VietBF

VietBF (https://vietbf.com/forum/index.php)
-   History | Lịch Sử (https://vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=215)
-   -   “Thi Tướng” Huỳnh Văn Nghệ là ai? (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=2105743)

pizza 11-04-2025 23:21

“Thi Tướng” Huỳnh Văn Nghệ là ai?
 
1 Attachment(s)
Ngày 23/9/1945, Nam Bộ đứng dậy kháng chiến, bắt đầu trang sử vàng oanh liệt “đi trước về sau”. Một người Nam Bộ vừa cầm súng, vừa cầm bút bước vào kháng chiến, để rồi trở thành một nhà chỉ huy quân sự tài ba, một nhà thơ nổi tiếng, được nhân dân yêu quư gọi là “Thi tướng”. Đó là Huỳnh Văn Nghệ, c̣n gọi là Tám Nghệ (1914-1977).

Huỳnh Văn Nghệ sinh năm 1914, tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Ḥa (nay là xă Thường Tân, TP Hồ Chí Minh). Là người thông minh, học giỏi, Huỳnh Văn Nghệ được nhận học bổng vào học Trường Trung học Petrus Kư (nay là Trường THPT Lê Hồng Phong, phường Chợ Quán, TP Hồ Chí Minh).

Sớm giác ngộ, từ năm 1932, Huỳnh Văn Nghệ đă tham gia các hoạt động do Đảng lănh đạo. Năm 1942, bị lộ, ông phải trốn sang Thái Lan và hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước. Năm 1944 về nước, ông bắt liên lạc với cách mạng, được phân công lập căn cứ Đất Cuốc tại Tân Uyên, Biên Ḥa.


Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ tại Chiến khu Đ
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Huỳnh Văn Nghệ trực tiếp tham gia chỉ huy giành chính quyền ở Biên Ḥa. Nam Bộ kháng chiến, ông tham gia Ủy ban Kháng chiến miền Đông. Khi giặc Pháp đánh lấn ra các vùng ngoại vi Sài G̣n-Gia Định, tham gia chiến đấu tại các mặt trận Sài G̣n-Chợ Lớn, Thị Nghè, chặn quân giặc tiến về miền Đông Nam Bộ, Huỳnh Văn Nghệ trực tiếp chỉ huy lực lượng đốt Ṭa bố, Sở c̣, Bưu điện Biên Ḥa, đem vũ khí thu được của địch về Tân Uyên xây dựng lực lượng. Căn cứ ở Tân Uyên được ông bố trí pḥng ngự vững chắc, bảo đảm tốt vai tṛ hậu cần cho lực lượng vũ trang của tỉnh và các tỉnh bạn, đồng thời làm nhiệm vụ bảo vệ Khu bộ. Tân Uyên trở thành một trong những căn cứ kháng chiến vững mạnh nhất ở Nam Bộ lúc bấy giờ.


Khi quân Pháp liên tiếp mở các trận tiến công lớn vào chiến khu, Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy lực lượng tham gia trận phản công lớn đầu tiên của Nam Bộ đánh vào thị xă Biên Ḥa (ngày 2/1/1946). Sau đó, ông nhận nhiều nhiệm vụ quan trọng như Khu bộ phó Khu 7, kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 310, trực tiếp chỉ huy trận La Ngà-trận giao thông chiến lớn nhất ở Nam Bộ kể từ ngày giặc Pháp tái chiếm. Sau trận này, Trung đoàn 310 được Bác Hồ khen thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai, riêng Huỳnh Văn Nghệ được Bác tặng chiếc áo trấn thủ. Năm 1950, sau khi sáp nhập Sài G̣n-Chợ Lớn vào Khu 7, ông giữ chức Phó tư lệnh Khu 7. Năm 1951, hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Ḥa sáp nhập, ông là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh đội trưởng Thủ Biên, chỉ huy nhiều trận đánh lớn bảo vệ Bộ tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ đóng ở Chiến khu Đ.

Tháng 5/1953, ông được cử ra miền Bắc học và ở lại công tác gần 12 năm, trải qua các chức vụ: Trưởng pḥng Thể dục Thể thao, Phó cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu; Phó tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp. Năm 1965, ông trở về miền Nam phụ trách khu căn cứ Trung ương Cục, Phó ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam. Đất nước thống nhất, ông được giao trọng trách Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Huỳnh Văn Nghệ được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học-nghệ thuật (năm 2007), được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân (năm 2010).

Nói về nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ, ai cũng nhớ các bài thơ: “Tiễn bạn về Bắc”, “Về Bắc”, “Nhớ Bắc” nổi tiếng của ông. Tứ thơ của bài “Tiễn bạn về Bắc” bắt nguồn từ buổi tiễn bạn tại sân ga Sài G̣n năm 1940. Đúng dịp thông tuyến đường sắt Bắc-Nam, Sở Hỏa xa Sài G̣n được chính quyền bảo hộ ưu tiên cho một số nhân viên đi tham quan Hà Nội bằng xe lửa. Huỳnh Văn Nghệ may mắn được chọn. Hai ngày trước khi lên đường, ông nhường lại suất của ḿnh cho một người bạn. Buổi chiều ấy ra sân ga tiễn bạn, khi đoàn tàu dần khuất bóng, cảm hứng dâng trào, Huỳnh Văn Nghệ đă bật ra những câu thơ xuất thần: Ai đi về Bắc ta đi với/ Thăm lại non sông giống Lạc Hồng/ Từ độ mang gươm đi mở cơi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Đây cũng là tứ thơ đầu cho các bài thơ sau, được ông viết trong thập niên 1940.

