![]() |
Triều đại hùng mạnh bậc nhất ở Trung Hoa sụp đổ v́ sai lầm chí mạng nào?
1 Attachment(s)
Khác với đế quốc Tây Ban Nha sở hữu kho báu vàng bạc khổng lồ nhưng thiếu nền sản xuất vững chắc, Trung Hoa thời nhà Minh có nền sản xuất hàng đầu thế giới. Nhưng triều đại huy hoàng này lại đi đến con đường sụp đổ do mắc những sai lầm chí tử khác.
Vào thế kỷ 15 và 16, Trung Hoa thời nhà Minh sở hữu một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, sánh ngang với châu Âu thời kỳ Phục hưng và đế quốc Ottoman. Nhà Minh là một trong số 3 triều đại được đánh giá huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Hoa, bên cạnh nhà Hán và nhà Đường. Với dân số vượt 150 triệu người, hệ thống nông nghiệp phát triển và mạng lưới thương mại mở rộng khắp lănh thổ, nhà Minh tưởng như nắm giữ trong tay mọi yếu tố để trở thành thế lực hàng đầu, theo History. Tử Cấm Thành là công tŕnh lịch sử được xây dựng vào thời nhà Minh ở Trung Hoa. Nền kinh tế hàng đầu Ngay từ thời Chu Nguyên Chương, triều đ́nh nhà Minh đă tập trung khôi phục sản xuất nông nghiệp sau những năm chiến tranh cuối thời Nguyên. Hệ thống thuỷ lợi được mở rộng, thuế nông nghiệp giảm xuống c̣n 1/30, rồi tiếp tục hạ c̣n khoảng 1,5% sản lượng. Những cải tiến về nông cụ, kỹ thuật canh tác và chính sách định canh đă giúp sản lượng tăng cao, tạo ra một lượng thặng dư lớn – trở thành nền tảng cho sự h́nh thành kinh tế hàng hóa. Từ thế kỷ 15 trở đi, hàng loạt vùng chuyên canh được h́nh thành trên khắp lănh thổ, sản xuất các loại cây trồng phù hợp với từng khu vực. Các đồn điền thương mại trồng chè, cây ăn trái, sơn, cây lấy sợi… mọc lên ngày càng nhiều. Sự du nhập của cây ngô và các loại cây mới từ châu Mỹ đă làm phong phú thêm nguồn lương thực và hàng hóa. Nhiều nông dân rời bỏ ruộng vườn để chuyển sang làm nghề thủ công hoặc thương mại, phản ánh quá tŕnh phân công lao động và chuyên môn hóa ngày càng rơ rệt. Một đặc điểm nổi bật khác của thời Minh là quá tŕnh tư nhân hóa mạnh mẽ trong sản xuất. Khác với triều Tống – nơi nhà nước vẫn kiểm soát phần lớn các ngành công nghiệp trọng yếu, nhà Minh chuyển hẳn sang chính sách “mặc kệ” (laissez-faire) theo tinh thần triều Hán. Các ngành then chốt như muối, chè, gốm sứ, giấy... đều nằm trong tay các thương nhân. Nhiều ḍng họ thương nhân, như họ Trịnh, tích lũy khối tài sản khổng lồ và đóng vai tṛ trung tâm trong mạng lưới thương mại nội địa và quốc tế. Thêm vào đó, nhà Minh cũng là triều đại đầu tiên chấm dứt chế độ lao dịch bắt buộc từ thời cổ đại. Nông dân không c̣n bị buộc làm phu phen, thay vào đó là h́nh thức lao động làm thuê nhận lương – mở đường cho sự h́nh thành tầng lớp công nhân đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Chỉ riêng trấn Cảnh Đức đă có tới hơn 300 ḷ gốm thuê hàng ngh́n công nhân làm việc