VietBF

VietBF (https://vietbf.com/forum/index.php)
-   Member News | Tin thành viên (https://vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=189)
-   -   CHUYỆN LINH TINH BUỒN VUI TRONG ĐỜI (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=1222074)

hoanglan22 03-11-2019 03:33

Con Đường Catinat và nếp sống Sài G̣n xưa
 
3 Attachment(s)










Năm 1861, khi Sài G̣n lọt vào tay quân Pháp th́ con đường này đă có một quá tŕnh dài góp mặt vào sinh hoạt của cư dân địa phương. Nó được biết đến nhiều v́ ở đầu con đường, nơi giáp với bờ sông (sông Sài G̣n), từng là nơi vua nhà Nguyễn đến nghỉ ngơi và... tắm (Bến Ngự). Tuy nhiên, từ trước năm 1865, nó cùng 25 con đường khác chỉ mang số thứ tự kế tiếp nhau, từ 1 đến 26. Phải chờ đến ngày 1-2-1865, Đề đốc De La Grandière mới đặt tên cho từng con đường một và con đường số 16 lần đầu tiên mang tên Catinat. Nhiều người không rơ xuất xứ của tên này. Theo một số sử liệu, Catinat là tên một thống chế Pháp sinh năm 1637 và mất năm 1712, phục vụ dưới thời vua Louis XIV. Giữa thế kỷ XIX, Pháp lấy tên Catinat đặt cho một chiếc tàu chiến từng tham gia trận đánh Sài G̣n năm 1859 và dựa vào chi tiết này, De La Grandière đặt cho con đường số 16 tên Catinat (trường hợp tương tự cũng xảy ra với rạch Thị Nghè, được Pháp gọi là Arroyo d’Avalanche).

Một trong những tác giả Pháp đầu tiên là Pallu de la Barrière đă miêu tả con đường số 16 này vào năm 1861 như sau: "Du khách đến Sài G̣n nh́n thấy bên hữu ngạn con sông một loại đường phố mà hai bên bị đứt quăng bởi những khoảng trống lớn. Phần lớn nhà cửa làm bằng cây lợp lá cọ ngắn; số khác ít hơn, làm bằng đá. Mái nhà lợp bằng ngói đỏ làm vui mắt và tạo được cảm giác yên b́nh...". Tính cách quan trọng của con đường Catinat thể hiện ở chỗ nó được thực dân Pháp sử dụng làm trung tâm của bộ máy thuộc địa. Đầu tiên, vào năm 1863, ở vạt đất nằm giữa hai con đường Mossard và Gouverneur (sau là De La Grandlière, Gia Long), họ dựng lên dinh Thủy sư Đề đốc, cơ quan đầu năo của thực dân Pháp tại Viễn Đông, gần chiếc đồng hồ lên cái tháp trước dinh, từ đó, quảng đất trống phía trước (nay là khu đất trước mặt tiền Nhà thờ Đức Bà) được gọi là "Quảng trường Đồng hồ" (Place de l’Horloge). Ngày 15-8-1865, tại quảng trường này đă diễn ra một buổi lễ trong thể có duyệt binh do chính De La Grandière chủ tŕ nhằm tôn vinh Hoàng đế Pháp Napoléon III và Hoàng hậu.

Năm 1864, Nha Giám đốc Nội vụ (Direction de I’ Intérieur), người dân đương thời gọi là "Dinh Thượng thơ", được xây dựng, nh́n ra đường Catinat, ở phía đối diện dinh Thủy sư Đề đốc. Viên chức lănh đạo cơ quan này, xét về mặt cai trị, chỉ xếp sau Thống đốc Nam Kỳ, trực tiếp chỉ huy các tham biện Pháp và quan lại Việt Nam hàng Huyện, Phủ, Đốc phủ sứ. Đầu thập niên 1880, ngay trên lộ tŕnh con đường chạy qua, mọc lên ngôi nhà thờ Notre Dame, về sau được cư dân Sài G̣n gọi là Nhà thờ Đức Bà hay Vương cung Thánh đường. Sau lưng nhà thờ là đường Norodom, lấy tên ông hoàng xứ Cambodge (Campuchia) đến thăm Sài G̣n vào đầu năm 1867, nhân cuộc đấu xảo canh nông đầu tiên tổ chức tại đây.

Năm 1886, Pháp khởi công xây trụ sở chính Sở Bưu chính và Viễn thông trên khu đất đối diện với mặt tiền nhà thờ, nằm giữa con đường Catinat và đường Paul Blanchy. Cuối đường Catinat, người ta nh́n thấy một tháp nước cao được xây dựng năm 1878 nhằm cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Tuy nhiên, đến năm 1921, với sự phát triển của dân cư, tháp nước này không c̣n đáp ứng được yêu cầu nên bị đập bỏ. Ngày 1-1-1900, nhà hát Tây được khánh thành trên giao lộ đường Bonard và Catinat, trở thành nơi biểu diễn thường xuyên của những đoàn hát từ phương Tây đến.

- Nhịp sống trên đường Catinat

Sinh hoạt của đường Catinat vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX được tác giả Nguyễn Liên Phong miêu tả sinh động trong Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca xuất bản tại Sài G̣n năm 1906:

Nhứt là đường Ca-ti-na,
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh.
Bực thềm lót đá sạch tinh,
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều.
Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều (sic) phô trương.
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương,
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi.
... Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son (xoong.
... Phong lưu cách điệu ai bằng,
Đường đi trơn láng, đền giăng sáng ḷa.
Thứ năm, thứ bảy, thứ ba,
Với đêm chúa nhựt hát nhà hát Tây...

