View Single Post
Old 12-02-2014   #2
Romano
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
Romano's Avatar
 
Join Date: May 2007
Posts: 137,782
Thanks: 9
Thanked 6,555 Times in 5,501 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 38 Post(s)
Rep Power: 173
Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10
Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10Romano Reputation Uy Tín Level 10
Default

VƯƠN CAO HƠN NỮA
Các nước hậu cộng sản ngày nay c̣n lâu mới trở nên hoàn hảo. Nhưng hầu hết các khuyết điểm của chúng cũng là thuộc tính tiêu biểu cho các quốc gia có cùng một tŕnh độ phát triển kinh tế. Trên nhiều mặt, các nước này c̣n đạt được những thành tích tốt đẹp hơn, vượt ra ngoài các dự đoán dựa vào lợi tức quốc gia. Và trong một số ít trường hợp tụt hậu, các nước này gần như luôn luôn đi đúng hướng.
Xin lấy nạn tham nhũng làm ví dụ. Khu vực này thường xuyên bị đánh giá rất thấp trên các chỉ số đo lường nạn tham nhũng mà người ta tin là có thật [perceived corruption]. Thành tích yếu kém này là không đáng ngạc nhiên v́ những chỉ số đo lường nạn tham nhũng phần nào đă dựa vào các cuộc thăm ḍ các nhà doanh nghiệp quốc tế, là những người có khả năng bị lung lạc do cái h́nh ảnh bẩn thỉu của khu vực này được nêu lên trên các phương tiện truyền thông toàn cầu. Nhưng các chỉ số của nạn hối lộ được chính người dân của những nước hậu cộng sản này tường thuật trong các cuộc thăm ḍ không tiết lộ danh tánh lại vẽ ra một bức tranh khác hẳn. Những chỉ số này, mặc dù cao, vẫn là tiêu biểu cho các nước có một mức lợi tức tương đương. Các cuộc thăm ḍ do tổ chức giám sát Minh bạch Quốc tế [Transparency Internatonal] tiến hành từ năm 2010 đến năm 2013 cho thấy rằng số người thú nhận đă hối lộ quan chức tại một quốc gia hậu cộng sản trung b́nh (23 phần trăm) là ít hơn con số trung b́nh tại những nước khác (28 phần trăm).
Về xung đột vũ trang cũng thế, khu vực này không khác với những vùng có cùng mức độ phát triển tương đương. Mặc dù chiến tranh đă xảy ra tại Nam Tư cũ, Chechnya, và hiện nay tại Ukraine, các nước hậu cộng sản không khác với các quốc gia có cùng một mức độ phát triển, trong khả năng trải qua xung đột vũ trang hay nội chiến trong 25 năm qua. Các quốc gia này cũng không cho thấy tỉ lệ tử vong cao hơn, cả trong chiến tranh hay bạo động lẫn qua số liệu tuyệt đối hoặc tính theo đầu người. Và mặc dù cuộc xung đột vũ trang tại Ukraine là quá mới để được tính vào những con số này, nhưng nó không có khả năng thay đổi kết quả thống kê, trừ phi chiến sự ở đó leo thang ra ngoài ṿng kiểm soát.
Đằng sau những dữ liệu này, người ta c̣n chứng kiến tiến tŕnh phi quân sự hóa nhanh chóng của toàn khu vực: so với chi phí quốc pḥng của Liên Xô cũ có khi lên đến 25 phần trăm GDP, ngày nay không một quốc gia kế tục nào của nó, kể cả Nga, có ngân sách quốc pḥng vượt quá 5 phần trăm GDP. Thậm chí khi liên minh của chúng tan ră, các quốc gia trong khốiWarsawcũ đă cho giải ngũ một triệu binh lính.
