bị hỏi dồn bởi đồng hương th́ họ quưnh quá bảo rằng họ mới dọn công ty qua Mỹ. Đồng hương chất vấn công ty ở đâu bên Mỹ th́ họ bảo đó là bí mật không thể tiết lộ được. Họ c̣n dám gạt đồng hương Việt là sự bảo mật không thể tiết lộ của công ty họ là được bảo vệ của FDA!

Khi đồng hương chất vấn về tên công ty phân phối được in trên nhăn của sản phẩm mà họ bán trên thị trường cả năm qua, luật sư đại diện của họ tiếp tục nói dối với công chúng rằng danh tính của các công ty phân phối có thể được t́m thấy trong các trang web của văn pḥng Secretary of State of California, bất chấp thực tế rằng tên của công ty phân phối này không có trên trang web của chính phủ. Trong thực tế, một ngày sau buổi họp báo họ đă đi đến văn pḥng của Secretary of State of California để đăng kư công ty của họ.

Về khoa học, có bằng chứng cho thấy nhau thai cừu có chức năng ǵ để chữa các bệnh họ quảng cáo không? Tham khảo trên PubMed là nguồn trữ liệu khoa học y sinh hóa của chính phủ Hoa Kỳ, là nguồn trữ liệu có chứa hầu hết tất cả các văn bản công bố khoa học y sinh hóa trên thế giới, đă cho thấy rằng không có bất kỳ bằng chứng cho thấy nhau thai cừu có thể chữa bất kỳ căn bệnh nào mà họ quảng cáo. Việc sử dụng nhau thai cừu chỉ được đề cập trong y học dân gian cũ ở châu Phi là để hỗ trợ khi phụ nữ sinh khó, nhưng công dụng này không c̣n được sử dụng nữa bởi v́ sự hiện diện các các loại thuốc tây mới như oxytocin!

Nhưng với tất cả những quảng cáo láo và lừa đảo rằng sản phẩm dùng để trị hoặc cải thiện các bệnh như tiểu đường, cao huyết áp, suy thận, bệnh vẩy nến, bệnh gút và viêm khớp, họ bán mỗi hộp 60 viên con nhộng với giá 120 đô la!

Rất rơ ràng căn cứ trên luật pháp Hoa Kỳ th́ họ đă vi phạm tất cả các điều luật đă được nói đến bên trên về thuốc, sản phẩm dinh dưỡng bổ sung, quảng cáo, và kinh doanh không công bằng. Theo luật pháp th́ cả công ty sản xuất, phân phối, và quảng cáo đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Điều này chỉ có thể xảy ra khi sự việc được đưa ra toà án để phân xử. Tố tụng có thể hoặc là do văn pḥng biện lư, hoặc là do FDA, hoặc là do dân sự đại diện cho FDA, hoặc là do dân sự qua các vụ kiện dân sự hay class action. Khi chuyện này chưa xảy ra th́ các sản phẩm phi luật pháp này vẫn tràn lan trên thị trường và người tiêu thụ vẫn là nạn nhân.

Sản phẩm “tế bào gốc” chỉ là một trong rất nhiều sản phẩm dinh dưỡng bổ sung được bán trên thị trường cộng đồng Việt và được quảng cáo một cách phi pháp như là thuốc. Các sản phẩm khác th́ ở rất nhiều dạng như là axit humeric, đông trùng hạ thảo (cordyceps), tảo nâu fucoidan, nấm linh chi, hoặc là hỗn hợp của nhiều loại dược thảo v.v… Mặc dầu tất cả các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung này không được luật pháp cho phép quảng cáo như là thuốc cho các căn bệnh, chúng đă được quảng cáo nhiều lần liên tục trên một số đài truyền h́nh Việt ngữ trong các chương tŕnh “home shopping” của họ.

