View Single Post
Old 02-24-2013   #6
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 110
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default

Cũng nên nhắc đến ở đây một trở ngại nội bộ do việc Thượng Nghị sĩ Robert Kennedy, trong cuộc thăm viếng Pháp để thảo luận với Tổng thống de Gaulle đầu tháng Hai 1967, đă nhận được một thông điệp do Mai Văn Bộ chuyển qua Bộ Ngoại giao Pháp, cho hay lời phát biểu của Nguyễn Duy Trinh là quan điểm chính thức của Hà Nội. Ngày 2 tháng Ba Kennedy đọc diễn văn ở Thượng Viện, chỉ trích việc ném bom Bắc Việt và đưa ra kế hoạch điều đ́nh với Hà Nội trong đó có điều khoản ngưng ném bom vô điều kiện. Tổng thống Johnson thẳng tay bác bỏ đề nghị này v́ nghi ngờ rằng chủ đích của Robert Kennedy là muốn được đảng Dân chủ đưa ra tranh cử Tổng thống.

Vào cuối buổi thảo luận về “tín hiệu Nguyễn Duy Trinh” giữa các đại diện Việt-Mỹ năm 1997, Nguyễn Khắc Huỳnh cho biết Hà Nội không biết một chút ǵ về những người chủ trương hoà đàm trong chính quyền Mỹ. Chính ông đến bây giờ cũng mới hiểu rằng việc Hà Nội gia tăng quân viện vào miền Nam trong những lần Mỹ ngưng ném bom là có hại cho những nỗ lực hoà b́nh trong nội bộ Hoa Kỳ.

V. SUNFLOWER (tháng Hai 1967) - Đây là một nỗ lực hoà b́nh liên quan đến tín hiệu Nguyễn Duy Trinh”, nhân chuyến đi London của Thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin ngày 6 tháng Hai, 1967. Vấn đề Việt Nam nằm trong nghị tŕnh thảo luận giữa Kosygin với Thủ tướng Anh Wilson. Trọng tâm của vấn đề là t́m một công thức có thể được cả Washington và Hà Nội chấp thuận để tiến đến thương thuyết. Hai ông đều chia sẻ mối lo ngại về Trung Quốc và Kosygin thúc dục Wilson nên ủng hộ “sáng kiến” của Nguyễn Duy Trinh. Wilson đề nghị triệu tập hội nghị Genève khởi sự bằng công thức “giai đoạn A – giai đoạn B” do nhà ngoại giao Mỹ Chester Cooper đề nghị thi hành không cần tuyên bố: Mỹ ngưng ném bom, sau đó một vài tuần Hà Nội đáp ứng bằng việc ngưng xâm nhập miền Nam, Wilson và Kosygin cùng thảo bản kế hoạch và gửi cho Johnson.

Johnson viết cho Wilson ngày 7 tháng Hai về ư muốn thi hành công thức dung hoà hai chiều của Cooper nhưng không nói rơ bên nào phải đi bước trước. Trên thực tế, Mỹ đă quyết định ngưng ném bom trong thời gian Kosygin ở London. Trong khi đó, khi được tin t́nh báo Mỹ cho hay là, sau khi ngưng ném bom, “việc chuyển vận từ Bắc vào Nam… giống như một ngày Chúa Nhật trên xa lộ New Jersey Turnpike” (nghĩa là rất nhộn nhịp) Johnson viết thư cho Hồ Chí Minh đ̣i hỏi việc xuống thang đồng thời. Ngày 10 tháng Hai, khi đọc thư này, Wilson và Kosygin rất tức giận về việc Johnson đă “đổi th́ của động từ”. Bản kế hoạch Wilson-Kosygin viết: “Hoa Kỳ sẽ ngưng oanh tạc miền Bắc ngay sau khi được đoan chắc là việc xâm nhập từ Bắc vào Nam sẽ ngưng.” Trong lá thư của Johnson gửi Hồ Chí Minh, “sẽ ngưng” được sửa lại thành “đă ngưng.” Ngày 15 tháng Hai, Hồ Chí Minh trả lời với lời lẽ gay gắt và nhấn mạnh vào việc áp dụng công thức Nguyễn Duy Trinh.