Nạn lạm phát và thất nghiệp cũng là hai vấn đề khác cần được bàn đến. Vào những năm 1990, hầu hết các nước hậu cộng sản đều kinh qua những gian khổ do vật giá leo thang và nạn thất nghiệp tăng vọt. Tuy nhiên, trước năm 2012, t́nh trạng lạm phát gần như đă được ổn định tại hầu hết những nước này; tỉ lệ lạm phát trung b́nh của các nền kinh tế hậu cộng sản trên thực tế đă rơi xuống dưới tỉ lệ lạm phát trung b́nh toàn cầu. Và mặc dù nạn thất nghiệp tại các nước chuyển đổi chế độ này vẫn c̣n cao hơn vài phần trăm so với các quốc gia có cùng tŕnh độ kinh tế, nhưng tỉ lệ này vẫn tiếp tục đi xuống kể từ khi chạm đỉnh khoảng năm 2000.
Những năm gần đây c̣n chứng kiến những cải thiện trong một lănh vực khác mà các nước hậu cộng sản đă từng tụt hậu so với phần c̣n lại của thế giới: đấy là hạnh phúc của người dân. Theo đợt thăm ḍ mới nhất của tổ chức Nghiên cứu các Giá trị Thế giới [the World Values Survey], được tiến hành trong những năm 2010-14, các nước trong khối Đông cũ cũng sắp bắt kịp thế giới về phương diện hạnh phúc. Tính trung b́nh, 81 phần trăm dân chúng được hỏi ư kiến tại các nước hậu cộng sản cho biết rằng họ hoặc là “rất” hoặc là “hoàn toàn” hạnh phúc, so với 84 phần trăm toàn thế giới. Với mức lợi tức hiện có, người dân tại những nước này không c̣n đặc biệt trầm cảm [particularly depressed] như trước – mặc dù họ vẫn bày tỏ nỗi bất b́nh khác thường [unusual dissatisfaction] với công việc, với chính phủ, cũng như với hệ thống giáo dục và y tế. Tỉ lệ tự sát, mặc dù vẫn c̣n tương đối cao, đă giảm bớt đáng kể từ khi chế độ cộng sản cáo chung.
CÁC QUI LUẬT VỀ SỰ THU HÚT GIỮA CÁC QUỐC GIA
Bài nghiên cứu các giá trị trung b́nh này làm lu mờ sự khác biệt to lớn diễn ra từ khi tính đồng phục [uniformity] do Moscow áp đặt lên chư hầu của ḿnh cáo chung. Ngày nay, sự tương phản giữa các quốc gia hậu cộng sản đa dạng này là rất rơ nét. Ba Lan đă trở thành một nước dân chủ thị trường tự do có lợi tức quốc gia tăng lên hơn hai lần kể từ năm 1990; Tajikistan vẫn là một nước độc tài, trên ḿnh c̣n mang thương tích chiến tranh và cực kỳ nghèo khổ, do một nhà lănh đạo duy nhất đứng đầu suốt hơn 20 năm.
Một lư giải được lặp đi lặp lại nhiều lần về sự cách biệt giữa các thành quả kinh tế là, tại một số nước các quan chức chính phủ đă phá hoại hiệu quả bằng cách theo đuổi các cải tổ quá táo bạo. Theo luận cứ này, một đường lối chậm răi hơn, có bài bản hơn đă giúp một số nước khác thực hiện các cuộc chuyển đổi thành công hơn. “Các chính sách theo đường lối tuần tự [gradualist policies] sẽ ít gây thiệt hại trong ngắn hạn, nhưng sẽ dẫn đến ổn định kinh tế và xă hội rộng lớn hơn, và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong dài hạn,” nhà kinh tế Joseph Stiglitz đă lập luận trong cuốn sách ông xuất bản năm 2002, Globalization and Its Discontents [Toàn cầu hóa và những nỗi bất b́nh]. “Trong cuộc chạy đua giữa con rùa và con thỏ, h́nh như con rùa lại thắng cuộc một lần nữa.” Lư giải này đă thu hút những người trong khối Xô-viết cũ khi họ nhận thấy các đặc quyền của ḿnh bị tiến tŕnh tự do hoá đe dọa và những người ở phương Tây mất ḷng tin vào các thế lực kinh tế thị trường. Nhưng lư luận như vậy là sai lầm: khoảng giữa thập niên 1990, các nước theo đuổi cải tổ một cách nhiệt t́nh đă thành công vượt bậc so với những nước tŕ hoăn cải tổ.
