Giống như chiến dịch chống tham nhũng của ḿnh, điều tra các công ty ngoại quốc của Tập đặt dấu hỏi về chủ đích thực. Trong một cuộc tranh luận giữa người đứng đầu Pḥng Thương mại của Liên Hiệp Châu Âu ở Trung Quốc và một quan chức từ Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia được phát sóng công khai bởi đài truyền h́nh quốc gia Trung Quốc, viên chức của Liên hiệp Châu Âu đă buộc người đối tác bào chữa cho những sự bất b́nh đẳng lồ lộ giữa cách đối xử của chính quyền Trung Quốc đối với các công ty nước ngoài và nội địa. Rút cục viên chức Trung Quốc tỏ ra nhượng bộ, nói rằng phương pháp chống độc quyền của Trung Quốc là phương pháp "có đặc trưng Trung Quốc."
V́ thế sự hứa hẹn ban đầu của công cuộc đại tu của Tập vẫn chưa h́nh thành. Một bảng báo cáo 31 trang về cải cách kinh tế của Trung Quốc, phát hành vào tháng Sáu 2014 của Hội đồng Thương Mại Hoa-Trung, bao gồm hàng chục những yêu cầu không hoàn thành. Nó cho thấy rằng chỉ có ba sáng kiến chính trị của Tập thành công: rút ngắn thời gian đăng kư doanh nghiệp, cho phép các công ty đa quốc gia dùng nhân dân tệ để phát triển kinh doanh của họ, và cải cách hệ thống hộ khẩu. Giải quyết những cải tổ sâu rộng hơn, tuy vậy, có thể đ̣i hỏi một cú huưch vào hệ thống. Hiện giờ th́ Tập dường như là kẻ thù tệ nhất của chính ḿnh: những yêu cầu chiếm lĩnh thị trường không phù hợp với mong muốn của ông nhằm duy tŕ kiểm soát kinh tế.
DẮT SƯ TỬ
Những nỗ lực của Tập để thay đổi chính trị và kinh tế ở trong nước đi đôi với những bước đi để gây dựng Trung Quốc trở thành một cường quốc toàn cầu. Tuy thế gốc rễ của chính sách đối ngoại của Tập có trước nhiệm kỳ của ông. Giới lănh đạo Trung Quốc đă bắt đầu công khai nói đến sự trỗi dậy của Trung Quốc như là một cường quốc toàn cầu nhân dịp cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào năm 2008. Những phân tích gia của Trung Quốc phán đoán rằng Hoa Kỳ đă bắt đầu một sự suy thoái không tránh khỏi v́ thế nó nên nhường chỗ cho Trung Quốc khi mà nó c̣n là siêu cường toàn cầu. Trong một bài diễn văn ở Paris vào tháng Ba 2014, Tập nhắc lại suy tư của Naloleon về Trung Quốc: "Napoleon đă nói rằng Trung Quốc là một con sư tử đang ngủ, và khi nó thức dậy, thế giới sẽ rung chuyển." Con sư tử Trung Quốc, Tập trấn an người nghe, "đă thức dậy nhưng đây là một con sư tử yên lặng, dễ chịu, và lịch sự." Dẫu vậy một số hành động của Tập chứng tỏ ngược lại những lời nói an ủi của ḿnh. Ông ta thay thế câu tâm niệm của nhà lănh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh trước đó--"Thao quang dưỡng hối"--bằng một chính sách đối ngoại có tính bành trướng và phô diễn sức mạnh hơn.