Như vậy, lần này Hoa kỳ đă sai lầm để lỡ cơ hội ḥa b́nh, v́ Kosygin đáng lẽ đă có thể thuyết phục được Hà Nội ngồi vào bàn thương thuyết. Viktor Sukhodrev, phụ tá thân cận và thông dịch viên của Kosygin, xác nhận thời điểm khi đó rất tốt cho Kosygin làm trung gian, ngoại trừ chuyện “đổi th́ của động từ.” Đáng chú ư là vào đầu năm 1967 Hà Nội đă có nhiều lư do để rời khỏi quĩ đạo Trung Quốc và tiến đến gần hơn với Liên Xô, được Liên Xô gia tăng viện trợ vật liệu và vũ khí,48 nhất là hoả tiễn địa-không để chống máy bay Mỹ ở miền Bắc và cơ giới nặng để chuyển vào miền Nam. Tháng Ba 1966, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh được mời sang Bắc Kinh để nghe Chu Ân Lai và Đặng Tiểu B́nh trách cứ về việc tiếp xúc với Mỹ và cảnh giác về việc xoay chiều thân với Liên Xô. Họ Chu nói:

Từ năm ngoái đă có thay đổi khi Bắc Việt bắt đầu nói chuyện với Mỹ. Chúng tôi muốn nói thẳng với đồng chí là những thay đổi đó bắt đầu với đám lănh đạo mới của Liên Xô, nhất là sau chuyến Kosygin đi tham quan Việt Nam từ 6 đến 10 tháng Hai 1965. Sau khi Kosygin ở Hà Nội về, Liên Xô đă sử dụng đồ viện trợ cho Việt Nam để lấy ḷng tin của các đồng chí một cách gian trá. Mục đích của chúng là che lấp-quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, chia rẽ Việt Nam và Trung Quốc, nhằm chi phối Việt Nam nhiều hơn trong việc cải thiện quan hệ với Mỹ của chúng và cản trở cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam.49

Ngày 13 tháng Tư, khi Đặng Tiểu B́nh đặt vấn đề “Phải chăng các đồng chí nghi ngờ ḷng sốt sắng của chúng tôi? Có phải Trung Quốc muốn chiếm Việt Nam hay không?” Lê Duẩn chỉ trả lời về chuyện thân Liên Xô:

Chúng tôi cho rằng việc Liên Xô giúp đỡ Việt Nam là có phần thành thật, v́ thế chúng tôi không hỏi xem Liên Xô có bán đứng Việt Nam hay không và chúng tôi cũng không nói rằng Liên Xô vu khống Trung Quốc về việc hàng viện trợ của Liên Xô được chuyển qua lănh thổ Trung Quốc50… Đồng chí nói rằng Liên Xô bán đứng Việt Nam nhưng chúng tôi không nói thế. Mọi vấn đề khác đều xuất phát từ việc phê phán này.51

Lưu Văn Lợi, trong cuộc đối thoại 1997, nhận định rằng sáng kiến SUNFLOWER có thể đă thành công v́ Đại hội Trung ương Đảng lần thứ 13, tháng Giêng 1967, đă quyết định mở mặt trận ngoại giao phối hợp với hai mặt trận chính trị và quân sự. Do đó mà có “tín hiệu Nguyễn Duy Trinh.” Khi Kosygin và Wilson gặp nhau ở London, Tổng thống Johnson cho biết ông hoan nghênh lời tuyên bố của Ngoại trưởng Trinh. Nhưng khi viết thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh th́ ông lại đảo ngược thứ tự của đề nghị thành điểm B trước, điểm A sau. Tệ hơn nữa, ông lại cho Hà Nội thời hạn chót phải trả lời là 10 giờ sáng ở London, tức là chín tiếng đồng hồ sau khi Wilson và Kosygin được đọc thư. Đó là những lư do thất bại của SUNFLOWER.

Giải thích của ông Lợi có lư nhưng cũng cần hiểu rằng việc Johnson “thay đổi th́ của động từ” chỉ là một phản ứng tự nhiên của ông sau khi được tin đường quân viện từ Bắc vào Nam “nhộn nhịp như xa lộ New Jersey ngày Chúa nhật.” Theo Johnson, đó là một sự lợi dụng trắng trợn của Bắc Việt ngay sau khi Mỹ ngưng bom.

