![]() |
Việc nh́n nhận của người Việt về sự thống trị của người Trung Hoa trong quá khứ
1 Attachment(s)
Một độc giả có hỏi : Ư niệm cho rằng thời gian một ngàn năm khi đồng bằng sông Hồng là mộ bộ phận của các đế chế “Trung Hoa” khác nhau có thể được nh́n nhận như là cái ǵ đó đại loại như “một ngàn năm bị người Trung Hoa thống trị” [xuất hiện] ở đâu ? Đó là một câu hỏi thú vị bởi v́ trong các văn bản lịch sử của người Việt từ trước thế kỷ 20, thời kỳ này đơn giản được gọi là thời kỳ “Bắc thuộc”, một từ không có những ư nghĩa như là “thống trị” hay “thực dân” – những nghĩa sẽ được gắn với giai đoạn đó ở thế kỷ XX.
Tôi vẫn chưa chắc chắn, nhưng tôi thấy quá khứ được tŕnh bày theo cách đó trong một cuốn sách xuất bản năm 1910 có tên Bận rộn ở An Nam (On & off duty in Annam) của Gabrielle M.Vassal, bà vợ người Anh của một bác sĩ quân y người Pháp ở Đông Dương từ 1907 đến 1910. Khó để xác quyết Vassal đă lấy tri thức về lịch sử Việt Nam từ đâu. Có những khía cạnh trong đó ngày nay đă không c̣n được tin nữa, nhưng là điều đă được nhiều tác giả người Pháp khác nhau viết cho đến lúc bấy giờ – chẳng hạn thuyết cho rằng người Việt là bộ phận của một chủng tộc có dấu hiệu đặc trưng là ngón chân cái choăi ra (Giao Chỉ), và ư tưởng cho rằng đă có hai nhóm dân ở đồng bằng sông Hồng vào thời cổ đại cạnh tranh với nhau (một số tác giả người Pháp đă diễn giải câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh theo cách này). “Người An Nam là hậu duệ của người nước Giao Chỉ – từng được thiết lập ở miền Nam Trung Quốc. Giao Chỉ có nghĩa là ngón chân cái choăi ra ; đây là một nét riêng biệt mà người An Nam chưa đánh mất, và cái giúp họ sử dụng ngón chân cái của họ theo một cung cách khéo léo nhất. Nước Giao Chỉ có thể được lần ngược tới thời cổ đại xa xôi nhất. Gần 3000 năm trước thời đại chúng ta, họ đă chiếm cứ Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Kỳ. Một hoàng tử Trung Hoa đă gửi con trai ḿnh là Lộc Tục xuống cai trị Giao Chỉ. Đó là gốc gác của triều Hồng Bàng, triều đại cai trị nước Quỷ (những con quỷ ngoại lai) đó khoảng hơn 2000 năm. Chỉ đến thế kỉ III trước Công lịch chúng ta mới có thể thấy rơ thời đại truyền thuyết đó. Lúc bấy giờ những cuộc đấu đá nội bộ đă chia nước Giao Chỉ ra làm hai phần : nước Văn Lang cho những người ở đồng bằng và hạ du, nước Thái cho những người ở miền đồi núi. Trung Quốc nắm cơ hội đó thiết lập một triều đại mới của người Trung Hoa. Vào năm [nào đó] trước Công lịch, nó đă xâm chiếm nước này và giữ quyền cai trị cho đến năm 968 sau Công lịch. Người An Nam v́ vậy chịu sự cai trị của các quan lại Trung Quốc, những người giáo đưa họ đến với nền văn minh Trung Hoa trong hơn một thiên niên kỉ. Văn học và mă luân lí của Khổng Tử đă định h́nh rơ tư tưởng và tôn giáo của người An Nam. Việc tinh thần dân tộc của họ vẫn sống được khẳng định từ thời này qua thời khác trong những cuộc khởi nghĩa liên tục và những cuộc nổi dậy anh hùng chống lại những kẻ xâm lược họ. Từ năm 39 đến 36 trước Công lịch, một phụ nữ An Nam, sau khi tuyên bố độc lập cho nước ḿnh, đă đánh bật người Trung Quốc ra [khỏi An Nam] một thời gian, và cai trị dưới vương hiệu Trưng Vương. Nhưng t́nh h́nh không c̣n như vậy ở giữa thế kỉ X khi người nước ngoài bị đánh đuổi và triều đại dân tộc đầu tiên được thiết lập” (5-6). “Tự cầm đầu một đội quân 260.000 người, [Lê Thánh Tông] tấn công vào kinh đô của người Chăm và tiêu diệt họ. Trong 15 thế kỉ, người Chăm đă định cư ở một phần lớn của nước An Nam. Với tư cách là đại diện của nền văn minh Hindoo, họ đă để lại những công tŕnh đáng chú ư gợi