Ngay cả khi quảng cáo là có tác dụng trên sức khoẻ con người, theo quyết định của toà án liên bang bắc California, sản phẩm phải có sự chứng minh khoa học đầy đủ trong trữ liệu của họ trước khi đưa ra tuyên bố về tác dụng của sản phẩm. “Sự chứng minh khoa học đầy đủ” về sức khỏe có thể có nghĩa là hai thí nghiệm lâm sàng, được kiểm soát với sản phẩm và giả dược, nghiên cứu trên người không biết là đang được dùng sản phẩm hay giả dược nhằm so sánh, để đem tới kết quả đáng kể về mặt thống kê. Tuy nhiên khi tham khảo trên PubMed là nguồn trữ liệu của tất cả công bố khoa học y sinh hóa của thế giới, các sản phẩm này hoàn toàn không có một thí nghiệm lâm sàng chính thức nào.

Kinh doanh phi pháp này có tác động tiêu cực đáng kể đến chất lượng cuộc sống của người dân cũng như nền kinh tế quốc gia. Thí dụ, khi những tin tức về nạn dịch sốt xuất huyết do vi rút Ebola được thông báo công chúng, chương tŕnh mua sắm của vài đài truyền h́nh Việt ngữ đă quảng cáo một loại thuốc mới là chất axit humic mà họ tuyên bố được sản xuất riêng cho họ bởi một pḥng thí nghiệm tại Orange County dẫn đầu bởi một nhà hóa học (tiến sĩ hóa học, Ph.D. of Chemistry). Cũng nên nhắc là tiến sĩ hóa học không có thẩm quyền về bệnh học hoặc y sinh học). Công ty phân phối này đă quảng cáo thuốc này trên truyền h́nh địa phương của họ thông qua Comcast và truyền h́nh toàn quốc thông qua DirectTV một loạt các chương tŕnh đàm thoại thương mại với các nhà hóa học này cũng như các quảng cáo 1 phút, trong đó họ quảng cáo rằng loại thuốc axit humic có thể ngăn ngừa một số bệnh truyền nhiễm do virus như cúm, viêm gan, và thậm chí cả Ebola, và đă có thử nghiệm lâm sàng.

Axit humic là một thành phần chính của chất humic, đó là những chất hữu cơ chính của đất mùn và rất thường được sử dụng trong phân bón. Đôi khi được thấy trong sản phẩm dinh dưỡng bổ sung. Thao khảo PubMed cho thấy rằng không có bất kỳ một công bố nào hoặc bằng chứng cho thấy Axit Humic đă được thử nghiệm lâm sàng hoặc được sự chấp thuận của FDA cho những công bố về thuốc. Ngược lại, đă có một số bức thư cảnh cáo từ FDA cho một số công ty đă tuyên bố sai sự thật bằng tiếng Anh về axit humic trong đó FDA đă nêu rơ rằng FDA không có bất cứ thông tin chứng minh rằng axit humic được bán hợp pháp trên thị trường như là một thành phần của sản phẩm dinh dưỡng bổ sung ở Hoa Kỳ trước ngày 15 tháng mười, năm 1994, cũng như FDA không biết bất kỳ thông tin chứng minh rằng những thành phần này đă có mặt trong các thực phẩm hoặc thực phẩm đă được thay đổi về mặt hóa học (FDA warning letter to EFT Biotech Holdings Inc., 2009)

Mặt khác, đă có những nghiên cứu cho thấy axit humeric có thể gây nguy hiểm bởi gây ra hư hại gene của bạch huyết cầu của con người (Hseu et al, Journal of Hazardous Materials (2008; 153(1-2): 784-91), hư hại do oxit hoá chuổi DNA, chậm phát triển, và chết dần ṃn tế bào fibroblast, là tế bào tạo collagen trong con người (Cheng et al, Exp Biol Med. 2003; 228(4): 413-23).

Như vậy về y khoa lẫn luật pháp humeric không thể được quảng cáo dùng để ngăn ngừa hoặc trị nhiễm vi rút. Do đó khi một nạn dịch nhiễm virus có tiềm năng gây chết người như HIV hay Ebola xảy ra, điều quan trọng là phải thận trọng tránh nhiễm khuẩn hơn là tin vào các loại thuốc dạo được quảng cáo sai lạc là có thể ngăn ngừa các bệnh này.