Tháng Ba 1967, Hà Nội bắt đầu chuẩn bị “Tổng tấn công, Tổng nổi dậy” nhân dịp Tết Mậu Thân, đầu năm 1968.

VI. PENNSYLVANIA (tháng Bảy-tháng Mười 1967) – Sáng kiến này bắt đầu từ một nhóm khoa học gia —nhóm Pugwash— quan tâm về hiểm hoạ của chiến tranh nguyên tử và vận động cho các sáng kiến về hoà b́nh ở mọi nơi. Nhóm này muốn nhờ Raymond Aubrac, một người Pháp có cô con gái mà Hồ Chí Minh là cha đỡ đầu, làm trung gian giữa Washington và Hà Nội. Một thành viên của nhóm Puawash là Henry Kissinger, khi đó đang giảng dạy ở Đại học Harvard đồng thời là tư vấn cho Bạch Ốc và Bộ Ngoại giao. Giữa tháng Sáu 1967, Kissinger chuyển sáng kiến của nhóm tới Dean Rusk và McNamara. Sáng kiến này được McNamara đặc biệt chú ư và thuyết phục được Rusk và Johnson chấp thuận. Cuối tháng Sáu, Aubrac nhận lời mời của nhóm Pugwash về họp ở Paris để bàn về kế hoạch đi Hà Nội. Aubrac cùng Herbert Marcovitch, môt nhà vi sinh học, lên đường vào giữa tháng Bảy qua ngả Nam Vang. Tới Hà Nội, cả hai người được Hồ Chí Minh tiếp ngay mặc dù đang lâm bệnh. Sau đó họ gặp Phạm Văn Đồng hai lần và thảo luận kỹ lưỡng về triển vọng hoà đàm. Ngày 28 tháng Bảy, Aubrac và Marcovitch, trở về Paris và cho Kissinger biết kết quả. Theo báo cáo của Kissinger cho Bộ Ngoại giao, Phạm Văn Đồng tiếp tục đ̣i Mỹ “ngưng ném bom vô điều kiện” nhưng không cần phải tuyên bố chính thức. Phạm Văn Đồng cũng cho hay là chương tŕnh đàm phán trước tiên là những vấn đề liên quan đến Mỹ và Bắc Việt, khi nào bàn tới những vấn đề của miền Nam th́ MTGPMN sẽ cần có mặt. V́ Marcovitch tới Hà Nội dưới danh nghĩa một khoa học gia đi thăm Viện Pasteur, Bộ trưởng Y tế Hà Nội cũng gặp Aubrac và Marcovitch trong một bữa ăn trưa, Nhân dịp này, ông nói với hai người là đề nghị ḥa đàm “cần được thảo luận chính thức hơn là không chính thức.”

McNamara soạn một thông điệp gửi cho Phạm Văn Đồng, được Johnson chấp thuận ngày 11 tháng Tám. Kissinger chuyển bản văn cho Aubrac và Markovitch để mang về Việt Nam trong chuyến đi dự định ngày 24 tháng Tám. Thông điệp viết:

Hoa Kỳ sẵn sàng ngưng các cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam nếu hiểu rằng điều này sẽ mau chóng đưa tới những cuộc thảo luận có kết quả giữa các đại diện của Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa nhằm giải quyết vấn đề giữa hai nước. Trong khi các cuộc thảo luận tiến hành công khai hay bí mật, Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa sẽ không lợi dụng việc ngưng oanh tạc.52

Không may, ngày 20 tháng Tám, máy bay Hoa Kỳ dội bom Hà Nội nặng nề do một thời biểu sắp sẵn từ trước của giới chỉ huy quân sự không liên quan tới bản thông điệp. Hà Nội yêu cầu Aubrac và Markovitch hoăn chuyến đi v́ lư do an ninh. Bản thông điệp được trao cho Mai Văn Bộ ở Paris ngày 25 tháng Tám. Ngày 11 tháng Chín, Hà Nội cho biết “chỉ có thể thảo luận sau khi Mỹ ngưng ném bom và mọi hành động gây chiến với VNDCCH một cách vô điều kiện.” Sau mấy lần tiếp xúc thăm ḍ thêm, Hà Nội cắt đứt liên lạc vào ngày 20 tháng Mười.