Vào thời kỳ này, đường Catinat là bộ mặt sinh hoạt của cả Sài G̣n, thành phố thuộc địa đầu tiên ở vùng Viễn Đông với sự hiện diện của khoảng 3.000 người Pháp, hơn 3/4 trong số này là sĩ quan và viên chức. Lính Pháp ở trong các bungalow (loại nhà gỗ có hiên rộng) nằm khuất trong những vườn cây xanh. Để tiết kiệm chi phí và t́m sự đông vui hai, ba anh chung nhau tiền mướn một chỗ ở, có sự giúp việc của một anh bồi (boy) bản xứ, đi chợ, giặt giũ, nấu ăn... Sinh hoạt dân sự trên đường Catinat cũng được những người Pháp đương thời miêu tả đúng như Nguyễn Liên Phong. Hai bên đường, các thợ may, thợ đóng giầy người Hoa hoạt động khá đông, sau đó đến các cửa hiệu tạp hóa, nơi du khách có thể t́m thấy thức ăn khô, mũ nón hay yên cương... Từ ngày 24-2-1897, đoạn đường Catinat từ phía sau nhà thờ Đức Bà đến tháp nước (nay là Hồ Con Rùa) mang một tên mới là đường Blancsubé. Về sau nữa, khi thành phố được mở rộng hơn, con đường được tiếp tục nối dài đến đường Mayer (sau là Hiền Vương) và khúc cuối này có tên là đường Garcerie.

Tiêu biểu cho sinh hoạt trên đường Catinat vào thời kỳ đầu Pháp thuộc là nhiều cơ sở dịch vụ thương mại được thành lập từ rất sớm. Sớm nhất có thể không đâu hơn Hăng Denis Frère mọc lên ở đầu đường, phía bờ sông, nay là khu vực của Grand Hotel, đối diện với Nhà hàng Majestic phía bên kia đường. Sau Denis Frère là hiệu thuốc Tây đầu tiên của cả Sài G̣n nằm ở góc Catinat và Bonard, khai trương năm 1865, chủ nhân là Lourdeau, sau làm Xă trưởng Sài G̣n (1870). Ít lâu sau, hiệu thuốc được giao lại cho Holbé, tiến sĩ dược khoa, một nhân vật khá nổi tiếng của đất Sài G̣n xưa, từng làm Phó Chủ tịch Pḥng Thương mại Sài G̣n, Phó Chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam kỳ (Conseil colonial de la Cochinchine). Holbé từng điều chế ra một loai biệt dược có tên "Gouttes Holbé" dành cho những tay nghiện á phiện cai nghiện. Về sau, nhà thuốc Tây về tay Renoux, rồi Solirène và mang tên vị chủ nhân này trong một thời gian dài, trước khi bị thay thế bởi nhà hàng Givral c̣n hoạt động đến ngày nay.

- Những nhà hàng nổi tiếng xưa nay

Đề cập đến sinh hoạt của cư dân Sài G̣n trên đường Catinat, không thể không nói đến nhà hàng Continental, tuy sinh sau đẻ muộn hơn (năm 1880), nhưng bề dày lịch sử của nó th́ không một cơ sở dịch vụ, thương mại nào sánh kịp. Trong khi nhà hát Tây ở cạnh đó măi đến ngày 1-1-1900 mới được khánh thành và sinh hoạt diễn ra 4 ngày mỗi tuần th́ từ đầu thập niên 1880, nhà hàng - khách sạn Continental là nơi dừng chân của các viên chức, sĩ quan cao cấp chính quốc trên đường công tác xứ thuộc địa, là chỗ tụ hội của những du khách trên đường hành hương sang Đế Thiên - Đế Thích của xứ chùa Tháp.

Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau, nhà sản xuất vật liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước De Montpensier. Người ta kể rằng chính vị công tước này là chủ nhân của Lầu Ông Hoàng ở Phan Thiết (nơi chứng kiến t́nh sử của thi nhân Hàn Mạc Tử và người bạn gái Mộng Cầm). Năm 1930, nhà hàng có chủ mới là Mathieu Francini, người đă điều hành thành công trong một thời gian dài, cho đến ngày quân đội Pháp rút về nước sau thảm bại Điên Biên Phủ.

Tuy nhiên sự nổi tiếng của Continental không xuất phát từ các chủ nhân của nó, mà từ nhiều t́nh cờ lịch sử diễn ra trên đất Sài G̣n xưa. Trước thế chiến thứ hai (1939-1945), nó từng được đón tiếp hai nhân vật sừng sỏ trong thế giới văn chương là thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore, giải thưởng Nobel văn chương năm 1913 và nhà văn Pháp lừng danh André Malraux, tác giả của La condition humaine (Thân phận con người 1933), sau làm Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1959-1969). Trong buổi "giao thời" Pháp đi, Mỹ đến, căn pḥng số 214 của khách sạn Contiental là nơi "ngự trị" của Graham Greene, người đă thai nghén và cho ra đời quyển tiểu thuyết nổi tiếng The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng) ngay trong căn pḥng này.

Thành tích của Continental không chỉ có thế, cho dù như thế là đă quá đủ để tự hào rồi. Về một lĩnh vực nào đó, như truyền thông chẳng hạn, nó c̣n tiêu biểu cho cả con đường Catinat. Cụm từ "Radio Catinat" hay "Radio Catinat một đèn" phổ biến trong giới báo chí Sài G̣n đầu thập niên 1950 xuất phát từ chính nhà hàng này. Nó chứng tỏ đây là nơi tụ hội của giới truyền thông nhất là báo giới và từ đó loan truyền đi những tin tức thời sự "nóng" nhất. Sở dĩ có từ một đèn là v́ vào những thập niên 1940-1950, hầu hết máy thu thanh c̣n sử dụng đèn điện tử, ai có máy 2, 3 đèn trở lên là thuộc hạng sang, máy chỉ có một đèn điện tử thuộc về giới b́nh dân, v́ thế từ này mang chút ư nghĩa châm biếm trong đó.

Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành lập năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro (sau là Cường Để) nh́n ra bờ sông Sài G̣n, do một thương nhân người Hoa giàu có và nổi tiếng nhất nh́ Sài G̣n thời bây giờ là Hui Bon Hoa (chú Hỏa) xây dựng theo đồ án thiết kế của một kiến trúc sư Pháp. Cạnh khách sạn Majestic là rạp hát cùng tên, ngó mặt ra đường Catinat. Ngược lên phía trên, và những thập niên trước ngày Pháp về nước, những người thuộc lớp trước 70 trở lên không quên hiệu bán đĩa hát Ménestrel, rạp Catinat (nằm trên một con hẻm đâm ra đường Catinat), nhà hàng Brodard... Qua bên kia đường Bonard, cạnh nhà thuốc Tây Soliréne (sau là nhà hàng Givral) là rạp hát Eden, tiệm sách Albert Portail, nhà thuốc Tây Pharmacie de France (sau là La Thành), nhà hàng La Pagodel, cũng từng là nơi gặp gỡ của báo giới Sài G̣n.

Gabrielle M. Vassal, một phụ nữ Pháp có chồng là bác sĩ, mấy tuần sau lễ cưới đă theo chồng sang Việt Nam, đến ở Nha Trang là nơi ông chồng làm việc trong ba năm. Trên lộ tŕnh từ Pháp sang, bà đă dừng chân ở Sài G̣n một thời gian và bằng một nhận xét tinh tế, đă miêu tả nhịp sóng Sài G̣n xưa trong quyển kư Mes trois ans d’ Annam (Ba năm sống ở Việt Nam) do nhà Hachette (Paris) xuất bản năm 1912:

"Người ta nh́n thấy nhiều dân bản xứ đi trên phố. Ngày làm việc kết thúc, họ đi thành từng nhóm trên đường về nhà. Trong số họ, các thầy thông ngôn được phân biệt bởi mới tóc cắt ngắn, chiếc khăn đội đầu xếp nhiều lớp một cách hoàn hảo, quần dài trắng, giầy cổ thấp và vớ ngắn. Các nông dân (nguyên văn: nhaqués) mặc áo cánh màu xanh sẫm, có khi vá nhiều chỗ đến nổi không c̣n thấy mảnh vải gốc nào nữa, và quần dài trắng. Họ đi một bên lề đường, chân để trần, người này đi sau người kia. Vài người cầm trên tay đôi giày Tàu dành sử dụng trong những dịp đặc biệt, tay kia cầm cây dù giương rộng che trên đầu... Những phụ nữ bản xứ có địa vị cao hơn th́ ngồi xe kéo (pousse - pousse), người th́ quấn khăn bằng lụa mỏng trên đầu, người th́ cẩn thận cài chiếc trâm vàng trên búi tóc đen nhánh...

... Chúng tôi ngồi ăn tối trên sân thượng nhà hàng Continental. Dù đă khuya, những bàn ăn chất đầy rượu mạnh và thức uống lạnh vẫn c̣n đông khách. Con đường (Catinat) im ắng, nhưng đồng thời cũng rất náo nhiệt. Xe kéo chạy thật êm trên những chiếc bánh cao su, người phu xe nện đôi chân trần xuống đất mà không gây ra một tiếng động nhỏ nào..."./.

Nguyễn Tiến Quang

hoanglan22 03-11-2019 14:11

Chuyến tầu định mệnh Trường Xuân Hành tŕnh t́m tự do
 
Trên tầu Trường Xuân - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM

Đó là tựa đề cuốn Kỷ Yếu do nhóm thân hữu Trường Xuân ở Sydney, Úc Châu, thực hiện để ghi nhớ đúng 35 năm gần 4000 người tỵ nạn Việt Nam rời bỏ quê hương trên chuyến tầu định mệnh Trường Xuân. Tôi rất ngạc nhiên khi cầm trên tay cuốn kỷ yếu thật đặc biệt từ h́nh thức tới nội dung và khá tốn kém này. Thoạt nh́n, có người tưởng lầm đây là một cuốn tự điển v́ vẻ “gồ ghề” của nó từ cái b́a cứng in chữ lớn mạ vàng óng ánh tới bề dầy 2 inches và hơn 600 trang bằng loại giấy láng dầy. Theo tôi, ngoài nhóm thân hữu Trường Xuân ở Úc ra, có lẽ không có một hội đoàn hay đoàn thể non-profit nào tại hải ngoại dám gồng ḿnh thực hiện một cuốn kỷ yếu có tầm cỡ và tốn kém như vậy. Cuốn kỷ yếu mang tựa đề “Hành tŕnh t́m Tự Do – Journey to Freedom”quả là một di sản giá trị để lại cho các thế hệ con cháu sau này, có thể đọc và hiểu được lư do tại sao cha ông của họ đă phải liều chết đi t́m Tự Do. Tất cả những tài liệu, những bài viết, những h́nh ảnh trong cuốn Kỷ Yếu đều được tŕnh bày bằng song ngữ Việt-Anh để giới trẻ có thể đọc hay nghiên cứu. Chưa hết! Cuốn Kỷ Yếu này c̣n được gửi tặng tất cả các vị nguyên thủ của 14 quốc gia đă dang rộng ṿng tay nhân từ đón nhận những người tỵ nạn cộng sản Việt Nam trên chuyến tầu Trường Xuân. Cuốn sách sẽ được lưu giữ và trưng bày tại nhiều thư viện của nhiều quốc gia trên thế giới.

Đă có rất nhiều người nghe biết về chuyến tầu Trường Xuân nhưng có lẽ vẫn chưa rơ các diễn biến và các chi tiết về chuyến hải hành đầy cam go này. Nhạc sĩ Lam Phương cũng là một thuyền nhân trên con tầu định mệnh Trường Xuân.


Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy

Cover cuốn kỷ yếu “Hành tŕnh t́m Tự Do - Journey to Freedom”

Xin mượn những ḍng tâm sự của Thuyền trưởng Phạm-Ngọc-Lũy để nói về chuyến tầu định mệnh Trường Xuân:

“Thượng đế đă ban cho tôi ân huệ được sống với đồng bào trong những giờ phút đau thương và bi thảm nhất của một giai đoạn lịch sử tan vỡ. 10 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, tiếng nói từ đài phát thanh Sài g̣n gieo vào ḷng người quốc gia nỗi kinh hoàng đến tuyệt vọng. Làn sóng người đổ xô ra tầu Trường Xuân mỗi phút mỗi đông. Tôi thấy bóng dáng nhiều binh chủng lẫn trong đám đồng bào. Tất cả đă hy sinh rất nhiều, đă quá yêu tổ quốc và gia đ́nh… Tất cả đều mang nét mặt buồn thảm, hốt hoảng đến cùng cực, đi t́m đường sống trong cái chết. Trên đài chỉ huy, tôi bị dằn vặt và bị ám ảnh nặng nề về tin tức tôi mới nhận được từ viên sĩ quan phụ tá: có âm mưu phá hoại! Tôi biết ḿnh phải làm ǵ? hành động thế nào để có thể đưa thoát đồng bào rời khỏi Sài G̣n nơi chúng ta đă bám vào đấy để sống. Tôi vốn dĩ lạnh lùng trước hiểm nguy nhưng tôi lại có nhược điểm là rất dễ bị xúc động. B́nh tĩnh trước gian nguy tôi thấy dễ nhưng ngăn chặn được giọt nước mắt lăn trên má lúc này mới là điều khó khăn. Không b́nh tĩnh, không nén được xúc động, tôi sẽ mất hết đồng bào, mất hết những người thân yêu. Tôi đă vận dụng hết khả năng, ư chí, tận dụng nguồn sinh lực để cố giữ b́nh tĩnh cho chính ḿnh v́ tôi không muốn và không được phép “chưa lâm trận đă chịu thất trận”. Trong giờ phút muộn màng, gay go, nguy cấp nhất và biết trước sẽ gặp rất nhiều bất trắc, tôi vẫn tin tưởng, tin ḿnh, tin đồng bào ư thức được mối nguy chung… tôi ra lệnh khởi hành. Đồng hồ chỉ 13 giờ 30 phút.”

Để quư vị có một cái nh́n khá chi tiết về chuyến tầu định mệnh Trường Xuân, xin được ghi lại vài trang Nhật kư Hải hành của Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy như sau:

Xà lan Song An kéo tầu Trường Xuân - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM




14-4-1975: Trường-Xuân (TX) rời Singapore về Sài g̣n.


17-4-1975: TX cập bến kho 5 Khánh Hội lúc 14 giờ.

20-4-1975: Thuyền chủ Trần-Đ́nh-Trường đề nghị: TX chở hết đồng bào nào muốn di tản tại miền Trung…

21-4-1975: TX chất đầy hàng sắt phế thải để chở đi Manila.

26-4-1975: Sắt đă chất đầy 2 hầm tầu. Thủ tục quan thuế và giấy xuất ngoại đă chuẩn bị đầy đủ… nhưng ḷ hơi vẫn chưa sửa chữa xong.

27-4-1975:Tầu trong t́nh trạng không có cơ khí trưởng… việc chở người di tản coi như bị hủy bỏ.

29-4-1975: Phi trường TSN bị pháo kích dữ dội.

Tàu Clara Maersk nh́n từ tàu Trường Xuân - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM

Đồng bào trên tàu Clara Maersk - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM

-13 giờ: tôi lại hăng tầu nhưng không gặp Thuyền chủ Trần Đ́nh Trường (TĐT).

- 16 giờ: Ông TĐT chỉ thị: thuyền trưởng có toàn quyền sử dụng tầu TX.

- 19 giờ : Tôi ra tầu nhưng không gặp cơ khí trưởng. Tôi chỉ thị sĩ quan phụ tá TVC: Tầu sẽ khởi hành ngày 30 tháng 4 khoảng 12 giờ trưa…

- 20 giờ: Tôi trở về nhà và suốt đêm không sao ngủ được. Tôi phải có quyết định dứt khoát: đi hay không đi ! Tôi vẫn c̣n bị ám ảnh bởi cuộc di tản đầy chết chóc tại miền Trung.

- 6 giờ sáng: Tôi ra tầu để thẩm định t́nh trạng con tầu.

- 7:45 sáng: Tôi trở lại nhà… Gần 200 bà con anh em, hàng xóm dồn lên 2 chiếc xe GMC nhưng bị chận lại ở cổng thương cảng mặc dù đă xuất tŕnh giấy tờ của Bộ nội vụ. Nhưng rồi cuối cùng chúng tôi cũng vô được bên trong…

- 9:45 sáng: Sĩ quan vô tuyến xin ở lại v́ thất lạc gia đ́nh. May mắn cùng lúc đó anh NNT, sĩ quan vô tuyến của một tầu khác cùng hăng đến xin thay thế. Đồng bào kéo tới và lên tầu mỗi lúc một đông.

- 10:25 sáng: Đài phát thanh loan tin đầu hàng… và ngay sau đó hàng ngàn người gồm các quân, dân đổ xô xuống tầu TX từ khắp mọi nẻo.

- 12:00 trưa: Dinh Độc Lập và Ngân hàng quốc gia bị chiếm

- 12 Cơ khí trưởng báo tin máy đă ở t́nh trạng chuẩn bị sẵn sàng. Lệnh khởi hành được ban ra tức khắc. Nhưng vừa tách bến, hệ thống lái bị phá hoại: có người đă đổ nước vào máy thay v́ đổ dầu… Thủy triều bắt đầu lên đẩy lái quay ngang sông và dần dần mũi tầu quay ra biển. Đến bây giờ tôi vẫn c̣n thắc mắc : Tại sao lại có cáimay mắn lạ lùng này ???