Tương tự trong trường hợp tảo nâu fucoidan hiện đang là một trong những quảng cáo mạnh nhất trong cộng đồng người Việt. Các người tiếp thị quảng cáo một cách bừa băi và vô trách nhiệm rằng sản phẩm tảo nâu fucoidan có thể ngăn ngừa ung thư cũng như làm chết các tế bào ung thư trong cơ thể, do đó làm cho quảng cáo sai trái này trở thành quảng cáo nguy hiểm nhất cho người tiêu dùng nhất là người đang có mầm mống ung thư hoặc bệnh nhân đang bị ung thư; và đây cũng là quảng cáo lừa đảo nhất đánh vào tâm lư thân nhân của bệnh nhân bị ung thư.

Với những khuôn mặt của các cá nhân quen thuộc trong cộng đồng như các ca sĩ, kịch sĩ, MC chương tŕnh ca nhạc, sản phẩm đă đưược quảng cáo một cách rất là thuyết phục đến giới b́nh dân. Quảng cáo được minh họa bằng nhiều h́nh ảnh và phim hoạt h́nh y sinh học cho thấy ung thư bị phá hủy trong cơ thể, cũng như một số lượng lớn các tin đồn vô căn cứ về sự thành công thử nghiệm lâm sàng của fucoidan trong việc điều trị ung thư.

Người tiêu dùng đặc biệt là người cao tuổi bị lệ thuộc vào các truyền thông Việt ngữ để theo dơi tin tức có thể dể tin vào quảng cáo thất thiệt này do đó ỷ y và quên đi việc kiểm tra sức khỏe như đi khám định kỳ từ các bác sỹ tây y mà họ đang có, hoặc làm các thử nghiệm sức khoẻ định kỳ mà có thể giúp họ để phát hiện ung thư sớm nếu bị. Đối với một số với phát hiện ung thư sớm, người sợ bị giải phẫu có thể chậm trễ để được chữa trị đúng đắn bằng Tây y v́ những hy vọng hăo huyền về fucoidan như là thần dược trong các quảng cáo lừa đảo. Sự tŕ trệ này dẫn đến di căn của ung thư và đưa đến tử vong v́ quá trễ để được trị.

C̣n đối với những người thân của các bệnh nhân ung thư ở giai đoạn cuối, mặc dầu đă được các bác sĩ Tây y cho biết sự thật về bệnh t́nh của bệnh nhân là không thể cứu được, v́ quá thương yêu người thân, hoặc với hy vọng hăo huyền v́ tâm lư “c̣n nước c̣n tát” rao giảng bởi những kẻ tiếp thị, hoặc do yêu cầu của người thân chỉ v́ tin trên quảng cáo lừa đảo, đă phải chi tiêu một số tiền rất lớn nhiều lần vượt khả năng tài chính của họ, để mua fucoidan. Các nạn nhân đă phải trả giá cho các bức xử đó bằng những gánh nặng tài chính khổng lồ sau khi cái chết của người thân bị ung thư. Chi phí của một chai 60 viên nang của fucoidan không phải là nhỏ, hơn 400 đến hơn 1.000 dollars tùy thuộc vào quảng cáo.

Sự thật Fucoidan là ǵ? Fucoidan là một loại polysaccharide (chất giống như tinh bột) t́m thấy chủ yếu trong các loại tảo (rong biển) nâu như bladderwrack, wakame, mozuku, kombu, và kijiki, và trong một số các loài động vật ở biển như dưa biển. Fucoidan được sử dụng như một thành phần trong một số sản phẩm dinh dưỡng bổ sung. Từ năm 1981 fucoidan đă được nghiên cứu một cách khoa học để thử nếu nó có hiệu ứng chống ung thư như đă được nhắc đến trong các huyền thoại dân gian bên Nhật. T́m kiếm trên PubMed có 171 công bố khoa học nghiên cứu về fucoidan liên quan đến ung thư trong từ năm 1981 đến năm 2015. Hầu hết các nghiên cứu là các thí nghiệm đơn sơ dùng tế bào cấy trong ống nghiệm với kết quả thú vị tuy không đủ mạnh, và có xa hơn chỉ là một vài thí nghiệm trên động vật như chuột nhắt và chuột cống mà kết quả phủ phận dược tính của fucoidant để trị ung thư. Không có một thí nghiệm nào trên con người. Dĩ nhiên chúng ta ai cũng hiểu, con người không phải là chuột hay ống nghiệm. Do đó đem các kết quả nghiên cứu khoa học ra để quảng cáo một sản phẩm mà không nói rơ đó chỉ là các thí nghiệm trong ống nghiệm th́ đó là một sự lường gạt trắng trợn, gọi là khoa học giả hiệu hay là “Pseudoscience” .

