|
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: May 2007
Posts: 137,891
Thanks: 9
Thanked 6,555 Times in 5,501 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 38 Post(s)
Rep Power: 173
|
Mặc dù nhịp độ và phạm vi của các nỗ lực cải tổ do Tập đưa ra gây được nhiều ấn tượng, nhưng người ta vẫn chưa rơ chúng là khởi điểm của một sự thay đổi dài hạn hay chỉ là những biện pháp hời hợt nhằm mua chuộc ḷng dân nhất thời. Dù thế nào chăng nữa, một số cải tổ của Tập đă châm ng̣i cho một cuộc chống đối mănh liệt. Theo tờ Thời báo Tài chính [Financial Time], cả hai cựu lănh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đă khuyến cáo Tập phải hạn chế chiến dịch chống tham nhũng lại, và chính Tập cũng nh́n nhận các nỗ lực của ḿnh đă gặp phải sự chống đối đáng kể. Chiến dịch này đă gây ra những tổn thất kinh tế thật sự. Theo Ngân hàng America Merrill Lynch, GDP của Trung Quốc trong năm nay đă giảm bớt 1,5 phần trăm do hậu quả các hàng hóa và dịch vụ xa xỉ bị ế ẩm, v́ các quan chức ngày càng lo ngại rằng các tiệc tùng lăng phí, các cuộc mua quan bán chức và sắm sửa đắt tiền sẽ thu hút sự chú ư ngoài ư muốn của họ. (Dĩ nhiên, nhiều người Trung Quốc vẫn tiếp tục mua sắm; nhưng họ chỉ làm việc này ở nước ngoài.) Và thậm chí những người hậu thuẫn mục tiêu chống tham nhũng cũng đặt nghi vấn về các phương pháp của Tập. Thủ tướng Lư Khắc Cường, chẳng hạn, vào đầu năm 2014 đă kêu gọi tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải tŕnh trong chiến dịch chống tham nhũng của chính phủ; nhưng tuyên bố của ông nhanh chóng bị xóa bỏ khỏi các website.
Lập trường của Tập về vấn đề tham nhũng cũng có thể gây rủi ro cho tư thế cá nhân và địa vị chính trị của ông: gia đ́nh Tập được xếp vào hạng giàu có nhất trong giới lănh đạo Trung Quốc, và theo tờ New York Times, Tập đă thúc đẩy thân nhân sang nhượng bớt tài sản, nhằm giảm bớt nguy cơ ông có thể bị đả kích. Ngoài ra, ông hoàn toàn bác bỏ những lời kêu gọi gia tăng tính minh bạch, bằng cách bắt bớ những nhà hoạt động đ̣i quan chức nhà nước phải kê khai tài sản và trừng phạt các hăng tin phương Tây đă điều tra tài sản của các lănh đạo Trung Quốc.
NHÀ NƯỚC TIẾP TỤC GIỮ QUYỀN KIỂM SOÁT KINH TẾ
Trong khi Tập ra sức củng cố quyền lực chính trị và phục hồi chính nghĩa của Đảng Cộng sản, ông c̣n phải t́m cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa. Nói rộng ra, các mục tiêu của ông gồm việc chuyển hóa Trung Quốc từ một trung tâm gia công của thế giới thành một trung tâm phát kiến của thế giới, tái quân b́nh kinh tế Trung Quốc bằng cách đặt ưu tiên tiêu thụ cao hơn đầu tư, và nới rộng không gian cho doanh nghiệp tư. Các kế hoạch của Tập gồm cả cải tổ định chế lẫn cải tổ chính sách. Chẳng hạn, ông đă có lịch tŕnh cải tổ quan trọng cho chế độ thuế má: thu nhập của chính quyền địa phương sẽ phát xuất từ nhiều loại thuế khác nhau thay v́ chủ yếu từ các vụ bán đất, thường dẫn đến tham nhũng và bất ổn xă hội. Ngoài ra, chính quyền trung ương, vốn có truyền thống hưởng khoảng một nửa lợi tức thuế quốc gia nhưng chỉ trả một phần ba các chi phí phúc lợi xă hội, sẽ gia tăng ngân sách dành cho các dịch vụ xă hội, giảm bớt phần nào gánh nặng cho các chính quyền địa phương. Hàng chục sáng kiến mới về chính sách cũng đang ở các giai đoạn thử nghiệm, gồm việc khuyến khích tư nhân đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước và giảm bớt thù lao của các giám đốc xí nghiệp, thiết lập các ngân hàng tư để đưa vốn đến các công ty nhỏ và trung b́nh, và cắt ngắn thời gian chờ đợi phê chuẩn hành chính của các công ty mới được thành lập.