Chỉ nh́n sơ vào các dữ liệu cũng đủ cho ta hậu thuẫn kết luận này. Để đo lường tiến độ của sự cải tổ, chúng tôi dựa vào các chỉ số được Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu đưa ra, điều chỉnh chúng để định cho mỗi nước một số điểm hàng năm từ 0 đến 100, tùy theo mức độ mà nước đó tiến gần đến kinh tế thị trường tự do. Chúng tôi gọi những nước vượt lên trên 40 điểm trong ba năm đầu của thời kỳ quá độ là “những nước cải tổ triệt để [radical reformers].” Chín quốc gia hội đủ tiêu chuẩn này: Cộng ḥa Séc, Estonia, Hungary, Estonia, Ba Lan, Nga, và Slovakia. Chúng tôi gọi những nước có điểm từ 25 đến 40 là những nước “cải tổ tuần tự [gradual reformers],” và những nước chưa vươn tới 25 điểm là “những nước cải tổ chậm [slow reformers].”
Việc so sánh thành tích kinh tế của ba nhóm nước này cho thấy rằng những cải tổ nhanh chóng hơn và triệt để hơn sẽ giảm thiểu, chứ không tăng thêm khó khăn kinh tế. Công bằng mà nói, khi bắt đầu quá tŕnh chuyển đổi, các nước thuộc nhóm cải tổ triệt để đă chứng kiến sự suy giảm sản lượng trầm trọng hơn một chút so với các nước thuộc nhóm cải tổ tuần tự. Nhưng sau ba năm, những nước cải tổ triệt để đă xốc tới phía trước, vượt xa các nước cải tổ tuần tự. Trong khi đó, những nước cải tổ chậm gặp nhiều khó khăn nhất và ngày nay tiếp tục tụt hậu so với hai nhóm kia.
Cuối cùng những nước cải tổ tuần tự đă bắt kịp những nước cải tổ triệt để, nhưng việc này chỉ xảy ra sau nhiều năm chịu thiệt tḥi v́ phải trả giá đắt cho hiệu quả thấp [underperformance]. So với những nước hăng hái đi theo thị trường tự do, những nước cải tổ tuần tự mất nhiều thời gian hơn để lấy lại mức tiêu thụ hộ gia đ́nh đă có trước đó và để ổn định giá cả lạm phát. Và trong mức độ người ta có thể phán đoán, dựa vào các dữ liệu thống kê hiện có, nạn thất nghiệp đă ảnh hưởng nghiêm trọng đến những nước chậm cải tổ như Armenia và Madedonia, nghiêm trọng hơn các nước khác cùng kinh qua thời kỳ quá độ. Nh́n chung, không có bằng chứng nào cho thấy đường lối cải tổ tuần tự có thể giảm bớt sự nhức nhối của quá tŕnh chuyển đổi. Tất cả mọi dấu hiệu đều chỉ theo chiều ngược lại: chính những con thỏ, chứ không phải những con rùa, đă thắng cuộc đua. Nhiều con rùa cuối cùng cũng theo kịp, nhưng chỉ sau khi lặn lội một hành tŕnh gian khổ hơn.
Ngoài sự khác biệt v́ cải tổ nhanh hay chậm, một mô h́nh nổi bật khác phát sinh từ vị trí địa lư của một quốc gia ở trong khu vực. Những tiên đoán trước đây, rằng tất cả các nước đang chuyển đổi rồi sẽ giống các quốc gia phương Tây, đă không trở thành hiện thực. Quá tŕnh hội tụ quả thật đă diễn ra, nhưng ở hướng khác: giữa các nước hậu cộng sản và các lân bang phi cộng sản. Trên nhiều phương diện, các quốc gia hậu cộng sản đă trở nên tương tự với những nước phi cộng sản gần biên giới của chúng nhất.