Kết quả các thí nghiệm đă từng được nghiên cứu về fucoidant rất là thú vị bởi v́ nó mâu thuẩn và không đưa đến một kết luận vững chắc, và đôi khi tiêu cực. Do đó kết quả về khả năng chữa hoặc ngăn ngừa ung thư của fucoidan không đủ có giá trị cho một cuộc thử nghiệm lâm sàng trên con người. Như vậy thông qua một lịch sử hơn 30 năm nghiên cứu khoa học về fucoidan, trong số 171 nghiên cứu đă được công bố không có một kết quả nào là thử nghiệm lâm sàng trên con người cho thấy fucoidan có thể ngăn ngừa ung thư hoặc tiêu diệt tế bào ung thư ở người. V́ vậy fucoidan chưa bao giờ được coi là một loại thuốc mới được chấp thuận bởi FDA để ngăn chận hoặc điều trị bệnh ung thư. Do đó, chiến dịch thương mại để quảng cáo fucoidan như một loại thuốc mới để ngăn chặn hoặc điều trị bệnh ung thư là quảng cáo láo và lừa đảo do đó và bất hợp pháp đối với luật pháp Hoa Kỳ, và đó là lư do đây là đối tượng của một vụ kiện “class action” đang diễn ra trong cộng đồng Việt.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ về quảng cáo gian dối về sản phẩm bổ sung dinh dưỡng được quảng cáo như các loại thuốc mới trong cộng đồng Việt. C̣n rất nhiều quảng cáo lừa đảo tương tự thấy trong các hỗn hợp các loại dược thảo trong các chai “thuốc” số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, v.v…hoặc với nhiều tên họ kỳ quặc khác được quảng cáo như thuốc cho hết bệnh này đến bệnh nọ, tất cả đều phi pháp v́ không có một chứng cớ thí nghiệm lâm sàng nào theo đúng định nghĩa bởi luật pháp, là thí nghiệm lâm sàng được kiểm soát với sản phẩm và giả dược, nghiên cứu trên người không biết là đang được dùng sản phẩm hay giả dược nhằm so sánh, để đem tới kết quả đáng kể về mặt thống kê. Và rơ ràng nhất về luật pháp không có một sản phẩm dinh dưỡng bổ sung nào đang được quảng cáo trên các phương tiện truyền thông Việt ngữ được FDA chấp thuận như là thuốc!

Thật không may những quảng cáo láo và lừa đảo này đă được lan truyền thường xuyên và rộng răi trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ thông qua hầu hết các phương tiện truyền thông Việt ngữ, bao gồm cả truyền h́nh, đài phát thanh, báo chí, và tạp chí. Với lối buôn bán này, các cá nhân riêng lẽ đă trở thành các cửa hàng phân phối sản phẩm một cách phi pháp đề đem lại lợi nhuận khổng lồ cho họ và các công ty sản xuất và đóng nhăn tư nhân đứng đằng sau. Điều đáng chú ư là các nhà tiếp thị, phân phối và nhà sản xuất thường là ở miền nam California, đặc biệt là ở Orange County là nơi người Việt qui tụ đông nhất nước Mỹ.

VII. TẠI SAO ĐĂ QUA NHIỀU NĂM CÁC TỔ CHỨC BUÔN BÁN SẢN PHẨM DINH DƯỠNG BỔ SUNG NHƯNG ĐĂ QUẢNG CÁO MỘT CÁCH PHI PHÁP NHƯ THUỐC TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI HOA KỲ TRÔNG NHƯ BẤT KHẢ XÂM PHẠM BỚI PHÁP LUẬT.