Nhưng khi các chi tiết trong kế hoạch kinh tế của Tập được triển khai, th́ rơ ràng là, mặc dù Tập nhấn mạnh vai tṛ của thị trường tự do, nhưng nhà nước sẽ tiếp tục giữ quyền kiểm soát phần lớn nền kinh tế Trung Quốc. Việc cải tổ đường lối quản trị các công ty nhà nước sẽ không xói ṃn vai tṛ nổi bật của Đảng Cộng sản trong việc ra quyết sách của những công ty này; Tập giữ nguyên các rào cản quan trọng đối với đầu tư nước ngoài, và thậm chí trong khi chính phủ hứa hẹn giảm thiểu sự lệ thuộc của tăng trưởng kinh tế dựa vào đầu tư, các nỗ lực kích thích kinh tế của chính phủ vẫn tiếp tục, do đó làm cho số nợ của các địa phương càng ngày càng tăng. Thật vậy, theo Hoàn cầu Thời báo, số nợ đáo hạn không sinh lợi trong sáu tháng đầu của năm 2014 đă vượt quá số nợ mới không sinh lợi cho cả năm 2013.
Ngoài ra, Tập c̣n đưa vào nghị tŕnh kinh tế của ḿnh cùng một thứ tinh thần dân tộc chủ nghĩa – thậm chí bài ngoại – vốn đă xâm nhập vào nghị tŕnh chính trị của ông. Các chiến dịch chống tham nhũng và chống độc quyền kinh tế của Tập nhắm vào các tập đoàn đa quốc làm ra các sản phẩm như sữa bột, dụng cụ y khoa, dược phẩm, và phụ tùng xe hơi. Thật vậy, vào tháng Bảy, 2013, Ủy ban Phát triển và Cải tổ Quốc gia của Trung Quốc đă triệu tập đại diện của 30 công ty đa quốc với ư đồ buộc họ phải nh́n nhận đă có hành vi sai phạm. Lắm khi, Bắc Kinh h́nh như đang cố t́nh phá hoại các công ty cung cấp hàng hóa và dịch vụ nước ngoài: báo chí nhà nước dồn mọi chú ư vào điều mà họ cho là những sai phạm tại các công ty đa quốc trong khi tương đối giữ im lặng trước những vấn đề tương tự tại các công ty Trung Quốc.
Cũng như chiến dịch chống tham nhũng, việc Tập cho điều tra các công ty nước ngoài nêu lên những nghi vấn về ư đồ thầm kín của ông. Trong một cuộc tranh luận được phổ biến rộng răi trên truyền h́nh nhà nước Trung Quốc, giữa Chủ tịch Pḥng Thương mại Liên Âu và một quan chức của Ủy ban Phát triển và Cải tổ Quốc gia, viên chức châu Âu này đă đưa người đồng nhiệm Trung Quốc vào thế phải chống chế bênh vực những sự khác biệt giữa cách chính phủ Trung Quốc đối xử với các công ty nước ngoài và các công ty trong nước. Cuối cùng, vị quan chức Trung Quốc có vẻ nhượng bộ khi nói rằng thủ tục chống độc quyền của Trung Quốc là một thủ tục “mang đặc tính Trung Quốc.”
