View Single Post
Old 04-11-2012   #2
vuitoichat
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
Join Date: Jan 2008
Posts: 148,542
Thanks: 11
Thanked 14,071 Times in 11,234 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 184
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
Default

Tất cả những ǵ liên quan tới chủ quyền, lănh thổ th́ Việt Nam đều đă làm những ǵ có thể làm, những ǵ trong khả năng thực tế mà thế và lực Việt Nam hiện nay có thể làm. Bất kể nó trái ngược với lợi ích kinh tế hay nguyện vọng ḥa b́nh ổn định của Việt Nam trong khu vực. Bất kể nó đi ngược lại với những tuyên bố, khẳng định, quan điểm, lập luận, và lợi ích của Trung Quốc.

Nhưng những ǵ không liên quan tới chủ quyền, bất cứ cái ǵ khác mà không liên quan đến chủ quyền th́ chúng ta đều có thể hy sinh, để bảo vệ chủ quyền và bảo vệ ḥa b́nh, tránh chiến tranh, như những lư do đă phân tích ở trên.

Và bảo vệ ḥa b́nh trong trường hợp này cũng chính là bảo vệ chủ quyền, v́ khi có chiến tranh th́ Việt Nam sẽ mất thêm lănh thổ, lănh hải so với tương quan lực lượng quân sự giữa hai bên lúc này. Và sau chiến tranh nguy cơ bị mất thêm, mất tiếp chủ quyền sẽ c̣n dài dài v́ lúc đó Việt Nam phải xây dựng lại hệ thống quốc pḥng gần như từ đầu, đă cạn vốn.

Cho nên, tất cả những cái ǵ mà một số “c̣m sĩ”, “phán sĩ” bảo rằng tại sao không dám cái này, tại sao phải nín cái kia, tại sao phải nhịn cái nọ, tại sao phải bảo mật cái này, phải không công bố cái kia v.v. Tất cả những hành động đó không phải là xuất phát từ một tinh thần hèn nhát, mà là xuất phát từ một nhận thức rơ ràng về lợi ích quốc gia dân tộc, về yếu tố lợi – hại của vấn đề, xuất phát từ nhiều lư do khách quan nằm trong mục đích duy nhất đó là lợi ích dân tộc và sự mong muốn bảo vệ chủ quyền và ḥa b́nh ổn định trong nước và khu vực. Đó là những cái chính, những cái cao nhất và quan trọng nhất.

Người làm chính trị có thực tâm và thực tài là những người biết phân biệt giữa cái lợi của một người, cái lợi của một nhóm, và cái lợi tổng thể của cái chung, của dân tộc, đất nước. Và chủ quyền và sự ḥa b́nh chính là cái lợi lớn đó.

Lănh đạo có tài và có tâm họ đặt nặng và coi trọng vào cái lợi lớn, cái lợi ích chung đó. Họ đặt t́nh cảm vào cái chung, cái lớn, toàn dân, toàn quốc, nặng hơn cái t́nh cảm cá nhân với 1 người hay 1 nhóm, cái riêng tư, cục bộ. Đặt nặng cái lâu dài hơn cái nhất thời. Lư trí làm chủ cảm tính.

Họ cũng căm tức như chúng ta, nhưng họ có trách nhiệm khác chúng ta, họ có trách nhiệm gánh vác to lớn, họ không có quyền bị nô lệ cảm xúc, bị cảm tính điều khiển hành động, hành động cốt miễn sao hả dạ, hả giận, hả hê, thỏa măn, bất chấp tất cả, rồi sau đó thế nào họ mặc kệ, không chịu trách nhiệm. Nếu vậy th́ đó mới là một chính phủ vô trách nhiệm. Chiến tranh đổ máu, mất thêm chủ quyền lănh hải lănh thổ, th́ ai chịu trách nhiệm? Chính họ chứ c̣n ai!

Cứ “ôn cố tri tân” th́ chúng ta sẽ nh́n ra được rất nhiều điều. Lê Lợi sau khi giành được độc lập, lên ngôi vua, không vinh danh tưởng niệm những người lính chém chết Liễu Thăng (tướng Minh chết trận ở Đại Việt) mà lại c̣n đúc tượng vàng Liễu Thăng bằng tiền thuế của dân để cống cho triều Minh mỗi khi đi sứ (lệ cống người vàng này đến năm 1718 mới hết), xưng thần, tiến cống, xin sắc phong, chấp nhận làm 1 An Nam quốc vương, thần tử trên danh nghĩa, không có căn cước quốc gia chính thức, chấp nhận địa vị phiên thuộc đối với nhà Minh.