- 13:30 : Tầu TX khởi hành sử dụng hệ thống lái tay pḥng hờ, một việc mà không thuyền trưởng nào dám làm trong sông. Tôi thành lập ngay ban tham mưu và các ban cần thiết khác :



Đồng bào được chăm sóc trên tàu Clara Maersk - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM

a. Ban tham mưu: gồm 1 trung tá phi công, 1 thiếu tá cựu sĩ quan sư đoàn 25 BB, 1 nha sĩ, 1 giáo sư, 1 -3 luật sư, 2 cựu sĩ quan hải quân, 1 sinh viên.

b. Ban an ninh trật tự: gồm 1 trung tá cảnh sát dă chiến, 1 thiếu tá dù và nhiều sĩ quan, binh sĩ, 1 dân sự.

c. Ban y tế : gồm 1 bác sĩ và nhiều t́nh nguyện viên khác…

- 17 giờ: Máy phát điện bị tê liệt. tầu mắc cạn, mũi tầu đâm vào bờ. Hàng chục thanh niên xuống pḥng máy bơm thuyền trưởng năn nỉ cầu xin giúp đỡ, tầu kéo xà lan mang tên Song An đă cột dây thừng kéo tầu TX khỏi chỗ bị mắc cạn và kéo TX từ từ ra Vũng Tầu ví như con kiến mà kéo con… voi.

- 23:00 : Tầu Song An đâm vào lưới cá. Các anh em binh sĩ nỗ lực cưa dây cáp và lưới cuốn vào chân vịt tầu Song An.



01-5-1975: Dây kéo tầu bị đứt liên tục v́ tầu TX quá nặng với hàng ngàn tấn sắt vụn và gần 4000 sinh mạng. Thủy triều lên quá mạnh.

- 5 giờ sáng: TX chạy sát gần ven chân núi Vũng Tầu để tránh con tầu ch́m “Kagwamaru”. Dây cáp lại bị đứt. Tầu TX trôi ngược lại dạt ra xa chân núi. Quân nhân trên tầu ở tư thế chiến đấu nếu bị tấn công

- 7:30 sáng: TX chạy ngang băi trước

- 8:00 sáng: TX chạy ngang phao London Maru, cách Sài G̣n 45 hải lư. Nước bắt đầu ṛng

- 10:00 sáng: TX cách Vũng Tầu 16 hải lư về phía nam. Máy chạy lại được. Tôi ra lệnh nộp tất cả vũ khí. Súng lớn súng nhỏ vào khoảng 50 cây được cất trong pḥng hải đồ và được khóa cẩn thận.

02-5-1975: Sau bao nhiêu tai nạn liên miên xảy ra, chịu đói chịu khát, nhưng nhờ nỗ lực và ư thức tự giác cao độ của tất cả đồng bào trên tầu… nên tới 16 giờ ngày 2-5-1975, gần 4000 đồng bào tỵ nạn cộng sản đă được chuyển sang an toàn trên tầu Đan Mạch mang tên Clara Maersk trong khi nước biển đă tràn ngập pḥng máy. Sau khi nhận được tín hiệu SOS kêu cứu, chiều ngày 2 Tháng Năm, tầu Đan Mạch đă chạy tới gần tầu Trường Xuân. Tôi vội vă sang tầu Đan Mạch để gặp vị thuyền trưởng và khẩn thiết yêu cầu ông hăy v́ nhân đạo mà cứu hết mọi người. Lúc đầu TT Olson chỉ muốn tiếp tế thức ăn, nước uống và thuốc men nhưng sau khi tôi xin ông qua thăm t́nh trạng bi đát của đồng bào và sau khi thấy tận mắt rất nhiều người nằm la liệt trên tầu TX v́ kiệt sức, v́ đói khát nhất là t́nh trạng vệ sinh rất tồi tệ rất dễ sinh ra các bệnh truyền nhiễm khác v.v. TT. Olson, đă quyết định cứu vớt tất cả trong tiếng reo ḥ và vỗ tay vang dội của mọi người. Khi tất cả đă an toàn trên tầu Đan Mạch, tầu TX bị bỏ lại bồng bềnh trên mặt biển bao la. Và khoảng một tháng sau đó, một tầu đánh cá của Hồng Kông đă t́nh cờ gặp tầu TX và kéo vào bờ cùng với thi hài của Đại Tá Ṿng A Sáng. Ông đă chết v́ kiệt sức không thể leo qua tầu Đan Mạch và thay v́ bị ném xuống biển, xác ông đă được bỏ lại trên tầu TX. Trước ông Sáng, đă có 2 người tự sát v́ quá tuyệt vọng và v́ vợ con c̣n ở lại không có mặt trên tầu TX. Nhưng bù lại, đă có 2 em bé được sinh ra trên tầu TX và hiện nay cả 2 em đều rất thành công tại hải ngoại sau đúng 40 năm.

Tầu Đan Mạch chở đồng bào tới Hông Kông vào tối ngày 2-5-1975 và chúng tôi được cho tạm trú tại 3 trại tỵ nạn để chờ được định cư tại quốc gia thứ ba. Được biết đă có 14 quốc gia tiếp nhận gần 4000 đồng bào tỵ nạn trên con tầu Trường Xuân.