Như vậy, những hứa hẹn cải tổ ban đầu của Tập vẫn chưa được thực hiện. Một tập báo cáo dày 31 trang về cuộc cải tổ kinh tế Trung Quốc, được Hội đồng Thương mại Mỹ-Trung công bố vào tháng Sáu 2014, nêu ra hàng chục nhiệm vụ chưa hoàn thành. Nó chỉ coi ba sáng kiến chính sách sau đây của Tập là thành công: cắt giảm thời gian đăng kư công ty mới, cho phép các tập đoàn đa quốc sử dụng đồng Nhân dân tệ để bành trướng công ty của ḿnh, và cải tổ chế độ hộ khẩu. Tuy nhiên, nếu muốn xúc tiến những biện pháp cải tổ sâu rộng hơn nữa, có khả năng Tập cần phải gây một cú sốc cho cả hệ thống, đưa đến sự sụp đổ của thị trường địa ốc, chẳng hạn. Hiện nay, rất có thể Tập là kẻ thù tệ hại nhất của chính ḿnh: việc hô hào một vai tṛ nổi bật của thị trường không thể đi đôi với tham vọng giữ quyền kiểm soát kinh tế của ông.
ĐÁNH THỨC CON SƯ TỬ
Những nỗ lực cải tổ chính trị và kinh tế ở trong nước của Tập gắn liền với những nước cờ sinh động không kém nhằm khẳng định địa vị của Trung Quốc như một cường quốc toàn cầu. Nhưng, gốc rễ chính sách đối ngoại của Tập đă có sẵn trước khi ông trở thành Chủ tịch nước. Giới lănh đạo Trung Quốc bắt đầu công khai bàn đến sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc thế giới tiếp theo sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Vào lúc đó, nhiều học giả Trung Quốc lập luận rằng Mỹ đă bắt đầu một cuộc xuống dốc không thể tránh và việc này sẽ dành chỗ cho Trung Quốc nắm vai tṛ lănh đạo tối cao trên toàn cầu. Trong một diễn văn đọc tại Paris vào tháng Ba 2014, Tập nhắc đến những suy niệm của Napoleon về Trung Quốc: “Napoleon nói rằng Trung Quốc là một con sư tử đang ngủ, và khi nó thức dậy, cả thế giới sẽ run sợ.” Con sư tử Trung Quốc, Tập trấn an cử tọa của ḿnh, “đă thức dậy, nhưng đây là một con sư tử hiền lành, vui vẻ, và văn minh.” Tuy nhiên, một số hành động của Tập vạch trần những lời trấn an này. Ông đă thay thế câu kinh nhật tụng của cựu lănh đạo Đặng Tiểu B́nh được lặp đi lặp lại hàng chục năm nay – “Thao quang dưỡng hối” — bằng một chính sách đối ngoại khác hẳn, theo chủ nghĩa bành trướng và phô trương cơ bắp.
Đối với Tập, mọi con đường đều dẫn đến Bắc Kinh, nghĩa bóng cũng như nghĩa đen. Tập làm sống lại quan niệm xa xưa về Con đường Tơ lụa – từng nối liền đế quốc Trung Hoa với Trung Á, Trung Đông, và thậm chí với châu Âu – bằng cách đề xuất một mạng lưới rộng lớn gồm đường sắt, ống dẫn dầu, xa lộ, và kinh đào theo địa h́nh của con đường cổ đại. Hạ tầng cơ sở này, một dự án mà Tập tin chắc các ngân hàng và công ty Trung Quốc sẽ tài trợ và xây dựng, nếu được thực hiện sẽ cho phép các hoạt động mậu dịch giữa Trung Quốc và nhiều phần c̣n lại của thế giới phát triển hơn nữa. Bắc Kinh c̣n cân nhắc việc xây dựng một đường sắt cao tốc liên lục địa dài khoảng 8.100 dặm Anh [hay gần 13.500 km] để nối Trung Quốc với Canada, Nga, và Hoa Kỳ đi qua Eo biển Bering. Ngay cả Bắc Băng Dương cũng trở thành một sân sau của Trung Quốc: các học giả Trung Quốc mô tả nước ḿnh như một quốc gia “cận Bắc Băng Dương.”