Tại sao nhiều học giả tin rằng những kinh doanh bất hợp pháp loại này trong cộng đồng người Việt là bất khả xâm phạm bởi luật pháp Mỹ?

Loại kinh doanh này đă tồn tại nhiều năm trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, nhưng nó chưa bao giờ bị truy tố bởi chính quyền bởi v́, chỉ đơn giản như FDA đă tuyên bố, họ đă không bao giờ có đủ nguồn lực để đối phó với số lượng khổng lồ của sự lừa dối trong các kinh doanh dinh dưỡng bổ sung đă xuất hiện trên thị trường; tức là, họ không có đủ nhân lực để theo sau quá nhiều nhà phân phối nhỏ của các chế phẩm dinh dưỡng bổ sung, ngay cả khi quảng cáo lừa đảo là bằng tiếng Anh chứ chưa nói đến các ngôn ngữ khác. Do đó các sản phẩm được quảng cáo lừa đảo về sản phẩm dinh dưỡng bổ sung như là thuốc bằng tiếng Việt tại Hoa Kỳ cứ tự do hoành hành.

Thỉnh thoảng có những nhà trí thức đă đưa vấn đề này lên báo chí internet hoặc email, hoặc xa hơn một chút là radio. Nhưng tiếng nói của họ quá nhỏ số lần nổ lực lên tiếng của họ quá ít ỏi do đó bị dập tắt bởi một khối lượng lớn các quảng cáo láo và lừa đảo được trả tiền để phát ra liên tục trên rất nhiều các phương tiện truyền thông Việt ngữ.

Nhưng nếu một học giả người Mỹ gốc Việt đă từng được công nhận từ ḍng chính nay quan tâm đến tệ nạn này muốn đem kiến thức của ḿnh để giúp đồng hương một cách nghiêm túc và hiệu quả hơn với một nỗ lực lớn hơn để giúp đỡ cộng đồng để hiểu vấn đề này để tránh bị gian lận? Ví dụ một chương tŕnh giáo dục hoàn chỉnh bao gồm các bài báo khoa học và xă hội tiếp với các cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh và truyền h́nh địa phương và quốc gia cũng như các ấn phẩm trên các báo có uy tín. Với các chương tŕnh giáo dục này th́ mức độ cảnh giác của đồng hương sẽ tăng lên rất cao.

Rơ ràng là giáo dục thực sự là kẻ thù lớn nhất của sự gian lận và do đó một sự trả đũa không thể tránh khỏi. Mục đích chính của cuộc tấn công trả đũa chủ yếu là để bảo vệ khối lợi nhuận khổng lồ từ việc lừa đảo liên tục. Việc trả đũa có thể từ việc lén lút hăm dọa, bêu xấu với thư nặc danh bằng Việt ngữ trên internet, phá hoại cá nhân, cho đến lạm dụng luật pháp một cách sai trái để bắt nạt bằng pháp lư hoặc các vụ kiện tụng rất tốn tiền. Mục đích không ngoài việc thứ nhất là làm học giả kinh sợ và từ bỏ nổ lực của ḿnh, thứ hai là làm mất uy tín của học giả và tạo một sự nghi ngờ để thuyết phục đồng hương tin vào các quảng cáo lừa đảo với các khoa học giả hiệu thay v́ những kiến thức khoa học chính thống.

Bởi v́ các nhà phân phối của các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung nhưng quảng cáo lừa đảo là thuốc khởi nguồn kinh doanh của họ từ bên trong cộng đồng Việt khép kín, là cộng đồng bị lệ thuộc vào tiếng Việt là ngôn ngữ giao tiếp chính, và từ đó lan rộng ra ḍng chính, họ đă có những móc nối để họ có thể lợi dụng cộng đồng để tạo mạng lưới truyền bá kinh doanh của họ cũng như để bảo vệ doanh nghiệp của họ từ các tố giác của các nhà trí thức. Thí dụ như họ có thể dùng các trang mạng xă hội để reo rắc các tin đồn thất thiệt. Cộng đồng Việt khép kín v́ thiếu kiến thức Anh ngữ nên rất mơ hồ về luật pháp Hoa Kỳ đă, vô h́nh chung, trở nên đối tượng cho sự lợi dụng của các âm mưu bất chính.