Nhưng không có sử gia nào sau này gọi Lê Lợi là hèn, bởi v́ sao, bởi v́ đó không phải là xuất phát từ tinh thần hèn nhát, Lê Lợi đă bảo vệ chủ quyền lănh thổ thực tế cho đất nước, xuất phát từ tinh thần thực tế, từ ư tốt muốn củng cố thái b́nh, muốn chấm dứt hẳn binh đao để xây dựng Đại Việt, xuất phát từ ư thức “tránh voi không hổ mặt nào”, “1 câu nhịn 9 câu lành” v.v. Xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc, chủ quyền xă tắc và sự thái b́nh an lạc của muôn dân.

Ông hiểu rằng nước nó lớn, người nó đông, kinh tế nó mạnh, nó thua ta vài lần th́ cùng lắm quân nó chết, kinh tế nó tổn hại một chút, c̣n dù ta thắng th́ sao? Nước non tan hoang, kinh tế đổ vỡ, phải xây dựng lại từ đầu, đất nước kiệt quệ, sức dân khốn cùng. Rốt cuộc cũng vẫn phải nhượng bộ nó vấn đề này vấn đề kia để mưu cầu thái b́nh để cho quân dân nghỉ ngơi.

Trong thời kỳ chống Trung Quốc (1979-1992), năm 1979 quân ta đánh nhau ác liệt với quân Trung Quốc tại miền Bắc, gây cho chúng tổn thất nặng nề và đánh lui chúng về nước. Nhưng trong thời gian sau đó tới năm 1992 chúng ta vẫn chống Trung Quốc công khai, coi là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”, nhưng cũng không có những tưởng niệm, vinh danh xứng tầm hay nhắc lại, phổ biến thông tin ǵ nhiều về cuộc chiến này trong thời gian đó. Nhiều thông tin về những trận đánh nhỏ sau đó để giành lại từng tấc đất của Tổ quốc, ví dụ trận đánh Lăo Sơn, đều được bảo mật ngay trong thời kỳ chống Trung Quốc đó.

Năm 1988, sau hải chiến Trường Sa, đài báo Việt Nam năm đó cũng không nhắc nhiều. Như vậy có phải là hèn? Ngay cả đánh mà ta c̣n dám đánh th́ sao có thể gọi là hèn? Đánh c̣n dám đánh, cầm súng bắn thẳng vào lính Tàu mà c̣n dám th́ sao không dám nói, không dám nhắc? Đó, vấn đề là ở chỗ đó, đó không phải là hèn, mà đó là v́ chúng ta không muốn leo thang chiến tranh thành một cuộc chiến quy mô lớn, chúng ta cần ổn định chính trị xă hội để xây dựng và bảo vệ nước nhà.

Trong tất cả những hành động đó, có thể thấy rơ ràng là: Xưa nay Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, v́ chủ quyền th́ khi cần đánh chúng ta vẫn phải đánh, dù những vùng đất mà Trung Quốc vẫn c̣n cố đóng giữ sau năm 1979 không có bao nhiêu giá trị địa lư, đất đai, kinh tế, quân sự, nhưng v́ nó là đất tổ tiên, nó là chủ quyền, cho nên ta vẫn đánh để giành lại.

Ta không hy sinh chủ quyền chỉ v́ muốn ḥa b́nh. Ta không dùng chủ quyền để đánh đổi ḥa b́nh. Nên ta đă đồng thời vừa đánh để giành lại chủ quyền, vừa bảo mật thông tin để tránh biến nó thành 1 làn sóng phẫn nộ, tạo điều kiện cho Mỹ và phản động khoét sâu và kích động leo thang lên thành 1 cuộc chiến quy mô.

Những năm tháng chống Trung Quốc trong thời gian 1979-1992 đó đă cho chúng ta thấy rất rơ sự nhất quán trước sau như 1 về đường lối chủ trương của Đảng. Đó là 1. Chủ quyền, 2. Ḥa b́nh. Chúng ta vừa đánh để giành chủ quyền vừa t́m cách giữ cho nó trong sự kiểm soát, không để bất kỳ thế lực thứ 3 nào lợi dụng, khoét sâu, kích động để leo thang cuộc chiến, cố gắng văn hồi ḥa b́nh, cố gắng tránh xung đột quy mô lớn.

Trong những ngày cuối tháng 2 trong cuộc chiến chống Trung Quốc năm 1979, Quân đội Nhân dân Việt Nam c̣n dám đánh sâu vào lănh thổ Trung Quốc, đánh thẳng vào hai thị trấn Ninh Minh thuộc tỉnh Quảng Tây và Malipo thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Đó là lần thứ 2 trong lịch sử Việt Nam mà một quân đội Việt Nam đánh vào lănh thổ Trung Quốc, lần thứ nhất là cuộc “tấn công để pḥng thủ” của Lư Thường Kiệt. Lư Thường Kiệt và Tôn Đản đánh vào Trung Quốc là để tiêu diệt kho hậu cần mà giặc Tống chuẩn bị để tiến đánh Đại Việt. Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào Trung Quốc là để trả đũa và răn đe. Sự việc này nhiều tài liệu quốc tế đă ghi nhận, nhưng Việt Nam lại không tuyên truyền nhiều về nó v́ những phức tạp ngoại giao và chính trị, nhưng ngay cả việc đánh vào đất Tàu mà c̣n dám th́ chúng ta nên tự hiểu là Việt Nam có hèn hay không.