Cùng với cơ sở hạ tầng mới, Tập c̣n muốn thiết lập các định chế quốc tế mới để hậu thuẫn địa vị của Trung Quốc như một cường quốc lănh đạo khu vực và toàn cầu. Ông đă giúp thành lập một ngân hàng phát triển mới, được điều hành bởi các nước BRICS – Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi – nhằm thách thức địa vị đứng đầu của Quĩ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Ông c̣n đề nghị thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á, một dự án có thể giúp Trung Quốc trở thành nhà tài trợ hàng đầu của việc phát triển khu vực. Hai nỗ lực này là những dấu hiệu cho thấy Tập muốn khai thác những bức xúc đối với việc Mỹ không chịu thúc đẩy các tổ chức kinh tế quốc tế phản ánh nguyện vọng của các nước đang phát triển hơn nữa.
Tập c̣n đưa ra các sáng kiến về an ninh khu vực. Ngoài Tổ chức Hợp tác Thượng Hải đă thành h́nh, một định chế an ninh do Trung Quốc lănh đạo gồm Nga và bốn quốc gia Trung Á, Tập c̣n muốn xây dựng một cơ cấu an ninh châu Á-Thái B́nh Dương sẽ không có sự tham gia của Mỹ. Nói chuyện tại một hội nghị vào tháng Năm 2014, Tập nhấn mạnh chủ điểm: “Phải để cho người châu Á điều hành công việc nội bộ của châu Á, giải quyết các vấn đề châu Á, và củng cố an ninh của châu Á.”
Xu thế của Tập nhắm tới một chính sách khu vực dùng sức mạnh cơ bắp bắt đầu biểu hiện rơ nét trước khi ông trở thành Chủ tịch nước. Năm 2010, Tập đứng đầu nhóm lănh đạo chịu trách nhiệm về chính sách biển Hoa Nam của Trung Quốc, một chính sách nới rộng việc định nghĩa quyền lợi cốt lơi của Trung Quốc để bao gồm các đ̣i hỏi chủ quyền lănh hải rộng lớn trong biển Hoa Nam [Biển Đông]. Kể từ đó, Tập đă sử dụng mọi phương tiện từ hải quân Trung Quốc đến tàu đánh cá dân sự để ra sức củng cố những đ̣i hỏi này – những đ̣i hỏi đang bị các quốc gia khác tiếp giáp Biển Đông bác bỏ. Vào tháng Năm 2014, xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam bùng nổ khi Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc đưa một giàn khoan vào một vùng tranh chấp trong Biển Đông; căng thẳng tiếp tục gia tăng cho đến khi Trung Quốc rút giàn khoan vào giữa tháng Bảy. Nhằm giúp việc thực hiện chủ quyền của Trung Quốc trong biển Hoa Đông, Tập đă tuyên bố một “vùng nhận diện pḥng không” trên một phần của biển này, chồng lấn với các vùng nhận diện pḥng không của Nhật và Nam Hàn. Không một nước láng giềng nào của Trung Quốc nh́n nhận bất cứ biện pháp nào trong chuỗi hành động này là hợp pháp. Tuy thế, Bắc Kinh thậm chí c̣n vẽ lại bản đồ Trung Quốc và cho in lên hộ chiếu Trung Quốc gồm cả những vùng đang tranh chấp với Ấn Đô, cũng như với các nước Đông Nam Á, gây nên một trận băo lửa chính trị trong khu vực.