Lợi dụng ḷng tin trong cộng đồng cũng là phương cách một tổ chức kinh doanh qui mô sản phẩm dinh dưỡng bổ sung nhưng quảng cáo lừa đảo là thuốc dùng để thao túng các thủ tục ṭa án khi họ sử dụng các vụ kiện phủ đầu, hay là vụ kiện kiện chiến lược chống sự tham gia của công chúng (SLAPP) để chống lại các học giả kiên tŕ trong nỗ lực giúp đỡ đồng hương của họ. Một cách đơn giản là qua các nhân vật hoạt động cộng đồng, chúng có thể giới thiệu luật sư thiếu đạo đức để “giúp” cho học giả bị kiện, là điều không thể nào ngờ được. Một khi đương đầu với một vụ kiện trước toà án mà chính luật sư “giúp” ḿnh lại là kẻ chủ tâm hại ḿnh th́ bị đơn bất khả kháng chứ không phải v́ ṭa án không công bằng.

SLAPP hoặc “ Strategic Lawsuit Anti Public Participation” là một loại kiện tụng mà các công ty làm việc sai trái bị tố giác dùng để đe dọa, và bịt miệng các nhà phê b́nh, quần chúng hoặc các học giả. V́ không chịu nổi gánh nặng với chi phí pháp lư để chống lại SLAPP, người bị kiện phải từ bỏ những lời chỉ trích hay phản đối và phải thâu hồi lại sự tố cáo đó. V́ vậy, các nguyên đơn SLAPP điển h́nh thường không mong đợi để giành chiến thắng trong vụ kiện v́ họ không có lư do chính đáng để được xử thắng. Mục tiêu chính của vụ kiện SLAPP sẽ được hoàn thành nếu bị đơn không chịu nổi sự sợ hăi, đe dọa, chịu đựng những chi phí pháp lư do đó kiệt sức và phải từ bỏ những lời chỉ trích. Vụ kiện SLAPP cũng có thể được dùng để đe dọa những người khác tham gia vào các cuộc tranh luận.

Lư do phổ biến nhất được sử dụng trong một vụ kiện SLAPPs hay là kiện phủ đầu là sự vu khống tội phỉ báng, đó là thông tin một tuyên bố sai sự thật gây tổn hại đến danh tiếng của một cá nhân, doanh nghiệp, sản phẩm v.v…, kế đến là vu khống cạnh tranh kinh doanh không lành mạnh. Trong cả hai trường hợp, gánh nặng đặt lên vai bị đơn phải chứng minh rằng các thông tin tuyên bố của họ được dựa trên những sự kiện có thật và là vấn đề quan trọng được quan tâm bởi công chúng, và không có cạnh tranh doanh nghiệp trong vấn đề lên tiếng cảnh giác quần chúng cùa họ.

Đặc tính bất thường của một vụ kiện phủ đầu là hiệu quả của nó làm các nhà phê b́nh phải im lặng, sự kéo dài thời gian của vụ kiện, đơn kiện với các vu khống thiếu căn cứ, không có biên bản, từ ngữ mơ hồ hoặc cố t́nh đọc sai để nguyên đơn tạo các cáo buộc giả mạo mà không sợ tội khai man. Ví dụ luật sư đại diện của nguyên đơn chuẩn bị một vụ kiện mà chỉ dựa trên lời nói của nguyên đơn mà không có tờ tuyên thệ (declaration) của nguyên đơn, hoặc không có bản dịch chính thức từ tiếng Việt sang tiếng Anh. Thậm chí một cách lươn lẹo hơn, nguyên đơn kiện bị đơn bằng tên viết theo Việt ngữ theo thứ tự họ đứng đầu và tên đứng sau với hy vọng là bị đơn sẽ không trả lời và họ sẽ thắng một bản án khiếm diện. Như vậy, trong khi ṭa án Mỹ hiểu các vụ kiện chống lại một bị đơn khác, th́ nguyên đơn có thể sử dụng các vụ kiện cho một tuyên truyền quảng cáo cho các sản phẩm phi pháp của họ.