Ngay sau năm 1975 th́ QĐNDViệt Nam và Khmer Đỏ đă giao chiến ở biên giới Tây Nam. Quân ta đă từng đánh sâu vào lănh thổ của chúng để răn đe. Nhưng có nhiều thông tin lúc đó ta cũng đă tạm bảo mật. Không lẽ vậy có nghĩa là ta hèn trước Pol Pot? Cái ǵ cũng có lư do của nó. Nhưng sự thật cho thấy là ngay cả việc đánh vào đất địch mà ta c̣n dám, lật đổ kẻ thù ta c̣n dám, th́ chắc chắn không phải là hèn.

Ngày nay cũng vậy, một mặt chúng ta tích cực mua sắm và sản xuất vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, liên tục và thường xuyên tuyên bố phản đối những hành động của Trung Quốc và khẳng định chủ quyền của Việt Nam, để giữ cho những vùng tạm chiếm vẫn là “vùng tranh chấp” theo pháp lư quốc tế (V́ chủ quyền). Mặt khác chúng ta cố gắng duy tŕ hiện trạng, giữ ǵn ḥa b́nh, không để bất cứ sự kiện ǵ có thể đưa đến leo thang, có thể liên kết với các sự kiện khác trở thành leo thang xung đột rồi bùng nổ chiến tranh (V́ ḥa b́nh).

Và bảo vệ ḥa b́nh trong thời điểm hiện nay cũng chính là bảo vệ chủ quyền (v́ tương quan hiện nay mà đánh th́ sẽ mất thêm). Cho thấy sự nhất quán của Việt Nam từ trước tới nay.

Đảng và Nhà nước Việt Nam v́ lợi ích đất nước, v́ chủ quyền và ḥa b́nh, quyết tâm nhất quán trước sau như 1, đó là điều chắc chắn. Giặc kéo tới xâm lược th́ ta sẽ giáng trả để trực tiếp bảo vệ chủ quyền đất nước. Giặc chưa kéo tới xâm lược th́ ta mua sắm, sản xuất mới, hiện đại hóa quân đội, tập trận để răn đe giặc và chuẩn bị cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước.

Và thường xuyên tuyên bố chủ quyền để địch không thể hợp thức hóa, hợp pháp hóa, chính danh hóa, biến vùng tranh chấp thành vùng sở hữu của chúng. Và đồng thời ngăn ngừa những mầm mống có thể gây leo thang xung đột mà không liên quan đến chủ quyền, nhằm bảo vệ ḥa b́nh. Ví dụ, mọi sự tuyên bố chủ quyền có giá trị với luật pháp quốc tế hay các hành động hành xử chủ quyền, tập trận, nâng cấp, mua sắm, chế tạo vũ khí, hiện đại hóa hải quân và không quân tuy rằng sẽ gây leo thang xung đột nhưng nó vẫn cần làm v́ nó liên quan trực tiếp với chủ quyền, liên quan tới mục tiêu bảo vệ chủ quyền, mà ta đặt chủ quyền ưu tiên lên trên mong muốn ḥa b́nh.

Nhưng đồng thời, những vấn đề không liên quan tới chủ quyền th́ ta có thể hy sinh, tạm gác lại, tạm khép lại v.v. để giữ ǵn mục tiêu thứ hai, đó là ḥa b́nh và ổn định, và cũng là để bảo vệ mục tiêu thứ nhất, đó là chủ quyền và lănh thổ – lănh hải, v́ một khi chiến tranh xảy ra, với tương quan lực lượng hai bên, Việt Nam sẽ mất thêm chủ quyền và sau đó sẽ tiếp tục đối phó với nguy cơ mất thêm chủ quyền, sẽ c̣n mất nhiều thêm và dễ dàng mất thêm chủ quyền dài dài, c̣n phải nhượng bộ nhiều hơn, v́ sau chiến tranh th́ vũ khí của chúng ta sẽ gần như sạch vốn, hay ít nhất là yếu kém đi rất nhiều, và công cuộc hiện đại hóa sẽ phải xây lại từ đầu. Trong quan hệ quốc tế cái tư thế và thực lực yếu – mạnh là yếu tố quyết định, xưa nay đều là vậy, thế yếu với thế mạnh khác nhau xa lắm, không thể duy ư chí cái ǵ cũng coi là như nhau, ngang nhau, cái ǵ cũng có thể làm được trong một thế yếu, lực yếu, không thể ngây thơ coi mạnh – yếu như nhau và bên yếu có thể hành xử như bên mạnh.