Những thao diễn chính trị này của Tập đă nhen nhúm t́nh yêu nước của người dân Trung Quốc nhưng cũng khơi dậy chủ nghĩa dân tộc độc hại không kém tại các nước khác. Các lănh đạo mới có tinh thần dân tộc chủ nghĩa tương tự tại Ấn Độ và Nhật Bản đă bày tỏ mối quan ngại về các chính sách của Tập và do đó đă sử dụng các biện pháp nâng cao h́nh ảnh an ninh của nước ḿnh. Thật vậy, trong cuộc vận động tranh cử chức Thủ tướng Ấn Độ vào đầu năm 2014, Narendra Modi đă lên tiếng chỉ trích các xu thế bành trướng chủ nghĩa của Trung Quốc, và kể từ đó, Modi và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đă nâng cấp các quan hệ quốc pḥng và an ninh giữa hai nước. Nhiều nỗ lực mới về an ninh khu vực đang được tiến hành không có sự tham dự của Bắc Kinh (cũng như Washington). Chẳng hạn, Ấn Độ đă và đang huấn luyện một số lực lượng hải quân Đông Nam Á, gồm hải quân Myanmar và ViệtNam. Nhiều quân đội trong khu vực – như quân đội Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Singapore, và Nam Hàn – đă có kế hoạch diễn tập pḥng thủ hỗn hợp.
MỘT PHẢN ỨNG MẠNH MẼ
Đối với Mỹ và phần c̣n lại của thế giới, sự tỉnh dậy của nước Trung Hoa dưới quyền lănh đạo của Tập đă kích động hai phản ứng khác nhau: một mặt là sự hào hứng về những điều mà một Trung Quốc hùng mạnh hơn, ít tham nhũng hơn có thể đạt được; và mặt khác là sự lo lắng đáng kể về những thách thức mà một Trung Quốc độc tài quân phiệt có thể đặt ra cho trật tự tự do mà Mỹ bảo trợ.
Về mặt tích cực, những kế hoạch của Bắc Kinh về một Con đường Tơ lụa hiện đại sẽ đặt cơ sở trên ổn định chính trị tại Trung Đông; việc này có thể khuyến khích Bắc Kinh hợp tác với Washington để đảm bảo ḥa b́nh trong khu vực này. Một cách tương tự, việc các công ty Trung Quốc ngày càng muốn đầu tư ở nước ngoài có thể tạo cho chính quyền Washington một thế đ̣n bẩy lớn hơn khi họ đẩy mạnh một hiệp ước đầu tư song phương với Bắc Kinh. Mỹ c̣n phải khuyến khích Trung Quốc tham gia Quan hệ Đối tác Xuyên Thái B́nh Dương (TPP), một hiệp định tự do mậu dịch khu vực quan trọng đang trong thời kỳ đàm phán. Cũng như những cuộc đàm phán của Trung Quốc trước đây để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới trong thập niên 1990 đă thúc đẩy các nhà cải tổ kinh tế Trung Quốc đưa ra những thay đổi nội bộ, những cuộc đàm phán để gia nhập TPP ngày nay có thể sẽ mang lại hậu quả tương tự.
Ngoài ra, mặc dù Trung Quốc đă có một vai tṛ đáng kể trong hệ thống quốc tế, Mỹ cần phải ra sức giữ Trung Quốc ở lại trong hệ thống này. Chẳng hạn, Quốc hội Mỹ phải phê chuẩn những tu chính được đề xuất cho hệ thống bầu cử nội bộ của Quĩ Tiền tệ Quốc tế để cho phép Trung Quốc và các nước đang phát triển khác có một tiếng nói lớn hơn trong việc quản lư quĩ này và do đó làm giảm quyết tâm của Bắc Kinh trong việc thành lập các tổ chức cạnh tranh mới.
