Liên tỉnh lộ 7B từ Pleiku xuống Tuy Ḥa. (H́nh: Tài liệu)

KẾT CỤC BI THẢM
Về cuộc di tản hỗn độn và đầy chết chóc của quân và dân Vùng 2 Chiến Thuật trên liên tỉnh lộ 7B từ Pleiku về Tuy Ḥa, nhà văn quân đội Phan Nhật Nam, trong bài viết nhan đề
“44 Năm Sau, Nh́n Lại Mối Đau” đăng trân nhật báo Người Việt, kể lại:
- “Súng nổ… 105, 155 pháo binh, XM72 của phía Cộng Ḥa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 Cộng Sản, tất cả cùng ḥa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh nắng…
Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản không sai trật một viên đạn.
Lính c̣n rơ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nh́n lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang.
Xác người tung lên theo đất bay bay…”
Bà mẹ mất con tại Tuy Ḥa. Ngày 25 – 3 – 1975
Theo “Cuộc Di Tản Đầy Máu và Nước Mắt” của Mũ Xanh Lưu Văn Phúc trên trang mạng aihuubienhoa.com, chỉ có xấp xỉ
60,000 người dân đến đích, trong khi hai phần ba trong số người dân di tản,
tức hơn 100,000 người, bị chết hoặc bị thương phải bỏ lại dọc đường.
Về phía quân đội, gồm khoảng
20,000 quân tiếp vận và yểm tợ,
chỉ c̣n 5,000 người đến nơi.
Sáu tiểu đoàn Biệt Động Quân, gồm 7,000 người,
chỉ c̣n 900 người đến tŕnh diện Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 2 ở Nha Trang.
Theo
“The World Almanac of The Viet Nam War,” các kho đạn dược và quân nhu tại Kon Tum và Pleiku đă bị bỏ ngỏ, và tất cả quân trang, quân dụng cũng như vũ khí trị giá khoảng $253 triệu đều lọt vào tay Cộng Quân.
Cuộc lui binh của Quân Đoàn 2 trên liên tỉnh lộ 7B được coi là một cuộc lui binh bi thảm nhất trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Liên tỉnh lộ 7B từ đó được mệnh danh là
“Hành Lang Máu,” con đường đầy nước mắt và xương máu của quân và dân Quân Khu 2 trong suốt chín ngày đêm từ Pleiku xuống Tuy Ḥa.
LỊCH SỬ LÊN TIẾNG
Ngay sau khi Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào tay Cộng Sản, vào ngày 30 Tháng Tư, 1975, nhiều người Việt Nam trong và ngoài nước và dư luận tại nhiều nơi trên thế giới đă cho rằng :
Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về việc Sài G̣n sụp đổ, bởi v́ kế hoạch rút bỏ Cao Nguyên Trung Phần – và sau đó là Quân Đoàn 1 tại miền Bắc Trung Phần – của vị tổng tư lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă thất bại thê thảm.
Ngày 26 tháng 3 năm 1975 tại Vạn Ninh, Ninh Ḥa.
Những người dân chỉ có vài món đồ trên lưng , tức tưởi dẫn gia đ́nh trốn chạy cộng sản
Sau biến cố đau thương này của đất nước, [b]
việc giải mă các bí ẩn lịch sử ở hai bên bờ Thái B́nh Dương dần dần cho thấy cái thế tất yếu của lịch sử
không cho phép Việt Nam Cộng Ḥa tồn tại lâu hơn cột mốc 1975 , cho dù ông Thiệu và các tướng lănh trong Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, kể cả Đại Tướng Cao Văn Viên và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,
có thành công đưa được chủ lực quân của Quân Đoàn 2 an toàn về Nha Trang tại Vùng 2 Chiến Thuật hay Sài G̣n tại Vùng 3 Chiến Thuật.
Cụ thể là, để duy tŕ một cuộc chiến tranh chống du kích với quy mô lớn lao như hồi thập niên 1970, chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa cần phải có ít nhất, tức tối thiểu, là
$1 tỉ kinh viện và quân viện từ bên ngoài, trong khi kinh viện và quân viện của Mỹ cho năm 1975 đă bị Quốc Hội Hoa Kỳ
cắt giảm từ mức $700 triệu xuống chỉ c̣n $300 triệu, và rồi sẽ bị cắt đứt hẳn nếu chiến tranh c̣n kéo dài sang năm sau.
https://www.youtube.com/watch?v=JUoGACxIlr8
Dẫu sao, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, và luôn cả Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, cùng với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Vùng 2 Chiến Thuật,
đều đáng bị chê trách v́ đă tổ chức một cuộc lui binh tồi tệ nhất trong lịch sử Chiến Tranh Việt Nam.