Với các thi nhân, luôn cần có môi trường tạo cảm hứng. Sau này, không gian chiến trường Chiến khu Đ là cảm hứng để thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ viết nên những áng thơ để đời. Ông xứng đáng được tôn vinh là người viết sử bằng thơ về Chiến khu Đ của “miền Đông gian lao mà anh dũng”, thể hiện chân thực, sinh động hiện thực cuộc sống chiến đấu anh hùng. Những năm đầu kháng chiến, thơ ông vui tươi, đầy tinh thần lăng mạn: Phấp phới cờ bay với gió xuân/ Quân ca từng khúc, nhịp xa gần/ Từng đoàn chiến sĩ đi ra trận/ Có bướm, chim đưa tận cuối rừng (Xuân chiến khu). Bài này làm trong dịp Tết kháng chiến đầu tiên ở Chiến khu Đ, năm 1946. Kháng chiến ngày càng ác liệt, tuy nói về bi kịch mất mát nhưng vẫn là tiếng thơ lạc quan, như nh́n thấy chiến thắng sắp đến gần: Biên Ḥa đă mất/ Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao/ Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiến hào/ Đêm tập một, hai vang trường Đất Cuốc/ Già, trẻ, gái, trai rộn ràng tập hát/ Tiến quân ca (Ngày hội). Đất đai bị giặc chiếm, tất nhiên là khó khăn, hy sinh, gian khổ: Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu/ Mất nước ngọt, bờ tre gió mát/ Thuyền tiếp tế, lúa khoai ch́m đáy nước/ Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ. Nhưng chúng ta sẽ giành lại nhờ ư chí quyết tâm của ḷng yêu nước: Nhưng quân thù vẫn sợ ḷng chiến khu/ Cờ đỏ vẫn phất cao cành cổ thụ (Bờ sông bị chiếm). Thơ ông nhiều đối thoại, là những tiếng nói tự nhiên giữa đời thường nhưng mang ư nghĩa khái quát cao về một giai đoạn lịch sử: Thấy mẹ buồn, con hỏi/ “Má tiếc ǵ má ơi!/ Nhà ḿnh con đốt rồi/ Kẻo mai thành bót giặc” (Mẹ buồn). Chỉ mấy câu thơ nhưng cho người đọc h́nh dung ra cả một thời tiêu thổ kháng chiến, người dân sẵn ḷng đốt ngôi nhà-nơi ở, điểm tựa của ḿnh để chống giặc.

“Tiếng hát giữa rừng” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách Huỳnh Văn Nghệ làm tại Chiến khu Đ, năm 1946. Chỉ là lời thuật nhưng cho thấy cả một thời đại anh hùng, ai ai cũng xả thân v́ Tổ quốc: Bác sĩ vừa cưa vừa khóc/ Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe/ Nh́n ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre/ Anh chiến sĩ cứ mê mải hát/ Cưa cứ cưa, xương cứ đứt/ Máu cứ rơi từng vết đỏ bông/ Hai bàn tay siết chặt đôi hông/ Dồn hết phổi vào trong tiếng hát:/ “Đoàn quân Việt Nam đi, chung ḷng cứu quốc...”/... Ảnh Bác Hồ như rưng rưng nước mắt. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ xuất phát từ một câu chuyện có thật: Anh bộ đội Bùi Xuân Tảo bị thương trong trận tấn công thị xă Biên Ḥa vào đầu tháng 1-1946, được đưa về quân y viện ở Đất Cuốc-Chiến khu Đ. Kháng chiến thiếu thốn trăm bề, v́ thuốc mê ít, bác sĩ bảo người thương binh hăy hát một bài ǵ đó để át đi sự đau đớn khi giải phẫu và anh đă hát bài “Tiến quân ca”. Ca mổ diễn ra đúng lúc Tám Nghệ cưỡi ngựa đi ngang và trực tiếp chứng kiến...

Những câu thơ ấy, những sự kiện ấy, những con người ấy như những ngọn lửa lư tưởng làm bừng sáng chân lư: Không có ǵ quư hơn độc lập, tự do. Và măi là ngọn lửa đạo lư soi cho mai sau nhớ về cha ông đă chịu đựng hy sinh, cực khổ để có đất nước hôm nay vươn ḿnh vào bầu trời ḥa b́nh, hạnh phúc.

Với những đóng góp lớn lao, tên tuổi Huỳnh Văn Nghệ được ghi vào “Từ điển danh nhân Việt Nam”, “Từ điển thành phố Sài G̣n-Hồ Chí Minh”, được đặt tên cho một số trường học, đường phố ở TP Hồ Chí Minh ngày nay.

Vietbf @ Sưu tầm


All times are GMT. The time now is 00:17.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.08115 seconds with 9 queries