Đối với Tập, mọi con đường đều dẫn đến Bắc Kinh, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ông đă hồi sinh ư tưởng cổ xưa của Con đường Tơ Lụa--liên thông Đế chế Trung Hoa với Trung Á, Trung Đông, và kể cả Châu Âu--bằng cách đề xuất một mạng lưới mênh mông bao gồm các tuyến đường sắt, đường ống dẫn dầu, đường cao tốc, và các kênh đào nương theo những tuyến đường xưa. Hệ thống cơ sở hạ tầng mà Tập hy vọng các ngân hàng và công ty Trung Quốc sẽ tài trợ và xây dựng, sẽ cho phép gia tăng trao đổi mậu dịch giữa Trung Quốc và phần lớn thế giới. Bắc Kinh cũng đă xem xét đến chuyện xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc quăng 8100 dặm liên lục địa để sẽ nối liền Trung Quốc với Canada, Nga, và Hoa Kỳ băng qua Eo biển Bering. Ngay cả Bắc Cực đă trở thành sân sau của Trung Quốc: các học giả Trung Quốc coi nước họ là một quốc gia "gần Bắc Cực".
Bên cạnh cơ sở hạ tầng mới này, Tập cũng muốn thiết lập những tổ chức mới để hỗ trợ lập trường của Trung Quốc trong vai tṛ lănh đạo trong cả khu vực và toàn cầu. Ông đă ủng hộ việc thiết lập một ngân hàng phát triển, điều hành bởi những nước BRICS--Brazil, Russia, India, China, và South Africa--để thách thức sự ưu việt của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới. Và ông đă thúc đẩy việc thành lập Ngân Hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Á Đông mà nó có thể cho phép Trung Quốc trở thành người cấp vốn hàng đầu cho phát triển khu vực. Hai nỗ lực này báo hiệu mong muốn của Tập lợi dụng những thất vọng với việc thiếu thiện ư của Hoa Kỳ nhằm dàn xếp các tổ chức kinh tế thế giới để đại diện cho các nước đang phát triển hơn.
Tập cũng đă đề xướng những sáng kiến an ninh khu vực. Bên cạnh Tổ chức Hợp tác Thượng Hải sẵn có, một tổ chức an ninh do Trung Quốc dẫn đầu bao gồm Nga và bốn quốc gia Trung Á, Tập muốn thiết lập mới một kết cấu an ninh Á Châu--Thái B́nh Dương mà nó loại trừ Hoa Kỳ ra. Phát biểu ở một hội nghị vào tháng Năm 2014, Tập nhấn mạnh vấn đề: "Vấn đề là hăy để người Á Châu lo chuyện của Châu Á, giải quyết những vấn đề của Châu Á, và ǵn giữ an ninh của Châu Á."
Tánh thiên vị của Tập cho một chính sách khu vực hung hăng trở nên rơ ràng trước khi trở thành chủ tịch nước. Vào năm 2010, Tập chủ tọa một nhóm trọng yếu lo về chính sách cho Biển Nam Trung Hoa của quốc gia. Nó đă mở rộng định nghĩa lợi ích cốt lơi của Trung Quốc để bao gồm những tuyên bố chủ quyền lănh hải ở Biển Nam Trung Hoa. Kể từ đó, ông đă sử dụng mọi thứ từ Hải quân Trung Quốc cho đến tàu đánh cá để củng cố những tuyên bố này--những tuyên bố chủ quyền này bị kháng cự bởi những quốc gia có biển tiếp giáp với Trung Quốc. Vào tháng Năm 2014, va chạm giữa Trung Quốc và Việt Nam nổ ra khi Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia Trung Quốc di chuyển một giàn khoan vào vùng tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa; căng thẳng dâng cao cho đến khi Trung Quốc rút khỏi giàn khoan vào giữa tháng Bảy. Để hỗ trợ những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa, Tập đă tuyên bố một "vùng nhận dạng pḥng không" trải rộng một phần của nó, chồng lấn với những vùng được thiết lập bởi Nhật Bản và Nam Hàn. Ông ta cũng đă ra thông cáo những quy định đánh cá trong khu vực. Không bất cứ một quốc gia láng giềng nào của Trung Quốc công nhận bất cứ hành động này là hợp pháp. Thế nhưng Bắc Kinh đă vẽ lại bản đồ của Trung Quốc in trên hộ chiếu với h́nh vùng đang tranh chấp với Ấn Độ cũng như với các quốc gia ở Đông Nam Á đă gây nên một cơn băo lửa chính trị.