Điều may mắn là tiểu bang California đă ban hành Bộ luật tố tụng dân sự §425.16 vào năm 1992 để chống kiện phủ đầu hay anti-SLAPP law. Để bảo vệ quyền tự do ngôn luận và kiến nghị của dân chúng, anti-SLAPP law nhằm làm thất bại SLAPPs bằng cách cung cấp một phương cách bảo vệ nhanh chóng và không tốn kém để chấm dứt vụ kiện phủ đầu và bắt nguyên đơn kiện vô cứ phải bồi thường tiền luật sư phí. Đạo luật c̣n cho phép tổn phí ban đầu của anti-SLAPP được trả bởi bảo hiểm nhà hoặc chung cư nơi bị đơn cư ngụ. Thêm vào đó, một khi vụ kiện phủ đầu được hủy bỏ bởi toà án, mục §425.18 đă kư thành luật vào ngày 06 Tháng Mười năm 2005, đă được ban hành để tạo điều kiện cho nạn nhân của vụ kiện SLAPP đ̣i được đền bù cho thiệt hại của họ qua một vụ kiện SLAPP-back.

Như vậy sự lộng hành lạm dụng các kẽ hở của luật pháp của gian thương, cộng thêm sự thiếu kiến thức của đồng hương về luật pháp đă tạo sự sợ hăi và do đó ngờ rằng kinh doanh bất hợp pháp bằng cách quảng cáo láo và lường gạt sản phẩm dinh dưỡng bổ sung như là thuốc trong cộng đồng người Việt là bất khả xâm phạm bởi luật pháp Mỹ. Sự lầm tưởng này có lẽ không c̣n kéo dài lâu v́ các vụ kiện “class action” nhắm vào các kinh doanh này đă bất đầu và tất cả các tổ chức liên đới đến việc quảng cáo láo và lường gạt sản phẩm dinh dưỡng bổ sung như là thuốc đều phải chịu trách nhiệm dưới ánh sáng luật pháp.

VIII. Kết Luận

Kẽ hở trong đạo luật “Dietary Supplement Health and Education Act (DSHEA 1994)” là đă trao trách nhiệm về sự an toàn và hiệu quả của các sản phẩm và tính chính xác của các quảng cáo về sức khỏe trên nhăn của sản phẩm hoàn toàn vào công ty sản xuất và phân phối thay v́ FDA, đă tạo cơ hội gian lận cho một số doanh nghiệp nhà sản xuất và phân phối sản phẩm bổ sung dinh dưỡng nhất là hàng nhập khẩu, có thể lừa dối người tiêu dùng. FDA chỉ theo để kiểm soát sau khi sản phẩm đă được tung ra thị trường. V́ vậy, nếu FDA không có nguồn lực để đi sau khi sản phẩm sau đă tiếp cận thị trường v́ không xuể hết th́ luật pháp khó ḷng được thực thi.

Biết được kẽ hở này về phía luật pháp, một số nhà sản xuất và phân phối sản phẩm dinh dưỡng bổ sung đă liều lỉnh gian lận trong việc quảng cáo lừa đảo là thuốc để thâu lượm lợi nhuận một cách phi lư, thí dụ một lọ dinh dưỡng bổ sung khi quảng cáo là thuốc th́ giá bán có thể gấp 10-100 lần hơn.

Bài khảo luận này nêu rơ luật pháp hiện hành để độc giả thấu hiểu là tất cả các dược thảo đang được quảng cáo như là thuốc đều là phi pháp. V́ tất cả các dược thảo (herb) được đạo luật “Dietary Supplement Health and Education Act (DSHEA 1994)” đánh giá như dinh dưỡng bổ sung (“Dietary Supplement”), chúng không phải là thuốc và do đó hoàn toàn không có một thử nghiệm lâm sàng chính thức nào để đánh giá dược tính của chúng trong vấn đề chữa hoặc ngăn ngừa bệnh, cũng như sự an toàn không có phản ứng phụ. Một khi quảng cáo là láo th́ sự đảm bảo về dược tính cũng như sự an toàn của sản phẩm trong quảng cũng là láo, do đó phần c̣n lại là nhận định đúng đắn của người tiêu dùng để tránh tiền mất tật mang.

