View Single Post
Old 12-10-2014   #2
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Jan 2005
Posts: 37,170
Thanks: 30,906
Thanked 21,986 Times in 10,208 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 827 Post(s)
Rep Power: 87
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Lựa chọn nào cho Việt Nam trong bối cảnh mới?

Trong mấy năm gần đây, yếu tố Trung Quốc đã dẫn đến chiến lược xoay trục mà Tổng thống Obama trình bày tại Lưỡng Viện Quốc Hội Australia ngày 17.11.2011 và chính thức công bố tại Washington hồi đầu tháng 1 năm 2012 để tái cân bằng sự hiện diện và củng cố ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực.

Yếu tố Trung Quốc cũng đang tạo ra ba động thái mới tại khu vực: (a) hợp tác Nga-Trung và sự hiện diện gia tăng của hải quân Nga tại Biển Đông; (b) Ấn Độ tích cực theo đuổi chiến lược Hướng Đông, và (c) hợp tác an ninh giữa các quốc gia dân chủ khu vực như Mỹ-Nhật-Úc và Ấn Độ.

(a) Nhiều năm trước đây, Liên Bang Nga có vẻ chú tâm nhiều đến việc bán vũ khí cho các nước châu Á có tranh chấp, như Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam, hơn là theo đuổi một chính sách rõ rệt đối với các cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo, mặc dầu Moscow cũng có tranh chấp với Tokyo về chủ quyền quần đảo Kurils mà Moscow đã chiếm giữ sau Thế chiến thứ Hai.

Nhưng ngày nay đối với ông Putin – phần nào bị cô lập tại châu Âu vì vấn đề Ukraine và Cremia- yếu tố Trung Quốc cũng là lý do để Moscow “xoay trục” trở lại châu Á, không phải để đương đầu mà để hợp tác chặt chẽ hơn với Trung Quốc. Ông Tập Cận Bình đã chọn Moscow làm điểm đến đầu tiên khi công du nước ngoài, và kể từ đó, hai lãnh tụ đã gặp nhau hàng chục lần. Trong quan hệ gần gũi lần này, vai trò có vẻ đảo ngược so với mấy thập niên trước khi Liên Xô là siêu cường lãnh đạo toàn thế giới cộng sản.

Tất nhiên, ngoài hợp tác kinh tế, hai nước còn đẩy mạnh hợp tác an ninh quốc phòng, như đã được loan báo sau cuộc hội kiến giữa Thủ tướng Lý Khắc Cường và Bộ trưởng Quốc Phòng Nga Sergei Shoigu tại Bắc Kinh hồi giữa tháng 11 năm 2014. Hai nước chuẩn bị thao diễn hải quân tại Châu Á-Thái Bình Dương và tại Địa Trung Hải.

Hải quân Trung Quốc đã biểu dương lực lượng tại Biển Đông, qua Eo Biển Malacca đến Ấn Độ Dương và nay có mặt tại “ao nhà” châu Âu là Địa Trung Hải.

Chiến hạm Nga đã trở lại Biển Đông thường xuyên hơn, và đã xuôi nam đến vùng biển quốc tế tiếp giáp phía bắc Australia, như để phô trương sức mạnh trong thời gian Hội nghị G 20 tại Brisbane.

Yếu tố mới này có thể là một thách đố cho chính sách của Mỹ trong khu vực. Vấn đề là điều này có lợi gì cho Việt Nam trong vấn đề tranh chấp với Trung Quốc? Nghi vấn này chưa có giải đáp. Hồi tháng 3 năm 2013, Bộ trưởng Sergei Shoigu đã thăm viếng Việt Nam và tuyên bố rằng Moscow coi trọng Việt Nam trong chính sách đối ngoại. Thế nhưng, người ta chưa quên là hồi năm 1979, khi Đặng Tiểu Bình xua quân tấn công vùng biên giới Bắc Việt, Moscow đã hoàn toàn bất động mặc dầu lúc ấy Liên Xô và Việt Nam có một hiệp ước hợp tác an ninh.

(b) Diễn tiến mới có thể thuận lợi hơn cho Việt Nam là vai trò của Ấn Độ. Thủ tướng Modi vẫn duy trì chính sách hợp tác với Trung Quốc như chính phủ Đảng Quốc Đại tiền nhiệm, nhưng ông có tầm nhìn rõ rệt hơn về an ninh khu vực và an ninh của chính Ấn Độ, đặc biệt là mối đe dọa của Trung Quốc tại vùng biên giới có tranh chấp.

Hồi giữa tháng 9 năm 2014, trong khi ông Tập Cận Bình công du thiện chí và hòa bình tại thủ đô New Delhi, vùng biên giới Ấn-Trung trở nên căng thẳng vì một toán quân Trung Quốc xâm nhập vào phần lãnh thổ mà Ấn Độ xác quyết chủ quyền.

Vì yếu tố Trung Quốc mà Thủ tướng Modi đã dành những tuần lễ đầu tiên thăm viếng các nước láng giềng nhỏ ở phía bắc Ấn Độ. Cũng vì yếu tố Trung Quốc mà chuyến công du bên ngoài Nam Á đầu tiên của Ông Modi là Nhật Bản. Thủ tướng Shinzo Abe và Thủ tướng Modi có vẻ thuận ý với nhau về mặt chiến lược an ninh.