Những thủ đoạn này đă kích động t́nh cảm chủ nghĩa dân tộc ở trong nước và chủ nghĩa dân tộc gay gắt ở ngoài nước. Các nhà lănh đạo dân tộc chủ nghĩa ở Ấn Độ và Nhật Bản đă bày tỏ lo ngại về những chính sách của Tập và có những biện pháp để gia tăng thực lực quốc pḥng của họ. Thực tế là trong chiến dịch tranh cử cho chức Thủ tướng vào đầu năm 2014, Narendra Modi chỉ trích những khuynh hướng bành trướng của Trung Quốc. Kể từ đó, ông ta và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đă nâng cấp quốc pḥng và quan hệ an ninh. Nhiều nỗ lực mới về an ninh khu vực đang được xúc tiến mà không có mặt Bắc Kinh (cũng như Washington). Ví dụ Ấn Độ đă và đang huấn luyện một số hải quân của Đông Nam Á bao gồm Miến Điện và Việt Nam, và nhiều quân đội của khu vực--kể cả Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Singapore, và Nam Hàn--đă hoạch định những cuộc tập trận chung.
MỘT PHẢN ỨNG MẠNH MẼ
Đối với Hoa Kỳ và phần lớn thế giới, sự trỗi dậy của Trung Quốc gây ra hai phản ứng khác nhau: một mặt phấn khích về những ǵ mà một Trung Quốc mạnh mẽ hơn, ít tham nhũng hơn có thể đạt được, và mối quan tâm sâu sắc hơn về mặt khác là những thách thức mà một Trung Quốc độc đoán, quân phiệt có thể đặt ra cho một trật tự tự do hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ.
Về mặt tích cực mà nói, những kế hoạch của Bắc Kinh cho một Con đường Tơ Lụa dựa trên ổn định chính trị ở Trung Đông; điều đó có thể đem lại cho Bắc Kinh một lợi ích để làm việc với Washington để đạt được ḥa b́nh trong khu vực. Tương tự, những gia tăng lợi ích của các công ty Trung Quốc trong việc đầu tư ở nước ngoài có thể đem lại lợi thế nhiều hơn cho Washington khi mà nó đẩy mạnh xúc tiến một thỏa ước đầu tư song phương với Bắc Kinh. Hoa Kỳ cũng nên khuyến khích Trung Quốc tham gia vào Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái B́nh Dương (TPP), một hiệp định lớn về tự do thương mại khu vực đang được đàm phán. Giống như những đàm phán của Trung Quốc để tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới vào thập niên 90 đă thúc đẩy những nhà cải cách kinh tế Trung Quốc phải gia tăng thay đổi ở trong nước, những đàm phán để tham gia TPP có thể có tác động tương tự với hiện giờ.
Hơn nữa, cho dù Trung Quốc đă có quyền lợi quan trọng trong hệ thống quốc tế, Hoa Kỳ phải tính toán để giữ Trung Quốc ở trong cùng một phe. Ví dụ, Quốc Hội Hoa Kỳ nên phê chuẩn những đề xuất thay đổi cho hệ thống bầu cử nội bộ của Quỹ Tiền tệ Quốc Tế để nó sẽ cho phép Trung Quốc và những quốc gia phát triển khác một tiếng nói mạnh hơn trong việc quản lư quỹ và bằng cách ấy sẽ giảm thiểu quyết tâm của Bắc Kinh để thành lập những nhóm cạnh tranh.
