Yên Bái thường lạnh, nhất là dịp gần cuối năm khi bắt đầu có mưa phùn.
Có những buổi sáng, sương đóng băng trắng xóa trên ngọn cỏ trước sân.
Buổi tối anh em trong tổ điều trị chúng tôi thường đốt một đống lửa nhỏ, ngồi quây quần chuyện vãn với nhau cho đỡ lạnh và đỡ nhớ nhà. Nghe những cơn gió rít lê thê bên ngoài mà buồn não nuột.
https://www.youtube.com/watch?v=jcFl-YhH3IA
Những buổi tối như thế chúng tôi đều mời ông tham dự.
Chúng tôi mời ông chỉ vì ai cũng biết và kính trọng ông, nhưng cũng vì một lý do khác :
Ông nói chuyện rất hay, lưu loát và mạch lạc. Ở ông là cả một kho kiến thức về sử.
Ông kể cho chúng tôi đủ thứ chuyện, chuyện Gia Long đào mộ Quang Trung rồi đem sọ Quang Trung giam vào ngục thất, Gia Long bó con nữ tướng Bùi Thị Xuân rồi đốt như ngọn đuốc trước mắt bà, riêng bà thì bị voi dày.
Cảnh Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế ở Phú Xuân rồi kéo quân ra Bắc đánh quân Thanh...
https://www.youtube.com/watch?v=Z3X6VQ40sOg
Có lúc ông đem chuyện Kiều ra bàn, ông còn làm cả thơ vịnh Kiều đọc cho chúng tôi nghe.
Chúng tôi ngồi nghe ông nói quên cả thời gian và lạnh.
Trại cấm chúng tôi gọi nhau bằng cấp bậc,
nhưng chúng tôi đã có cách, đại úy gọi là anh Ba, đại tá như ông chúng tôi gọi là anh Sáu.
Nhưng cách gọi như thế chỉ trước mặt cán bộ, khi ngồi chung với ông bên bếp lửa chúng tôi gọi ông là Bố và xưng Con.
Hôm nào chúng tôi cải thiện được được ít lá chè tươi và nấu được bát nước chè xanh chia nhau thì không khí càng đậm đà.
Có khi chúng tôi xoay được thứ
quý hiếm nhất trong tù là khoai mì, nướng vào lửa và mời ông.
Ông bóc từng miếng mì cháy bỏ vào miệng nhai ngon lành. Tro và những vết lọ cháy dính cả lên má và môi ông, ông cũng chẳng buồn lau.
Nhìn ông ăn từng mẩu mì cháy mà tôi chạnh lòng. Đời ông đã từng ăn bao nhiêu là yến tiệc sang trọng !
Tranh minh họa một hình phạt tra tấn trong trại cải tạo.
Nguồn: San Jose Mercury News / Ngày 11/10/1987 / Anna Mallett / Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ (Đại học Công nghệ Texas).
Lúc tôi chuyển trại ông vẫn còn ở lại bệnh xá.
Sau này khi đã sang đến Úc tôi mới gặp được một người bạn tù với tôi ở Yên Bái cho biết sau đó ông được chuyển lên Vĩnh Phú và chết rất thê thảm trong tù.
https://www.youtube.com/watch?v=yI0ddurlH-c
Từ trong Nam chuyển ra Bắc, Bệnh xá Yên Bái chỉ là trạm đầu tiên của Đại Tá Phạm Văn Sơn. Có lẽ nơi đây ông đã có những ngày tương đối an thân vì trại tù dưới sự kiểm soát của bộ đội dù sao cũng vẫn chưa đến nỗi quá khắc nghiệt, vả lại chúng tôi biết ông và kính phục ông.
Nhưng khi ông được chuyển về trại Tân Lập, Vĩnh Phú,
dưới sự quản lý của công an ông mới thực sự sống trong đáy địa ngục của lao tù CS.
https://www.youtube.com/watch?v=x_-4ItzZ8ME
Đại Tá Phạm Văn Sơn sinh ngày 15/08/1915 tại Hà Đông cũ, nay thuộc thành phố Hà Nội.
Ông mất ngày 06/12/1978 tại trại tù Tân Lập, Vĩnh Phú.
Ông là một học giả uyên thâm và là một sử gia nổi tiếng. Những tác phẩm chình và đồ sộ của ông gồm :
- Việt Sử Tân Biên (7 cuốn)
- Bộ Quân sử VNCH ghi lại tất cả các trận đánh trên chiến trường miền Nam.
Ngoài ra ông còn viết :
- Việt Nam tranh đấu sử
- Vỹ tuyến 17 (ký tên Dương Châu)
- Việt sử toàn thư
- Cuộc Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa của Việt-Cộng Mậu Thân 1968, (viết cùng với Lê Văn Dương), 1968
- Việt Nam hiện đại sử yếu.
Chức vụ cuối cùng của ông là :
- Đại Tá, Trưởng Ban Quân Sử, Bộ Tổng Tham Mưu.
Đại Tá Phạm Văn Sơn đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn :
- TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM.
Trước cường quyền và độc ác, Đại Tá không khiếp sợ, không van xin, ngẩng cao đầu mà nói với CS :
- " Các ông làm như thế là lưu xú uế lại cho muôn đời sau " , dù biết rằng lời nói khí khái của mình sẽ đưa mình vào kỷ luật cùm nhà đá, đó là giữ vững
DANH DỰ .
https://www.youtube.com/watch?v=4j7bO-NFlSg
Ông tuyệt thực cho đến chết và viết thư cho ban chỉ huy trại yêu cầu họ đối xử nhân đạo hơn với tù nhân, đó là
TRÁCH NHIỆM của một sĩ quan đối với các chiến hữu của mình.
Tôi ngả mũ kính phục nhân cách tuyệt vời của một quân nhân mẫu mực như ông.
" Anh hùng tử, khí hùng nào tử"
BS Phạm Hữu Phước
***