quanh năm. Dưới thời nhà Minh, trấn là một đơn vị hành chính - quân sự đặc thù, thường được lập ở những khu vực chiến lược hoặc nơi có hoạt động sản xuất, thương mại, quân sự quan trọng. Nó có quy mô và quyền hạn lớn hơn một huyện, đôi khi tương đương một châu, nhưng nhỏ hơn phủ. Trấn thường do quan chức cấp cao cai quản, có quân đồn trú để bảo vệ sản xuất hoặc vận chuyển hàng hóa. Trấn Cảnh Đức nay thuộc tỉnh Giang Tây, miền đông Trung Quốc. Vào thời Minh, Trấn Cảnh Đức nổi tiếng là trung tâm sản xuất gốm sứ lớn nhất. Tên “Cảnh Đức” bắt nguồn từ niên hiệu Cảnh Đức (1004–1007) đời Tống Chân Tông, khi khu vực này được chọn làm nơi sản xuất gốm cho triều đ́nh. Tại nông thôn, ba tầng thị trường được h́nh thành song song: chợ làng phục vụ trao đổi nội bộ, chợ liên vùng kết nối sản phẩm nông thôn – thành thị, và cuối cùng là thị trường toàn quốc – nơi hàng hóa được sản xuất để bán, chứ không chỉ phục vụ nhu cầu gia đ́nh như trước. Ngay cả những người nông dân nghèo cũng dần chuyển sang trồng cây thương phẩm để bán lấy tiền, thay v́ chỉ trồng để ăn. Mạng lưới thương nhân chuyên mua gom hàng hóa nông thôn xuất hiện, làm cầu nối giữa các vùng miền. Tuy nhiên, trong ḷng sự thịnh vượng ấy đă âm ỉ một điểm yếu chí tử: hệ thống tiền tệ dựa trên kim loại quư là bạc. Thứ mà Trung Hoa khi đó lệ thuộc vào bên ngoài. Thời kỳ đầu, nhà Minh cố gắng khôi phục chính sách sử dụng tiền giấy từ thời Nguyên. Tuy nhiên, do phát hành quá mức và không kiểm soát được nạn làm giả, tiền giấy mất giá thảm hại. Các nỗ lực thay thế bằng tiền đồng cũng không mấy hiệu quả v́ sản lượng không ổn định và thiếu phổ biến trên toàn quốc. Trong bối cảnh đó, bạc trở thành lựa chọn gần như duy nhất – vừa được chấp nhận rộng răi, vừa khó làm giả, lại có thể chia nhỏ dễ dàng. Sự chuyển đổi này không được triều đ́nh kiểm soát chặt chẽ, mà phần lớn do thị trường tự vận hành, tạo ra một nền kinh tế "phi chính thức", nơi bạc đóng vai tṛ chủ đạo trong giao dịch thương mại, trả thuế, và tích lũy của cải. Khi triều đ́nh chính thức yêu cầu nộp thuế bằng bạc từ năm 1581, toàn bộ xă hội Trung Hoa – từ thương nhân, nông dân, đến địa chủ – bắt đầu phụ thuộc hoàn toàn vào ḍng bạc chảy vào trong nước. Trong bối cảnh đó, đi ngược với nhu cầu thương mại đang mở rộng, nhà Minh lại theo đuổi một chính sách đối ngoại đầy bảo thủ. Nhà Minh từng đi đầu về khám phá trên biển thông qua các chuyến thám hiểm của Trịnh Ḥa (từ năm 1405 đến 1433). Nhưng sau đó, v́ lo ngại ảnh hưởng từ phương Tây trong khi hệ tư tưởng nho giáo bảo thủ áp đảo, triều đ́nh áp dụng chính sách cấm biển (hải cấm), cấm dân ra nước ngoài và hạn chế giao thương với người nước ngoài. Mọi hoạt động thương mại chính thức đều bị ràng buộc vào h́nh thức “thương mại triều cống” – nghĩa là chỉ những nước có quan hệ ngoại giao