Về mặt tiêu cực mà nói, giọng điệu dân tộc chủ nghĩa và thái độ quân sự quả quyết của Tập đặt ra một thách thức trực tiếp đến những quyền lợi của Hoa Kỳ ở trong khu vực và đ̣i hỏi một phản ứng mạnh mẽ. Việc "tái cân bằng" hay "xoay trục" của Washington sang Châu Á có nhiều ư nghĩa hơn đơn giản chỉ là một phản ứng đối với hành vi quả quyết hơn của Trung Quốc. Nó cũng phản ánh những giá trị cốt yếu của các chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: tự do hàng hải, không lưu, và không gian; tự do thương mại; thượng tôn pháp luật**[1]**; và các quyền con người cơ bản. Nếu không có một sự xoay trục vững chắc, vai tṛ của Hoa Kỳ là một cường quốc khu vực sẽ giảm lần và Washington sẽ bị ngăn chặn những lợi ích từ việc hợp tác sâu rộng với những nền kinh tế năng động nhất thế giới. V́ thế Hoa Kỳ nên yểm trợ việc xoay trục với một sự hiện diện quân sự lớn mạnh ở Châu Á--Thái B́nh Dương để ngăn cản hoặc đối phó sự gây hấn của Trung Quốc; đạt được sự đồng thuận và phê chuẩn TPP; và giúp đỡ những chương tŕnh của Hoa Kỳ để ủng hộ những tổ chức dân chủ và tổ chức dân sự ở những nơi như Cambodia, Malaysia, Myanmar, và Việt Nam, nơi mà dân chủ c̣n phôi thai nhưng đang nảy nở.
Đồng thời, Washington nên nhận ra rằng Tập có thể không thành công về việc chuyển đổi Trung Quốc theo đúng theo cách thức ông ta đă tuyên bố. Ông ta đă đưa ra viễn kiến của ḿnh nhưng những áp lực từ cả bên trong và bên ngoài Trung Quốc sẽ phát triển quỹ đạo của quốc gia theo những hướng khác nhau. Một số quốc gia có giàu khoáng sản đă do dự làm ăn với những tập đoàn của Trung Quốc. Các quốc gia này lo lắng trước hồ sơ yếu kém về trách nhiệm xă hội của những tập đoàn Trung Quốc. Điều này đă buộc Bắc Kinh phải t́m kiếm những phương thức mới để kinh doanh. Những quốc gia láng giềng của Trung Quốc, lo âu bởi thái độ nghênh ngang của Trung Quốc, đă bắt đầu thiết lập những hợp tác an ninh mới. Ngay cả những chuyên gia ngoại giao nổi tiếng trong Trung Quốc như Vương Tập Tư của Đại học Bắc Kinh và cựu Đại sứ Ngô Kiến Dân, đă bày tỏ những mối quan ngại về tiến tŕnh của chính sách đối ngoại của Tập.
Sau cùng, cho dù chính sách đối nội và đối ngoại của Tập ít có vẻ ǵ là sẵn sàng hợp tác sâu đậm hơn với Hoa Kỳ, Washington không nên mắc phải vào việc coi mối quan hệ với Trung Quốc là một cuộc đọ sức. Đối xử Trung Quốc như là một kẻ cạnh tranh hay kẻ địch chỉ đổ thêm vào giọng điệu bài phương Tây của Tập, làm suy yếu những ai ở Trung Quốc đang thúc đẩy cho tiếng nói trung ḥa, và chẳng giúp ích ǵ để gia tăng sự hợp tác song phương và có phần giảm bớt sự tiến triển của Hoa Kỳ. Thay v́ thế Nhà Trắng nên đặc biệt để ư đến sự triển khai của các chính sách của Tập, tận dụng những lợi thế mà chúng có thể tăng cường mối quan hệ với Trung Quốc và đẩy lui những chuyện làm suy yếu lợi ích của Hoa Kỳ. Đối mặt với sự bất định của tương lai của Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ phải uyển chuyển và ứng phó nhanh chóng.
Elizabeth C. Economy, ấn bản tháng 11/12 2014, Foreign Affairs
Neofob chuyển ngữ
ELIZABETH C. ECONOMY là Thành viên Cao cấp của C.V. Starr và là Tổng giám đốc của Nghiên cứu Châu Á ở Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
Nguồn: http://fam.ag/1sKXjQZ
Cước chú:
[1]: Rule of Law. Xem bài viết của Đỗ Kim Thêm về khái niệm này trong tiếng Việt. Bài viết đăng trên danluan.org, 28 tháng 2, 2011 [ND] http://bit.ly/14xMXwk
(Dân luận)