Thật ra, các thông tin và tài liệu có được trước và sau Tháng Tư, 1975, cho thấy ông Thiệu và Tướng Viên cùng với Trung Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Thiệu, đă từng thảo luận về một kế hoạch
“co cụm” lănh thổ – gọi là chiến lược
“nhẹ đầu, nặng đuôi” – để Việt Nam Cộng Ḥa có thể đủ ngân sách mà tồn tại thêm một thời gian từ ba đến năm năm nữa.
Bởi v́ chính phủ VNCH đă
“đánh hơi” thấy được chuyện Quốc Hội Mỹ thế nào cũng cắt giảm hoặc chấm dứt kinh viện và quân viện cho miền Nam Việt Nam một khi quân tác chiến Mỹ và các tù binh chiến tranh của họ đă an toàn hồi hương sau khi Hiệp Định Paris được kư kết hồi năm 1973.
https://www.youtube.com/watch?v=7yGZYjRv64U
https://vietnamnet.vn/su-giup-do-cua...c-2391788.html
Theo kế hoạch dự trù này, chậm nhất là
hai năm sau ngày kư Hiệp Định Paris, chính phủ và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa sẽ phải tự ư rút bỏ Cao Nguyên Trung Phần và vùng duyên hải Bắc Trung Phần, tức Quân Khu 1 và Quân Khu 2, để tập trung về giữ phần lănh thổ c̣n lại của miền Nam Việt Nam,
tức là chỉ bao gồm các tỉnh thuộc Vùng 3 và Vùng 4 Chiến Thuật, cụ thể là từ Qui Nhơn hay Nha Trang tới Cà Mau mà thôi, nhằm tiết kiệm tiền bạc và thu nhỏ phạm vi pḥng thủ của quân đội, với hy vọng Việt Nam Cộng Ḥa sẽ có được một cơ may nào đó giúp ḿnh tiếp tục tồn tại, như khả năng có tiền nhờ khai thác được dầu hỏa ngoài Biển Đông (Biển Nam Hoa) chẳng hạn.
Nhưng cả Tổng Thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH cứ chần chờ măi mà không cho thực hiện chiến lược
“nhẹ đầu, nặng đuôi” nói trên, có lẽ cả hai vị vẫn c̣n chút hy vọng rằng sẽ có những biến chuyển chính trị thuận lợi hơn tại Mỹ khi đảng Cộng Ḥa giành lại được quyền kiểm soát Quốc Hội từ tay đảng Dân Chủ.
Họ thừa biết rằng đảng Cộng Ḥa có khuynh hướng diều hâu nên không dễ ǵ chịu thua phe Cộng Sản tại Việt Nam, và rằng Quốc Hội Mỹ lúc đó sẽ có thể tiếp tục, không nhiều th́ ít, tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Ḥa để giữ vững miền Nam Việt Nam.
Một lư do khác, có phần thầm kín hơn, là Tổng Thống Thiệu đă bị kẹt cứng v́ lời thề “không nhường đất cho Cộng Sản”
trong chủ trương “ 4 Không ” vốn là quốc sách trước và sau khi Việt Nam Cộng Ḥa đặt bút kư vào Hiệp Định Paris 1973.
https://www.youtube.com/watch?v=tNxpD1VanGU
Thế rồi, khi Cộng Sản Bắc Việt khởi sự cuộc tấn công sau cùng để thôn tính Miền Nam Việt Nam qua việc đánh chiếm Ban Mê Thuột (ngày 12 Tháng Ba, 1975), Tổng Thống Thiệu và Tướng Viên mới gấp rút thực hiện kế hoạch
“co cụm” đó, nhưng mọi sự đă quá trễ đi rồi.
Hơn nữa, các học viện quân sự lớn trên thế giới (trong đó có cả Trường Bộ Binh Thủ Đức và Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa) đều cho rằng
“ lui binh ” là một chiến thuật hết sức khó thực hiện và rất hiếm khi thành công nếu không có sự chuẩn bị chu đáo.
Vann Phan
****