Sau bốn mươi năm xa xứ, các thế hệ con cháu của những người di tản đă và đang đóng góp tài năng, trí tuệ cho quốc gia mà họ đă nhận làm quê hương thứ hai. Và niềm hy vọng nh́n thấy một quê hương thanh b́nh, tự do vẫn luôn trong tâm thức họ…


Tàu kéo Song An kéo TX ra khỏi sông Ḷng Tảo

Tác Giả:Nguyễn Việt Cường

laongoandong 03-11-2019 21:01

Nói thêm về Thích Thiện Minh
 
Nói thêm về Thích Thiện Minh :
V́ chuyện xảy ra quá lâu và nhiều chi tiết không nhớ rỏ chính xác tḥi gian nhưng cuộc đời ḿnh đă gặp phải, không bao giờ quên được. Nó nằm trong đầu ḿnh, lần đầu tiên ḿnh xin kể ra đây.
Trước khi đi vào vấn đề ḿnh xin nói thêm. Đạo nào ḿnh cũng tôn trọng nhưng con người hành đạo không tốt th́ ḿnh cũng không thể tôn trọng nữa để gọi là thầy.
TT Minh bị bắt ở khu đại học và giao cho Quân Cảnh tạm quản thúc chờ ngày ra Ṭa án quân sự. Đơn vị được giao cho là Tiểu đoàn 6 Quân Cảnh phụ trách Quân khu Thủ Đô đóng tại Trại Lê Văn Duyêt chung với Bộ TL Biệt Khu Thủ Đô..Doanh trại của Tiểu Đoàn không lớn nhưng lúc ấy t́m chổ để tạm quản thúc TT Minh là chuyện chưa từng có bao giờ v́ nhiệm vụ của đơn vị chỉ là giử ǵn an ninh trật tự và quân phong quân kỷ mà thôi. Cũng may là đơn vị có hai nhà kho riêng biệt khoảng 16m2 mỗi kho. Tường dầy và xây nền cách mặt đất 50cm. Thế là đơn vị chuẩn bị cả ngày dọn trống và làm sạch để rước nghi phạm về quản thúc. Đặc biệt là phải có một bàn thờ Phật cho thầy.
Hằng ngày có một nữ quân nhân tơi giao cơm ba buổi. Có một nhân viên QC đặc trách canh giữ và người chịu trách nhiệm giám sát đôn dốc canh giữ là tôi, với chức vụ Sỉ Quan An ninh Chính Trị của Tiểu Đoàn. Ḿnh không nhớ là quản thúc TT Minh bao lâu nhưng hằng ngày ḿnh vừa phụ trách trưởng ban điều hành tiểu đoàn vừa dảo quanh căn pḥng xem ông ta như thế nào.
Những ai muốn thăm viếng TT Minh phải có giấy phép. Mọi tiếp xúc và kiểm soát từ trong ra ngoài là tôi. Điều đáng nhớ nhất là thời gian rỗi rảnh TT Minh nghe một radio nho nhỏ. Buổi sáng sớm bước vào pḥng chỉ thấy hương trên bàn thờ và một ít trái cây. Không bao giờ nghe và thấy ông tụnh kinh.
Vài ngày sau tự nhiên ông hỏi có bàn cờ tướng và xin phép được đánh cờ. Được phép!! và người duy nhất được tiếp xúc với ông chỉ có tôi và tôi cũng ṭ ṃ muốn biết tŕnh độ của ông và muốn có dịp gần gủi để t́m hiểu con người gây nên ầm ỉ chính trị này. Cá nhân tôi không thích chính trị nhưng bao lâu nay bị cấm trại ứng chiến cũng v́ những thành phấn như TT Minh này.
Tŕnh độ cờ tướng của ông TT Minh chỉ khoảng 7/10 đối với cá nhân tôi. Trong khi chơi, những lúc suy nghỉ chọn nước đi, tôi mới quan sát kỷ con người tu hành này. Ông bà ta có câu : Nhất lé, nh́ lùn. tam hô, tứ hí. Ông này thuộc dạng số 1. Không hiểu sao tôi lại không có cảm t́nh với ông. Có lẻ v́ ông gây rối trong vấn đề Phật giáo hồi đó nên chúng tôi phải bị cấm trại hoài hay là mỗi khi ông phàn nàn cau có v́ sơ xuất đi một nước cờ và ngước lên vói hai con ngươi, một vừa nh́n tôi và một nh́n nơi khác. Một trong những cách để t́m hiểu cá tánh của một con người là trong lúc họ bài bạc, như trong x́ phé chẳng hạn. Con người xài hoang, con người thâm trầm, mưu chước, bất biến v..v..
Ngày này qua ngày kia, khi đánh cờ tôi cứ tưởng là tôi đánh cờ với ông hàng xóm chạy xe ba gác bên trong xóm ở gần nhà ba má tôi ở đường Cao Thằng nối dài, chứ không phải với ông thầy tu. Từ cái vổ đùi cho đến tiếng kêu “ la” khi hớ một nước đi. Đôi khi tôi thử để ông thắng th́ cơn cao ngạo hiên lên. Chữ Hỉ và chữ Ố c̣n nhiều trong ông. Buổi trưa khi người nữ quân nhân mang cơm đến th́..giọng nói và cách hành xử như người ăn trên ngồi trước chứ không phải là người tu hành hay là kẻ bị quản thúc được phát cơm.
Và c̣n một điểm nữa là đến ngày đi ra ṭa, ḿnh phụ trách áp giải. V́ chỉ có ḿnh ông ấy nên ḿnh dùng xe của ḿnh. Sắp đặt th́ dỉ nhiên ḿnh ngồi bên tài xế phía trước và ông phải ngồi phía sau với một nhân viên QC. Ông nhất quyết không chịu ngồi băng sau và nhất quyết đ̣i ngồi chổ của người đi áp giải.
Oái oăm thay !!!
Từ đó ḿnh xin để mọi người biết và đánh giá về chân tu của ông này.

SQ Quân Cảnh

wonderful 03-11-2019 22:50

4 Attachment(s)
Thêm một chút tài liệu về Thượng Tọa Thích Tâm Châu với vài h́nh minh họa.

wonderful 03-12-2019 01:37

3 Attachment(s)
Chiếc giường đắt nhất thế giới chính là giường bệnh: Đừng cố kiếm tiền chỉ để mua nó...

Bài nầy đọc suy gẩm rất hay mà Wonderful thêm nhiều ư cá nhân trong đó..