Những quốc gia Baltic xích gần với Phần Lan hơn, những nước trong vùng Caucasus xích gần với Iran và Thổ Nhĩ Kỳ hơn. Những quốc gia Trung Á trở nên gần giống với Afghanistan và Iran hơn. Những nước Trung Âu th́ xích gần với Áo và Đức hơn, nhưng thỉnh thoảng vẫn được các nước láng giềng ở phía Đông níu kéo. Có vài ngoại lệ đối với mô h́nh này – đáng lưu ư nhất là Belarus, một nước đă trở nên độc tài hơn so với những nước hậu cộng sản láng giềng. Nhưng trong hầu hết mọi trường hợp, sau khi thoát khỏi gọng kềm của Moscow, các chư hầu Xô-viết cũ đă nhanh chóng bung ra, hội nhập vào môi trường khu vực của ḿnh.
Các đặc tính của những nước láng giềng không cộng sản gần gũi nhất của mỗi quốc gia vào thời điểm 1990 có thể gợi ư mạnh mẽ về đường hướng phát triển sau này của quốc gia đó. Nếu xét đến khởi điểm của từng nước, chúng ta sẽ thấy rằng hễ các nước láng giềng phi cộng sản càng giàu có, càng dân chủ và càng tự do về mặt kinh tế, th́ cuối cùng nước hậu cộng sản đó sẽ trở nên giàu có, dân chủ và tự do về mặt kinh tế hơn trước. Sự hội tụ này c̣n biểu hiện trong nhiều cung cách tế nhị hơn nữa – chẳng hạn, trong tỉ lệ sinh viên đăng kư vào đại học, trong mức tiêu thụ rượu cồn, và thậm chí trong tuổi thọ trung b́nh. Đôi khi, các nước láng giềng c̣n ảnh hưởng trực tiếp lên viễn ảnh phát triển của những nước hậu cộng sản này, như trường hợp quân chiến đấu Hồi giáo từ bên kia biên giới Afghanistan tấn công vào Tajikistan hay khi các công ty Đức thành lập các nhà máy sản xuất tại Cộng ḥa Séc. Nhưng một động lực quan trọng hơn thúc đẩy tính đồng qui này chắc hẳn là những đặc tính văn hóa cơ bản đă có trước chế độ cộng sản và các biên giới quốc gia hiện nay.
NHỮNG KỲ VỌNG TO LỚN
Mười năm về trước, chúng tôi đă lập luận trong tạp chí này rằng Nga đă trở thành “một quốc gia b́nh thường,” với các khuyết tật chính trị và kinh tế tương tự khuyết tật của những quốc gia cùng tŕnh độ phát triển. Chúng tôi dự đoán rằng tăng trưởng kinh tế của Nga sẽ tiếp diễn, đồng thời hiện đại hóa xă hội theo bước phát triển đó. Tiên đoán này đă trở thành hiện thực: GDP tính theo đầu người của Nga đă tăng thêm 39 phần trăm kể từ năm 2004, và sự thâm nhập Internet tại Nga đă tăng lên 4 lần, qua mặt Hy Lạp.
Quay sang chính trị, chúng tôi phác họa hai kịch bản có thể xảy ra. Kịch bản thứ nhất nêu lên “sự cạnh tranh ngày một gia tăng giữa các đảng phái dân chủ và sự xuất hiện của một xă hội dân sự ngày một vững mạnh hơn.” Kịch bản thứ hai tiên đoán một “sự tuột dốc hướng tới một chế độ độc tài được quản lư bởi các cán bộ nhà nghề trong ngành công an dưới chiêu bài của các thủ tục dân chủ h́nh thức.” Tiên đoán của chúng tôi cho rằng Nga sẽ vạch ra một con đường nằm giữa hai thái cực này – một tiên đoán hóa ra là quá lạc quan, xa vời thực tế. Cuối cùng, Tổng thống Nga đă chọn phương án thứ hai.