Về phương diện luật pháp đối với nhà sản xuất và phân phối dược thảo (herb) th́ sự nghiêm trọng về vấn đề này bắt đầu được đưa ra từ tháng 2 năm 2015 từ cuộc điều tra của Tổng chưởng lư của tiểu bang New York cho thấy 80 phần trăm của các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung thảo dược của bốn hệ thống chợ lớn nhất của Mỹ bị pha trộn với bột gạo hay rau cỏ, đă bắt đầu một loạt các vụ kiện “class action against adulteration in herbal products”. Trong các vụ kiện này các tổ hợp luật sư cần phải phân chất sản phẩm để chứng minh chất lượng của sản phẩm, bằng các phương pháp như “PCR” để biết đích xác các loại thảo dược hay cây cỏ trong sản phẩm qua qui tŕnh đặc trưng của DNA của chúng.

Táo bạo hơn nhiều trong kinh doanh sai trái sản phẩm dinh dưỡng bổ sung quảng cáo như thuốc có thể ngăn ngừa, cải thiện, điều trị hoặc chữa trị một số bệnh nguy hiểm trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Hệ quả của lối kinh doanh này lên người tiêu dùng nguy hiểm hơn v́ họ tưởng lầm là thuốc thật. Nhà kinh doanh liều lĩnh bất chấp luật pháp đă có sẵn với hy vọng là sự sai trái của họ sẽ không bao giờ bị đưa ra toà án v́, như đă phân tích, FDA không xuể theo đưổi từng trường hợp v́ có quá nhiều.

Điều may mắn là bắt đầu từ tháng 8 năm 2015 một tổ hợp luật sư người Mỹ gốc Việt tại tiểu bang Texas đă liên kết với môt tổ hợp luật sư lớn ở tiểu bang California đă bắt đầu một loạt các vụ kiện “class action lawsuit against false advertisement and illegal drugs” nhắm vào các kinh doanh phi pháp đă quảng cáo láo sản phẩm dinh dưỡng bổ sung của họ là thuốc. Trong các vụ kiện này các tổ hợp luật sư chỉ cần dịch các quảng cáo từ Việt ngữ sang Anh ngữ là đă có đầy đủ chứng cớ để chứng minh. Với những điều luật trong luật pháp hiện hành đă nêu trên, tất cả các thành phần liên đới bao gồm nhà sản xuất, phân phối, và cơ sở quảng cáo đều phải chịu trách nhiệm. Có lẽ đây chỉ là bắt đầu của hàng loạt vụ kiện class action sẽ diển ra do nhiều tổ hợp luật sư khác, lư do rất đơn giản, v́ chứng cớ false advertisement và illegall drug quá rơ ràng theo định nghĩa của luật pháp.

Như vậy, trong khi chờ đợi một cái ǵ đó thay đổi trong đạo luật “Dietary Supplement Health and Education Act” để có thể bảo vệ người tiêu dùng một cách thực tế từ những kinh doanh gian lận chất dinh dưỡng bổ sung quảng cáo như thuốc một cách phi pháp, các vụ kiện “class action lawsuit against false advertisement and illegal drugs” nhắm vào các kinh doanh phi pháp là cảnh báo cho những kẻ làm sai và cho họ biết là họ phải chịu trách nhiệm. Bài khảo luận này cũng giúp một số các nhà phân phối lẻ dược thảo và sản phẩm dinh dưỡng bổ sung biết rơ hơn một cách chính xác luật pháp hiện hành về vấn đề này để tránh đi ngược với luật pháp.


Tiến Sĩ Nguyễn Thượng Vũ
Santa Clara County, California
_http://nang21.com
florida80_is_offline  
 
Page generated in 0.04686 seconds with 9 queries