Đừng dành dụm cả đời chỉ để tiêu cho chiếc giường bệnh!
Cả một đời người được ví như là một trận bóng.
Nửa hiệp trước là học hành, quyền lực, tiền tài, danh vọng, thành tích, tăng lương, tiến chức. C̣n nửa hiệp sau là huyết áp, mỡ máu, tiểu đường, ung thư, cô đơn, sầu năo.
Nửa hiệp đầu là phấn đấu hết ḿnh, nửa hiệp sau là chấp nhận, buông xuôi.
Cả một đời tranh đấu v́ lợi ích bản thân, nỗ lực v́ tương lai. Công sức, trí năo bỏ ra để phấn đấu v́ một tương lai xán lạn, no đủ, không thua kém bè bạn, để gia đ́nh được ngẩng cao mặt với họ hàng, làng xóm. Nhưng từng ấy thời gian đốt cháy năng lượng vào công việc, quay cuồng trong tiền tài sự nghiệp cũng là từng ấy thời gian sức khỏe hao ṃn, bị vắt kiệt như một chiếc giẻ lau bảng khô khốc, nhàu nhĩ, xơ xác.
Những ngày tháng sung sức nhất là những ngày tháng tuổi trẻ. Nhưng so với cả quăng dài cuộc đời th́ quăng dài tuổi trẻ chỉ chiếm 1/4 thôi. Phải nói, tuổi trẻ ngắn thật, quay đi quay lại cũng chỉ bằng một cái chớp mắt.
Vậy nên, nhiều người cứ quan niệm c̣n trẻ c̣n khỏe, phải tranh thủ tận dụng cái tuổi trẻ ấy để làm việc mà quên rằng 3/4 quăng thời gian sau, ḿnh lại cần nhiều sức khỏe hơn cả để làm những việc lớn hơn.
Không có bệnh cũng phải giữ ǵn sức khỏe
Pḥng bệnh c̣n hơn chữa bệnh. Bỏ ra 5 triệu đồng một lần đi khám bệnh tổng quát mỗi tháng c̣n hơn đi vay mượn một lúc 500 triệu để chữa ung thư giai đoạn cuối.
Không khát cũng phải uống nước, không mệt cũng phải nghỉ ngơi, bận mấy cũng phải rèn luyện. Đừng viện cớ phải làm v́ đam mê, phải làm v́ tương lai, phải làm v́ “không tiền làm sao mai sống”. Hăy đặt sức khỏe làm ưu tiên hàng đầu.
Một bộ quần áo giá 1 triệu, tờ phiếu nhỏ có thể chứng minh.
Một chiếc xe giá 1 tỷ, hóa đơn có thể chứng minh.
Một căn nhà giá 3 tỷ, hợp đồng mua bán có thể chứng minh.


Nhưng rốt cuộc, một con người trị giá bao nhiêu tiền? Chỉ có sức khỏe mới có thể chứng minh được
Hăy nhớ, sức khỏe chính là bảo hiểm của bạn. Đừng mang máy tính ra tính rằng bạn đă tiêu bao nhiêu tiền cho sức khỏe. Trên đời này, bạn nhất định phải có một món tiền phải tiêu, hoặc là để chăm sóc sức khỏe trước, hoặc là để chữa trị bệnh t́nh về sau.

Lựa chọn món nào là quyền của bạn. Có sức khỏe gọi là tài sản, không có sức khỏe th́ chỉ c̣n là di sản mà thôi.

Không coi trọng sức khỏe, dùng sức khỏe như dùng một con trâu để đi cày, rồi đến một ngày sẽ phải ngỡ ngàng v́ không biết phải t́m sức khỏe ở đâu. Nên nhớ, một khi mất đi sức khỏe là mất tất cả. Sức khỏe mất đi, không giống như khi bát cơm hết lại đầy, cũng chẳng giống như cốc nước vơi lại tràn.

Người có sức khỏe th́ có cả trăm ngàn ước mơ, người không có sức khỏe th́ chỉ có một ước mơ duy nhất là sức khỏe. Có sức khỏe là có tất cả, sức khỏe quư hơn vàng. Thời hạn của cuộc đời tùy thuộc sức khỏe, c̣n sức khỏe th́ do cách sống quyết định.

Chiếc giường đắt nhất trên thế giới chính là giường bệnh

Đầu tư vào sức khỏe chính là một trong số những món đầu tư có lợi nhất. Bỏ tiền, bỏ thời gian để tập thể dục, ăn uống ba bữa một ngày đầy đủ chất dinh dưỡng, ngủ đúng giấc, dậy đúng giờ; đồng thời, tránh xa những thói xấu hại sức khỏe.

Trên thế giới này có thể có người lái xe thay bạn, có thể có người kiếm tiền thay bạn, nhưng không có ai t́nh nguyện mắc bệnh thay bạn đâu. Đồ mất rồi đều có thể t́m thấy lại nhưng có một thứ mất đi là vĩnh viễn không c̣n t́m thấy, đó chính là sức khỏe.
Đừng cật lực làm chỉ để có ngôi mộ đẹp

Sức khỏe thật sự rất quan trọng, đứng trước ranh giới của sự sống và chết choc, các bạn sẽ phát hiện, bất ḱ những lần tăng ca nào (một thời gian dài thức đêm đó chính là đồng nghĩa với tự sát), gia tăng áp lực nặng nề cho chính ḿnh ḿnh, hay mua nhà lầu thầu xe hơi, tất cả thứ đó bỗng trở nên thật phù phiếm biết bao.

Nếu như có thời gian, hăy ở bên con bạn thật nhiều, dành số tiền tích góp tậu xe để mua tặng đôi giày cho cha mẹ, đừng quá thật lực làm việc để đổi lấy một căn biệt thự nghỉ dưỡng cao cấp, hay những thứ xa hoa nào khác, bởi chỉ cần phải được ở cạnh người ḿnh yêu, mặc dù ở một nơi nhỏ như vỏ ốc cũng cảm nhận thấy êm ấm, yên b́nh.