Mặc dù đổ lỗi cho Hoa Kỳ làm hỏng sáng kiến PENNSYLVA*-NIA, các đại diện Hà Nội trong cuộc đối thoại 1997 xác nhận thông điệp 25 tháng Tám đă được các nhà lănh đạo Bắc Việt đồng ư dùng làm căn bản thương thuyết song phương. Tuy nhiên, v́ t́nh h́nh VNDCCH lúc đó “rất phức tạp” nên các nỗ lực ḥa đàm phải được hoăn lại. T́nh h́nh phức tạp này gồm ba yếu tố chính: thứ nhất, Hà Nội đang ráo riết chuẩn bị tổng tấn công Tết Mậu Thân; thứ nh́, tướng Nguyễn Chí Thanh, người chủ chốt trong việc hoạch định cuộc Tổng tấn công, bị chết bất ngờ ngày 8 tháng Bảy53; và thứ ba, Hà Nội tin rằng hoăn ḥa đàm tới sau cuộc Tổng tấn công th́ có lợi cho Bắc Việt và MTGPMN hơn. Quả thật, ngày 3 tháng Tư 1968, hơn một tháng sau khi trận Tết Mậu Thân chấm dứt, Hà Nội đồng ư mở cuộc ḥa đàm với Mỹ tại Paris. Thông điệp 25 tháng Tám 1967 được Tổng thống Johnson khai triển trong bài diễn văn ở San Antonio, Texas, ngày 29 tháng Chín, trở thành “công thức San An*tonio,” và được dùng làm căn bản khởi đầu cuộc thương thuyết tại Hội nghị Paris.

Điều đáng tiếc là v́ phong trào phản chiến lên cao và v́ những mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và quốc hội về chính sách đối với Việt Nam, Hoa Kỳ không những đă không khai thác được sự thất bại quân sự và chính trị của Bắc Việt và MTGPMN sau trận Tết Mậu Thân mà c̣n giúp cho đối phương tạo được ưu thế trên bàn hội nghị. Từ nay, Hoa Kỳ chỉ c̣n nghĩ đến việc rút chân ra khỏi “băi lầy Việt Nam” sớm chừng nào hay chừng ấy, bất kể đến tương lai của miền Nam Việt Nam và số phận của hàng triệu quân nhân, công chức và gia đ́nh của họ trước viễn tượng bị ngược đăi và hăm hại dưới chế độ cộng sản. Hiệp định Paris 1973 đáng lẽ phải có điều khoản duy tŕ một lực lượng tối thiểu của Hoa Kỳ để bảo đảm việc thi hành thỏa ước, như trường hợp Triều Tiên. Chương tŕnh “Việt Nam hoá” chiến tranh đáng lẽ đă phải được Hoa Kỳ thực hiện đúng mức, không phải chỉ về mặt quân sự mà cả về dân sự, từ khi có kế hoạch rút quân năm 1968 và cần phải được tiếp tục thêm một thời gian sau khi đă rút hết quân về nước. Phí tổn cho chương tŕnh quan trọng này sẽ chỉ bằng vài phần trăm số tiền 200 tỉ mà Hoa Kỳ đă chi tiêu trong thời gian lâm chiến. Mặc dù điều này không bảo đảm được rằng chính quyền Nguyễn Văn Thiệu có thể chiến thắng được cộng sản, nhưng chắc chắn có thể tránh khỏi t́nh trạng sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà một cách mau chóng và thê thảm như trong những tháng đầu năm 1975 mà ngay cả giới lănh đạo Bắc Việt cũng không ngờ.

Chỉ v́ ḷng chán ghét một cuộc chiến tranh do chính ḿnh chủ động, chán ghét những người lănh đạo Việt Nam thiếu khả năng do chính ḿnh chọn lựa, và đánh giá sai lầm tinh thần yêu nước của những người Việt Nam quốc gia, Hoa Kỳ đă từ bỏ trách nhiệm cam kết với nhân dân miền Nam Việt Nam cũng như với nhân dân Cam-pu-chia và Lào. Sau ba mươi năm liên lụy với hai cuộc chiến tranh ở một miền đất xa xôi và bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội ḥa b́nh, Hoa Kỳ không những bị mang tiếng bại trận mà c̣n phải mất thêm hai mươi năm nữa để t́m cách giải quyết một cuộc khủng hoảng quốc tế về vấn đề tị nạn từ ba nước Đông Dương.
Hanna_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.11749 seconds with 10 queries