nhớ quá khứ huy hoàng của ḿnh. Chỉ một số ít người sống sót hiện vẫn ở đó. Sự huỷ diệt nhanh chóng một chủng tộc văn minh và mạnh mẽ này của người An Nam là một vấn đề bắt nguồn từ lợi ích tối thượng”. Người Mois, mặt khác, đă sống sót qua những nhiễu loạn và những cuộc cách mạng trong lịch sử của đất nước. Dạt về phía những vùng rừng núi xa xôi của An Nam, họ đă giữ lại được những tập tục thời nguyên thuỷ của ḿnh. Một bộ sưu tập không thống nhất những bộ tộc khốn khổ có thể được t́m thấy ở đó, những người đă dâng hiến tất cả cho t́nh yêu tự do của ḿnh. Ở tất cả các sự kiện, họ đă thành công trong trong việc chiếm giữ những vùng nội địa mênh mông, thứ tài sản mà những láng giềng của họ thấy không đáng chiếm giữ khi tranh chấp với họ” (7). “Nỗi lo sợ về một cuộc xâm chiếm của người châu Á không phải là một con ngáo ộp cũng không phải là một sự mê tín. Nó là một nguy cơ đe doạ và hiện hữu. Kỉ nguyên mới của Trung Quốc có nghĩa là kỉ nguyên của sự di cư một phần trong hàng triệu người đông đúc của nó. Tổ ong Mông Cổ tụ thành bầy. Chúng ta phải đuổi họ khỏi Mỹ hoặc họ sẽ tàn phá nền văn minh của chúng ta như những con châu chấu tàn phá mùa màng” (Hawaii và người Trung Quốc, The San Francisco Call, October 24, 1897, page 6). “Người Trung Quốc cứ tự nhiên rất nhiều ở Đông Dương, sau nhiều thế kỉ họ giành được một vị trí hiếm có ở đây, và được gọi bằng một danh hiệu tôn trọng là “cai-chu” (các chú) (*). Trong tương quan với người An Nam, họ, như lợi thế họ có được, đều tỏ ra vượt trội một kín đáo hoặc xấc láo. Trừ ở Bắc Kỳ, họ nắm giữa toàn bộ hoạt động buôn bán nhỏ. Họ là những chủ hiệu vô địch, hiến ḿnh cho công việc, thong minh, trung thực, và rất là đoàn kết với nhau. Họ không cày cấy ở đồng lúa, nhưng họ giữ độc quyền buôn bán gạo, xây dựng các nhà máy để xát lúa, thuê tàu để xuất khẩu nó… Họ có lẽ là những kẻ thực dân tốt nhất ở Đông Dương, và là những người kiếm được lợi lớn nhất. Có thể không có đ̣i hỏi phải đuổi họ trong hiện tại như người Mỹ đă làm ở Philippines (Đạo luật cấm người Trung Quốc). Người Pháp chỉ đơn thuần hạn chế sự nhập cư của người Trung Quốc bằng cách tăng các loại thuế về the Celestials, để tái thiết lập lại sự hài hoà để ủng hộ người An Nam” (3). Cái nh́n của Vassal dĩ nhiên chỉ là một cái nh́n. Tuy nhiên, tôi nghĩ dễ dàng nhận ra việc làm thế nào bà có xu hướng nh́n nhận quá khứ theo cách đó. Bà đang sống trong một thế giới mà những vùng đất đang bị xâm chiếm và thực dân, và bà sống ba năm ở một thuộc địa của Pháp, nơi mà bà bị vây quanh bởi những chứng cứ cho thấy sự thống trị về kinh tế của người Trung Quốc. Thêm vào đó là một thực tế Tiến hóa luận xă hội là một thế giới quan phổ biến lúc bấy giờ, và tôi nghĩ dễ hiểu được việc những người như Vassal sẽ nh́n sự thống trị của người Trung Quốc trong quá khứ của Việt Nam như thế nào. Về việc người Việt Nam rốt cuộc đi đến nh́n nhận sự thống trị của người Trung Quốc trong quá khứ như thế nào, tôi vẫn chưa chắc chắn, khi mà một năm sau khi Vassal xuất bản cuốn sách của ḿnh, học giả Việt Nam Ngô Giáp Đậu đă viết về vai tṛ của người Trung Quốc trong lịch sử Việt Nam rất khác. ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ Chú thích :(*) Độc giả Riroriro cho biết : “Cai-chu”, [hiểu là] chú có lẽ là bị hiểu nhầm – “cai-chu” đọc Nôm là “cách chú”, c̣n Hán-Việt là “khách trú” ( khách [客] trú [駐] ) có nghĩa là “người khách tạm thời”, chứ không có ư tôn trọng ǵ cả ; “trú” đồng âm với “chú” (nghĩa Nôm là “chú”). vk |
| All times are GMT. The time now is 07:43. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.