với triều đ́nh mới được phép buôn bán, theo cơ chế rất hạn chế và mang tính nghi lễ nhiều hơn kinh tế. Dưới h́nh thức này, triều đ́nh đặt nặng tính biểu tượng hơn là lợi ích thương mại, thậm chí thường xuyên trợ giá cho hàng hóa nước ngoài như một cách để thể hiện vị thế thiên triều. Tuy mang lại uy danh về chính trị, thương mại triều cống tiêu tốn rất nhiều ngân sách, đặc biệt trong việc tiếp đón các đoàn sứ thần và xử lư hàng hóa, khiến lợi nhuận ṛng từ ngoại thương gần như bằng không. Sự tự cô lập ấy càng trở nên trầm trọng hơn vào giữa triều đại, khi nhà Minh phải đối mặt với mối đe dọa từ Oa khấu (hải tặc Nhật Bản). Năm 1523, sau một vụ xung đột giữa hai đoàn triều cống Nhật Bản, triều đ́nh thời Gia Tĩnh đóng cửa hoàn toàn các cảng biển quốc tế, giải tán các cơ quan thương mại và ban hành lệnh cấm biển toàn diện. Lệnh này kéo dài nhiều thập kỷ, khiến thương nhân nước ngoài và trong nước buộc phải t́m đến buôn lậu và hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt tại các tỉnh ven biển như Triết Giang, Phúc Kiến. Khi nhà Minh khép cửa với thế giới, nền kinh tế nội địa lại ngày càng lệ thuộc vào bạc ngoại nhập. Ban đầu, phần lớn bạc vẫn được nhập khẩu vào Trung Hoa từ Nhật Bản theo h́nh thức buôn lậu. Thay đổi nhưng đă muộn Năm 1567, dưới thời Long Khánh Đế, nhà Minh cuối cùng cũng ra lệnh băi bỏ cấm biển, cho phép buôn bán tư nhân trở lại qua các cảng chính thức ở Phúc Kiến, Quảng Châu, Ninh Ba. Theo ước tính, từ 1567 đến 1644, khoảng 330 triệu lượng bạc đă chảy vào Trung Quốc thông qua thương mại hợp pháp. Bạc từ Tân Thế giới (tên gọi khác của châu Mỹ khi đó), đặc biệt là từ mỏ Potosi ở Bolivia, khi đó trở thành nguồn chính chảy vào Trung Quốc. Các thương nhân phương Tây đóng vai tṛ trung gian, chở bạc từ châu Mỹ sang châu Á, đổi lấy hàng hóa Trung Quốc như tơ lụa, đồ sứ, gia vị. Với Trung Hoa, bạc gần như là thứ duy nhất họ chấp nhận đổi lấy, khiến kim loại này ngày càng được săn lùng và giá trị tăng vọt. Theo ước tính, chỉ riêng từ Manila (thuộc địa của đế quốc Tây Ban Nha khi đó), mỗi năm đầu thế kỷ 17 có tới 90 tấn bạc được chuyển tới Trung Hoa. Theo các tác giả Dennis O. Flynn và Arturo Giráldez trong bài nghiên cứu Sinh ra với “chiếc th́a bạc” đăng năm 1995, một thương nhân phương Tây từng nhận xét: “Người Trung Hoa không cần ǵ ở chúng ta ngoài bạc. Và chúng ta th́ cần tất cả mọi thứ họ có”. Tuy nhiên, việc mở cửa được đánh giá diễn ra quá muộn và không đủ mạnh. Dẫu cấm biển giảm, triều đ́nh vẫn kiểm soát chặt việc cấp phép theo hạn ngạch, giới hạn người tham gia và lượng thuế. Người dân không thể thương mại tự do, các nhà buôn nước ngoài không được phép vượt sông Trường Giang vào năm 1613. Theo Festivaltopia, thứ hủy hoại sức mạnh hàng hải của Trung Hoa thời Minh bắt nguồn sâu xa từ hệ tư tưởng