Về mặt tiêu cực, luận điệu dân tộc chủ nghĩa và lập trường quân sự quyết đoán của Tập đặt ra một thách thức trực tiếp đối với lợi ích của Mỹ ở trong khu vực và đ̣i hỏi một phản ứng mạnh mẽ. Chiến lược “tái quân b́nh lực luợng” hoặc “xoay trục” hướng về châu Á của Washington không phải chỉ là một phản ứng đối với hành vi ngày một quyết đoán hơn của Trung Quốc. Nó c̣n phản ánh những giá trị thiết thân nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ: tự do trên biển, trên không, và trong không gian; tự do mậu dịch; chế độ pháp trị; và các quyền cơ bản của con người. Nếu thiếu một chiến lược xoay trục mạnh mẽ, vai tṛ của Mỹ như một cường quốc khu vực sẽ suy yếu, và Washington sẽ bị từ chối những lợi ích phát sinh từ việc hợp tác sâu sắc hơn với đa số trong những nền kinh tế năng động nhất của thế giới. V́ thế, Mỹ phải hậu thuẫn việc xoay trục chiến lược bằng một sự hiện diện quân sự hùng hậu trong khu vực châu Á-Thái B́nh Dương để chặn đứng hay chống lại chủ trương xâm lược của Trung Quốc; đạt được sự đồng thuận và phê chuẩn Hiệp định TPP; và tăng cường các chương tŕnh của Mỹ nhằm hậu thuẫn các định chế dân chủ và xă hội dân sự tại các nước như Cambodia, Malaysia, Myanmar, và Việt Nam, là những nơi dân chủ mới manh nha nhưng đang phát triển.
Đồng thờiWashingtonphả i biết rằng có thể Tập sẽ không thành công trong việc chuyển đổi Trung Quốc theo đúng đường lối ông đưa ra. Tập vạch ra cho ḿnh một viễn kiến, nhưng các sức ép từ bên trong lẫn bên ngoài Trung Quốc sẽ ảnh hưởng lên con đường trước mặt của nước này trong nhiều cách rất bất ngờ. Một số nước giàu về hàng hóa đă ngần ngại khi giao dịch với các công ty Trung Quốc, v́ họ không yên tâm về hồ sơ trách nhiệm xă hội yếu kém của chúng, khiến Bắc Kinh phải thăm ḍ các đường lối mới để tiến hành việc kinh doanh. Các nước láng giềng của Trung Quốc, hoảng hốt trước thái độ ngang ngược của Bắc Kinh, đă bắt đầu h́nh thành những quan hệ an ninh mới. Thậm chí những chuyên gia nổi tiếng về chính sách đối ngoại hiện sống tại Trung Quốc, như Vương Tập Tư [Wang Jisi] thuộc Đại học Bắc Kinh và Đại sứ nghỉ hưu Ngô Kiến Dân [Wu Jianmin], đă bày tỏ do dự về nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Tập.
Sau cùng, mặc dù gần như không có một yếu tố nào trong chính sách đối nội và đối ngoại của Tập tỏ ra khuyến khích một sự hợp tác sâu đậm hơn với Mỹ, nhưng Washington phải chống lại việc h́nh thành quan hệ với Trung Quốc dưới h́nh thức cạnh tranh. Coi Trung Quốc như một đối thủ hay kẻ thù chỉ nuôi dưỡng lập trường chống phương Tây của Tập, và chẳng đóng góp ǵ cho việc đẩy mạnh hợp tác song phương mà chỉ làm suy yếu thêm địa vị của Mỹ mà thôi. Thay vào đó, Nhà Trắng phải đặc biệt theo dơi những diễn biến trong các chính sách của Tập, vận dụng những chính sách nào có thể tăng cường quan hệ với Trung Quốc và đẩy lùi những chính sách làm xói ṃn các lợi ích của Mỹ. Đối diện với sự bấp bênh về tương lai của Trung Quốc, các nhà làm chính sách của Mỹ phải giữ thái độ linh động và nhanh nhạy.
ELIZABETH C. ECONOMY là Nhà Nghiên cứu cao cấp [trong chương tŕnh vinh danh C.V. Starr] và là Giám đốc Ban Nghiên cứu châu Á tại Council on Foreign Relations
Nguồn: “China’s Imperial President. Xi Jinping Tightens His Grip”,Foreign Affairs tháng Mười Một/ tháng Mười Hai 2014
Theo Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
|