Việc Putin chọn con đường độc tài rơ ràng làm cho Nga trở thành nguy hiểm hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, việc này vẫn chưa làm cho Nga trở nên bất b́nh thường về mặt chính trị. Thật vậy, trên một biểu đồ đối chiếu chỉ số Chính thể [Polity scores] của nhiều quốc gia khác nhau với chính lợi tức của chúng, Nga vẫn chỉ chệch hướng một chút so với mô h́nh tổng quát. Đối với một nước có lợi tức quốc gia như Nga, chỉ số Chính thể dự kiến vào năm 2013 là 76 trên thang điểm 100. Chỉ số thực của Nga là 70, ngang hàng với Sri Lanka và Venezuela.
Nếu Nga thậm chí trở nên giàu có hơn nữa mà không chịu tự do hóa chính trị, nó mới thực sự trở thành bất b́nh thường. Chỉ có ba nhóm nước giàu hơn Nga hiện nay là các nước dân chủ phát triển, các nước độc tài dầu lửa (hầu hết nằm trong vùng Vịnh Ba Tư), và các quốc gia đô thị (city-states) như Singapore và Macao. Rơ ràng là Nga không thể trở thành một quốc gia đô thị, và nó không có đủ tài nguyên thiên nhiên để trở thành một nước độc tài kiểu Ả-rập. (Lợi tức từ dầu khí hàng năm của Nga là 3.000 USD mỗi đầu người, so với 34.000 USD đối với Kuwait.) V́ thế Nga hiển nhiên phải chọn giữa trải qua bế tắc kinh tế và theo đuổi phát triển kinh tế song song với dân chủ hóa mạnh mẽ hơn trước. Hiện nay, Điện Kremlin có vẻ quyết tâm đi theo lựa chọn thứ nhất, nhưng những lựa chọn của nó có thể thay đổi theo thời gian.
Tuy vậy, chủ nghĩa độc tài ngày càng gia tăng của Nga chắc chắn không làm cho thế giới sao lăng những tiến bộ ngoạn mục của khu vực hậu cộng sản này nói chung. Hai mươi lăm năm về trước, những nước thuộc về khối Đông tiêu biểu cho một trong hai nền văn minh loại trừ lẫn nhau trên thế giới [an alternative civilization]. Vào lúc đó mà tưởng tượng chúng nhanh chóng ḥa nhập vào ḍng chính toàn cầu [the global mainstream], phải cần đến một sự bạo gan nào đó. Thời kỳ quá độ đă gây ra không ít thất vọng. Nhưng nh́n chung, những thay đổi từ năm 1989 đến nay là một thành công nổi bật.
Đă đến lúc phải xét lại cái cảm thức sai lầm về giai đoạn này. Những cải tổ thị trường, những nỗ lực xây dựng dân chủ, những cuộc tranh đấu chống tham nhũng đă không thất bại, mặc dù chúng vẫn chưa hoàn tất. Luận điệu cho rằng một đường lối cải tổ kinh tế tuần tự sẽ có hiệu quả hơn và ít gây đau đớn hơn đă bị các bằng chứng dữ liệu bác bỏ. Thời kỳ quá độ hậu cộng sản không hề cho thấy sự bất cập của chủ nghĩa tư bản tự do hay sự rối loạn chức năng của thể chế dân chủ. Nói đúng hơn, nó chứng minh tính ưu việt và lời hứa hẹn trường tồn của cả hai.
______
ANDREI SHLEIFER là Giáo sư Kinh tế tại Đại học Harvard. DANIEL TREISMAN là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Calfornia, Los Angeles, và là tác giả cuốn The Return: Russia’s Journey From Gorbachev to Medvedev [Trở về thế giới b́nh thường: Hành tŕnh của Nga từ Gorbachev đến Medvedev.]
H́nh: Baku, thủ đô Azerbaijan ngày nay
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh: “Normal Countries. The East 25 Years After Communism”. Foreign Affairs số tháng Mười Một/Mười Hai 2014.
Bản tiếng Việt @ 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
Romano_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.12490 seconds with 10 queries