Hồi năm 2007, Ông Abe đã từng lập luận trên căn bản “giao thoa giữa hai đại dương” là Nhật Bản góp phần bảo vệ hòa bình tại Thái Bình Dương, và Ấn Độ tại Ấn Độ Dương. Hai nước có thể hợp tác chặt chẽ để kiềm chế bành trướng của Trung Quốc.

Ngoài Ông Tập Cận Bình, các lãnh tụ nước ngoài đã đến Ấn Độ là Thủ tướng Úc Tony Abbott hồi đầu tháng 9 và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng hồi cuối tháng 10 năm 2014. Hai chuyến công du nầy đều quan trọng cho cả ba nước, có lẽ vì mục đích không khác nhau nhằm cải thiện bang giao mậu dịch đầu tư và hợp tác an ninh quốc phòng giữa Ấn-Việt và Ấn-Úc. Trong chuyến công du đáp lễ tại Australia sau Hội nghị G 20, Ông Modi và Ông Abbott đã ký kết thỏa hiệp hợp tác an ninh hàng hải và cụ thể hóa với một cuộc tập trận hải quân trong năm 2015.

(c) Yếu tố thứ ba có tầm quan trọng đặc biệt song phương và đa phương. Đó là hợp tác Mỹ-Nhật-Úc. Phương thức này đã từng được Ông Shinzo Abe, Tổng thống George W Bush và Thủ tướng John Howard nêu lên như là một sáng kiến tứ cường giữa 4 nước dân chủ khu vực là Mỹ, Nhật, Úc và Ấn Độ.

Tuy nhiên, họp tác tứ cường đã trở thành tam cường, vì lúc bấy giờ Ấn Độ dè dặt với Trung Quốc và Thủ tướng Úc kế nhiệm Kevin Rudd không muốn làm phật lòng Bắc Kinh. Bên lề Hội nghị G 20, Tổng thống Obama, Thủ tướng Shinzo Abe và Thủ tướng Tony Abbott đã thảo luận tay ba về an ninh khu vực, kể cả tranh chấp tại Biển Hoa Đông và Biển Đông. Một nhóm tay ba khác giữa Mỹ-Nhật-Ấn Độ có được hình thành hay không, chỉ là vấn đề hình thức, vì trong thực tế, hợp tác thân hữu song phương về an ninh đang xảy ra giữa Washington, Tokyo, New Delhi và Canberra.

Kể từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011, giới lãnh đạo Hà Nội đã có nỗ lực đa phương hóa quan hệ với các nước trong thế giới đa cực, đặc biệt là với Hoa Kỳ. Tuy một vài thành quả đã đạt được, nhưng tiến trình này hãy còn chậm chạp mà trở lực vẫn là mối quan hệ gọi là “đặc biệt” song hành giữa hai chính phủ và giữa hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.

Chúng ta chưa biết giới lãnh đạo tại Việt Nam sẽ gồm những ai sau đại hội đảng năm 2016. Nhưng nếu Việt Nam chưa được dân chủ hóa và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản tiếp tục cầm quyền, thì ít nhất:

(1) Việt Nam chỉ duy trì bang giao thân hữu bình thường với Trung Quốc theo đúng Công pháp Quốc tế, tức là giữa chính phủ với chính phủ. Quan hệ song hành giữa đảng với đảng kiềm hãm Việt Nam trong quỹ đạo của Bắc Kinh; và

(2) Việt Nam từ bỏ chính sách gọi là “Ba Không” nhằm phục vụ quyền lợi chiến lược của Trung Quốc, để có thể theo đuổi chính sách độc lập và tự do trong hợp tác chiến lược toàn diện với các nước.

Tại Bắc Kinh và đôi khi tại Washington, giới lãnh đạo Việt Nam đã lải nhải chính sách này, theo đó Việt Nam “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia”.

Một trường hợp mà Việt Nam có thể nghiên cứu: Australia là đồng minh thân cận của Mỹ theo Hiệp Ước ANZUS, nhưng vẫn thiết lập được đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc. Từ năm 2009, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác toàn diện với Australia và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự trù công du Australia vào đầu năm 2015 thì quan hệ giữa hai nước có thể được cứu xét nâng cấp. Tại sao Việt Nam không có những cải cách chính trị quan trọng để bắt đầu tiến trình hợp tác an ninh quốc phòng chặt chẽ hơn với hai quốc gia dân chủ Ấn Độ và Australia – có thể trong một liên minh Ấn-Úc-Việt?

Thế giới đang kết hợp vì yếu tố Trung Quốc và đây là cơ hội tốt cho Việt Nam để bắt đầu tiến trình thoát khỏi quỹ đạo bá quyền Trung Quốc mà không nhất thiết phải đối đầu chống Bắc Kinh.

Sydney, Ngày Quốc Tế Nhân Quyền 2014

L.T.Q
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10880 seconds with 10 queries