![]() |
Người thầy tội nghiệp và nỗi đau hai chữ “lưu dung”
1 Attachment(s)
Những người thầy không có “ngày của ḿnh”
Những năm tháng trước 1975, tôi chưa từng nghe ai nói đến “Ngày Nhà Giáo Việt Nam”. Không băng rôn, không diễn văn, không bài hát ngợi ca “kỹ sư tâm hồn”, không bụi phấn rơi rơi trên mái tóc thầy trong lời ca sướt mướt. Thế nhưng, lạ thay, học tṛ chúng tôi lại mang ơn và kính trọng thầy cô suốt cả đời, từ cô giáo “vỡ ḷng”, thầy tiểu học, trung học cho tới giảng đường đại học. Không hoa, không phong b́, chỉ là cái cúi đầu, cái “dạ thưa thầy” rất tự nhiên, vậy mà mối dây giữa tṛ và thầy bền chắc hơn mọi lời tuyên dương rầm rộ sau này. Nghề thầy thời VNCH: sống được, sống tử tế Mức sống của thầy cô dưới thời Việt Nam Cộng Ḥa không giàu sang nhưng đàng hoàng, tối thiểu cũng ngang hoặc nhỉnh hơn mức trung b́nh cư dân thị xă. Giáo viên tiểu học, trung học đều có ngạch trật công chức rơ ràng; “giáo sư trung học đệ nhị cấp” lương chỉ số 470, cao hơn cả kỹ sư Phú Thọ chỉ số 450. Sau vài tháng lănh lương, một thầy giáo trẻ có thể mua chiếc Honda 67 bóng loáng, vợ ở nhà làm “nội trợ” đúng nghĩa. Ở một thị xă nhỏ như Hội An, có con gái gả được cho sinh viên Đại học Sư phạm mới ra trường là chuyện rất “vinh dự”, cả xóm nể. Thầy cô thời ấy không phải buôn bán thêm, không phải dạy kèm đến kiệt sức, cũng không phải đứng trước lớp mà nơm nớp lo tiền nhà, tiền sữa con. Họ dạy học v́ đó là một thiên chức, chứ không phải v́ “nghề đă lỡ chọn”. Thầy dạy chữ, không dạy thù hận Trường lớp trước 1975 không phải mái trường “xă hội chủ nghĩa”, không đội, đoàn, chi bộ chằng chịt. Thầy giáo không phải “cán bộ tuyên truyền”; họ dạy văn, dạy toán, dạy sử chứ không dạy khẩu hiệu. Trong sách giáo khoa không có loại bài toán kiểu “đồn có 50 thằng Mỹ, du kích ta diệt 30, hỏi c̣n bao nhiêu thằng” để nhồi căm thù vào đầu học tṛ. Thầy cô hầu như không “làm chính trị”, bởi chính trị không phải môn bắt buộc trong lớp học. Câu chuyện hiếm hoi như trường hợp nhà giáo Nguyễn Anh Khiêm phân tích một bài thơ “cách mạng” trên lớp và bị thuyên chuyển nhiệm sở đă đủ để anh em giáo giới rút ra bài học: just teach, đừng kéo học tṛ vào trận tuyến ư thức hệ. Nhưng ngay cả như thế, không ai bị cấm dạy, bị bêu tên, chỉ đơn giản là bị chuyển trường – vẫn c̣n chút lẽ phải tối thiểu. Tư thế của người thầy và sự tự trọng Hiệu trưởng thời ấy không có quyền sinh sát với giáo viên. Họ điều phối thời khóa biểu, theo dơi chương tŕnh chứ không họp kiểm điểm, phê b́nh tư tưởng, hạ bậc thi đua. Thầy cô được đào tạo bài bản, chỉ những học sinh giỏi mới vào được sư phạm; không hề có chuyện “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”. Bởi vậy, ḷng tự trọng nghề nghiệp cực kỳ cao. Thầy không nhậu với tṛ, không cụng ly “zô zô” ngoài quán. Học tṛ mời ly cà phê, thầy c̣n ngại. Khoảng cách ấy không phải v́ xa cách mà là để giữ cho h́nh bóng người thầy luôn ở vị trí đáng kính. Sau 1975: khi người thầy bỗng mang ơn hai chữ “lưu dung” Rồi 30/4 đến, trật tự đảo lộn. Những người thầy từng được xă hội kính trọng bỗng một sớm một chiều trở thành kẻ “được tha thứ”. Họ không phạm tội ǵ, nhưng lại được ban ơn bằng hai chữ nhức nhối: “lưu dung”. Lương công chức hạng A biến thành tiêu chuẩn 13 kư gạo, thêm bo bo, khoai sắn. Đau đớn không phải v́ nghèo đói, mà v́ bị xếp vào hạng thầy cô cần được “khoan hồng”, bị đồng nghiệp “cách mạng 30” lên mặt răn dạy. Ở nhiều nơi, cán bộ từ rừng về vừa non chữ nghĩa vừa say men chiến thắng, đứng lên “giáo dục” chính những thầy giáo từng là biểu tượng thanh lịch của miền Nam. Bức tranh giáo dục trở nên méo mó, người biết nghề th́ cắm cúi im lặng, người thiếu học lại ồn ào đạo đức. Những lễ đài rực rỡ và sự tội nghiệp của nghề thầy hôm nay Bây giờ năm nào cũng 20/11 linh đ́nh. Cờ xí, khẩu hiệu, diễn văn “kính thưa” đọc dài hơn một tiết học. Quan chức ngồi hàng ghế đầu, thầy cô ngồi dưới vỗ tay, cảm thấy tự hào v́ “trường ta được lănh đạo quan tâm”. Hoa nhiều, phong b́ cũng không ít, nhưng thử hỏi trong những lời chúc tụng ấy, có bao nhiêu phần là thật ḷng tôn trọng nghề giáo, hay chỉ là một dịp “truyền thông – thi đua – thành tích”? Người thầy của hôm nay được vinh danh bằng lễ hội, bằng clip viral, nhưng lương sống chật vật, phải dạy thêm, phải chạy điểm, phải chiều ḷng đủ kiểu áp lực từ trên xuống dưới. Họ được tuyên dương bằng miệng, nhưng ít khi được bảo vệ bằng thể chế để có thể đứng hiên ngang trước học tṛ như những người thầy năm xưa. Ai mới thực sự được tuyên dương? Khi nhớ lại h́nh bóng những thầy cô của thời VNCH, tôi thấy họ tội nghiệp ở chỗ: cả đời miệt mài gieo chữ mà không có một ngày của riêng ḿnh; rồi sau đó lại phải mang ơn v́… được cho phép tiếp tục dạy học. C̣n hôm nay, thầy cô được dành hẳn một ngày rực rỡ trên lịch, nhưng trong sâu thẳm, có bao người cảm thấy ḿnh thật sự được tôn trọng, được đối xử như những trí thức xứng đáng với chữ “thầy”? Câu hỏi ấy không phải để so b́ hai thế hệ, mà để chúng ta tự vấn: trong hai h́nh ảnh – người thầy lặng lẽ, ít lời ca tụng nhưng sống trong tự trọng và vị thế xă hội, hay người thầy được tặng hoa 20/11 nhưng phải cúi đầu trước muôn thứ sức ép – ai mới là người thực sự được tuyên dương? Và chúng ta, với tư cách là học tṛ, là phụ huynh, là công dân, đang đứng về phía nào trong cách đối xử với những người đă “gơ đầu” ḿnh nên người? |
| All times are GMT. The time now is 22:02. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.