Nho giáo. Thậm chí, nhiều chính sách c̣n đi ngược lại các nguyên tắc Nho giáo truyền thống. Những quyết định kỳ lạ khi ấy được hoàng đế đưa ra nhờ vào sự thắng thế của phe hoạn quan trong triều đ́nh trước tầng lớp quan lại Nho học. Chủ nghĩa tự tôn văn hóa cũng góp phần không nhỏ. Truyền thống "Trung Hoa là trung tâm thiên hạ" (chủ nghĩa Hoa tâm) từ lâu đă khiến triều đ́nh xem thường việc đầu tư vào hàng hải hay buôn bán quốc tế. Các hoàng đế Trung Hoa, vốn tự xưng là thiên tử cho rằng việc giao thương ngang hàng với các dân tộc bên ngoài là điều hạ thấp uy danh thiên triều. Chính v́ thế, sau những thành tựu thám hiểm ban đầu, Trung Hoa dần khép ḿnh vào chính sách biệt lập, coi mọi thứ ngoài biên giới là man di. Tư duy ấy sau cùng đă dẫn đến những hệ lụy tai hại không thể đảo ngược. Từ thập niên 1630, một loạt biến cố toàn cầu đă khiến ḍng bạc vào Trung Quốc suy giảm nghiêm trọng: Nhật Bản đóng cửa với châu Âu, đế quốc Tây Ban Nha siết xuất khẩu bạc để cứu nền kinh tế, nội chiến châu Âu cắt đứt các tuyến vận chuyển. Triều đ́nh nhà Minh lại không sẵn sàng t́m kiếm các tuyến đường giao thương mới để t́m nguồn bạc thay thế. Hệ quả là giá bạc trong nước tăng phi mă, hệ thống thanh toán đ́nh trệ, dân nghèo không có bạc để nộp thuế, thương nhân phá sản, lương thực khan hiếm. Theo học giả Guan Zongli trong cuốn Sự sụp đổ chính trị của nhà Minh do Đại học Cambridge xuất bản, một trí thức Trung Hoa đương thời từng cảnh báo: “Khi không c̣n bạc, th́ thuế không thu được; khi thuế không có, triều đ́nh sụp đổ”. Một trong những lư do bạc “biến mất” trong xă hội là v́ chúng không chỉ dùng để trao đổi hàng hóa, mà c̣n nhanh chóng bị hút vào bộ máy thuế khóa và hệ thống tích trữ của tầng lớp tinh hoa. Quan lại, địa chủ và thương nhân giàu có tích trữ bạc như công cụ bảo toàn tài sản, khiến lượng bạc lưu thông ngày càng co lại. Ngoài ra, một phần bạc cũng bị chuyển ngược ra nước ngoài, khiến nguồn cung bạc càng thêm thiếu hụt. Kết quả là người dân ở các vùng nông thôn nổi dậy cướp lương thực, đốt trại thu thuế. Thiên tai như hạn hán, lũ lụt càng làm t́nh h́nh thêm trầm trọng. Binh lính không được trả lương dần dần đào ngũ, tướng lĩnh đầu hàng. Đỉnh điểm là cuộc khởi nghĩa của Lư Tự Thành, chiếm Bắc Kinh năm 1644, buộc Sùng Trinh – hoàng đế cuối cùng triều Minh, phải treo cổ tự vẫn trong vườn Tịnh Nghiêu. Có thể nói, sự sụp đổ của nhà Minh không chỉ là một thất bại quân sự, mà là kết quả tất yếu của chính sách bảo thủ, tự cô lập, trong khi nền kinh tế phụ thuộc vào nguồn bạc từ bên ngoài, dẫn đến mất kiểm soát và suy tàn, theo Festivaltopia. Vietbf @ Sưu tầm |
Đừng để forum Việt bội thực tin tàu chó. Đây là cách bọn tàu chó xâm lược văn hóa.
|
| All times are GMT. The time now is 05:03. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.