Nh́n lại thời kỳ chống Trung Quốc, nhiều người chê trách ông Lê Duẩn quá cứng rắn nên mới để cho chiến tranh xảy ra, chứ nếu là Bác Hồ th́ đă ngoại giao mềm dẻo hơn, kiềm chế hơn, đă giữ được không để leo thang xung đột thành chiến tranh. Ngày nay các lănh đạo đă rút kinh nghiệm thời Lê Duẩn nên đang làm khác đi, th́ cũng lại bị chê trách.

Nếu nh́n lại lịch sử, ôn cố tri tân, th́ chúng ta thấy Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc không phải v́ Việt Nam và Trung Quốc cùng ư thức hệ, cùng phe, mà vấn đề này nằm trong một sách lược chung, một chiến lược đối Trung Quốc xuyên suốt từ lịch sử trung đại cho đến nay. Đó là sách lược mềm dẻo, nhẫn nhịn để “cận giao” (ḥa gần), có thể nhượng bộ nhiều thứ, xin sắc phong, chấp nhận làm một “thần tử” trên danh nghĩa, thậm chí dùng cả tiền thuế của dân để triều cống v.v. miễn sao giữ được chủ quyền, độc lập và giữ được thái b́nh, yên ổn. Thời phong kiến nào cũng vậy, kể cả những triều đại, nhà nước anh hùng nhất trong lịch sử Việt Nam.

Việt Nam nhẫn nhịn thận trọng trước Trung Quốc không phải v́ có cùng ư thức hệ chính trị, hệ tư tưởng chính trị, mà là v́ Trung Quốc là một nước mạnh, có sức mạnh kinh tế và quân sự mạnh hơn gấp bội, hiếu chiến, và có vị trí địa lư sát bên, đúng nghĩa “núi liền núi – sông liền sông”, và đă có tiền lệ hung hăng gây chiến, lấn chiếm đất đai, xung đột quân sự đẫm máu với nhiều láng giềng, trong đó có Việt Nam. Nói theo kiểu dân dă th́ Trung Quốc là một “gă hàng xóm khổng lồ” của Việt Nam.

Trong Thời đại Hồ Chí Minh những ngày đầu độc lập, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương lănh đạo cũng đă nhượng bộ Tàu Tưởng rất nhiều vấn đề (Tàu Tưởng với ta khác ư thức hệ). Cụ thể:

- Khi “Hoa quân nhập Việt”, đội quân vô kỷ luật của Trung Hoa Quốc dân đảng cướp phá bà con, cướp gà cướp vịt để ăn nhậu, nhũng nhiễu lương dân. Chính phủ ta lúc đó vẫn ra lệnh cho các lực lượng Dân quân – Tự vệ, du kích địa phương phải đề cao cảnh giác, kiểm soát chúng (với danh nghĩa “bảo vệ” cho chúng), nhưng không được nổ súng trước. Phải kỷ luật tối đa.

- Sau khi trên 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc kéo vào Hà Nội và hoàn thành việc đóng quân ở nhiều vùng trên đất Bắc, th́ chúng càng tăng cường lộng hành, tác quái, vô pháp vô thiên. Quân lính ô hợp của Quốc dân đảng cướp phá khắp nơi, bắt gà bắt vịt của dân đem đi nhậu nhẹt. Bọn tay sai người Việt th́ dẫn quân Tàu đi lùng giết những người mà chúng gọi là “cộng sản”, “theo Việt Minh”.

Được hơn 20 vạn quân Tàu chống lưng, các đảng phái phản động tác oai tác quái, dùng xe của Tàu Tưởng chạy khắp đường phố Hà thành bắc loa chửi bới Việt Minh và kể tội chủ tịch Hồ Chí Minh, hô hào tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa 1. Các đảng phái theo Tàu liên tục dùng báo chí tuyên truyền đả kích Việt Minh: “Trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản… Chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được, tổ chức các cuộc “tuần hành”, bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử.

Chúng tổ chức bắt cóc, ám sát ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh (ví dụ ông Trần Đ́nh Long) hay thủ tiêu những cá nhân, tổ chức có cảm t́nh với chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh lănh đạo. Trong ngày tổng tuyển cử Quốc hội lịch sử năm 1946, bọn tay sai Tàu Tưởng mang súng tiểu liên đến Ngũ Xă ngăn không cho đặt ḥm phiếu, cấm người dân treo cờ đỏ sao vàng. Người dân Ngũ Xă rủ nhau kéo sang nơi khác bỏ phiếu.
vuitoichat_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10776 seconds with 10 queries