Nắm chắc lấy những thứ hiện tại, yêu thương bảo đảm an toàn cơ thể của chính ḿnh, chú ư rèn luyện sức khỏe, đừng khiến cuộc sống tương lai của chính ḿnh sống trong vũng lầy của sự hối tiếc. Giá trị của tiền bạc nằm ở cách sử dụng, vị ngon của coffe cũng ngon ở nhiệt độ của chính nó.

Chúng ta chẳng khi nào dự đoán được trước tương lai, nói không chừng một ngày nào đó bạn bỗng nhiên rời khỏi thế giới này, để lại cuộc đời rất rất nhiều những việc vẫn dang dở có đầy ắp cơ hội lại chẳng kịp hoàn thành.

Cách duy nhất để điều đó không khi nào xảy ra đó chính là sống trọn vẹn những ngày bạn đang sống, để mỗi phút giây trôi qua chẳng khi nào mang tên tiếc nuối.

Học cách trân trọng những năm tháng của bạn c̣n tồn tại trên cơi đời này, ăn những thứ ḿnh thích ăn, làm những việc bản thân muốn làm, xem những thứ bản thân ḿnh muốn biết, hưởng thụ hiện tại, để mỗi ngày trôi qua là mỗi một ngày đáng sống theo cách riêng của nó.


Steve Jobs cũng đă nói về sức khỏe những ngày cuối đời
Bạn có thể thuê ai đó làm người lái xe cho bạn, kiếm tiền cho bạn, nhưng bạn không thể có một người nào đó phải chịu bệnh tật cho bạn.

Vật chất bị mất có thể được t́m thấy. Nhưng có một điều mà không bao giờ có thể được t́m thấy khi nó bị mất – “CUỘC ĐỜI BẠN”.

Khi một người đi vào pḥng mổ, anh sẽ nhận ra rằng có một cuốn sách mà anh ta vẫn chưa hoàn thành việc đọc – “CUỐN SÁCH sức khỏe CỦA CUỘC SỐNG ĐĂ BAN”.

hoanglan22 03-12-2019 04:06

Woderful

Tôi có save một bài cho bạn nhưng thấy có tựa ...

năm nay năm HỢI tuổi heo của em....em tự nguyện ăn chay cho ốm bớt và con lợn ḷng cũng bớt rên rỉ ...hihih ....

Bài thứ 2 đọc suy ngẫm cũng hay trong đó có ư của bạn:thankyou::handsh ake:

PS : H́nh th́ ḿnh không load vào chung được

hoanglan22 03-13-2019 01:39

Quote:

Originally Posted by laongoandong (Post 3605896)
Nói thêm về Thích Thiện Minh :
V́ chuyện xảy ra quá lâu và nhiều chi tiết không nhớ rỏ chính xác tḥi gian nhưng cuộc đời ḿnh đă gặp phải, không bao giờ quên được. Nó nằm trong đầu ḿnh, lần đầu tiên ḿnh xin kể ra đây.
Trước khi đi vào vấn đề ḿnh xin nói thêm. Đạo nào ḿnh cũng tôn trọng nhưng con người hành đạo không tốt th́ ḿnh cũng không thể tôn trọng nữa để gọi là thầy.....

Từ đó ḿnh xin để mọi người biết và đánh giá về chân tu của ông này.

SQ Quân Cảnh

Ghi chú thêm một chút

Sư Thích Thiện Minh (1922 -1978) Phó Viện trưởng, Viện Hóa Đạo (VHĐ), GHPGVNTN (1971). Quyền viện trưởng Viện Hóa Đạo (1973)
Bối cảnh chính trị miền Nam trước 1975, trong GHPGVNTN xuất hiện nhiều khuôn mặt làm chao đảo chính trường, một trong số đó là Thầy: Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Tâm Châu, Thích Trí Thủ, v.v… quí Thầy thường xuất hiện ḥa quyện vào nhau, đan xen nhiều mặt, đến nỗi có người nh́n... Thích Trí Quang (phụ trách hành động), Thích Thiện Minh (phụ trách tổ chức - nhà chiến lược), Thích Tâm Châu (phụ trách về đường lối), Thích Trí Thủ (phụ trách cơ sở) như là “bộ tứ” gây nên sóng gió với chính trường miền Nam

laongoandong 03-13-2019 11:55

Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 3606560)
Ghi chú thêm một chút

Sư Thích Thiện Minh (1922 -1978) Phó Viện trưởng, Viện Hóa Đạo (VHĐ), GHPGVNTN (1971). Quyền viện trưởng Viện Hóa Đạo (1973)
Bối cảnh chính trị miền Nam trước 1975, trong GHPGVNTN xuất hiện nhiều khuôn mặt làm chao đảo chính trường, một trong số đó là Thầy: Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Tâm Châu, Thích Trí Thủ, v.v… quí Thầy thường xuất hiện ḥa quyện vào nhau, đan xen nhiều mặt, đến nỗi có người nh́n... Thích Trí Quang (phụ trách hành động), Thích Thiện Minh (phụ trách tổ chức - nhà chiến lược), Thích Tâm Châu (phụ trách về đường lối), Thích Trí Thủ (phụ trách cơ sở) như là “bộ tứ” gây nên sóng gió với chính trường miền Nam

Không hiểu bây giờ các "thầy" này ra sao ?! Nếu vị nào có tin tức xin cho biết. Chỉ là ṭ ṃ thôi. Gieo quả nào th́ trời cho quả đó.

hoanglan22 03-13-2019 14:02

Định Nghĩa Chữ "BẠN"
 
Bạn bè cũng như tiền:
Có tờ ... thật
Có tờ ... giả
Có tờ ... lành
Có tờ ... rách

Chỉ tiếc v́ ḿnh không phải là máy soi tiền nên không thể biết được...
AI LÀ BẠN và BẠN LÀ AI?

* Hai chữ BẠN THÂN có nghiă là:
B: bao dung
A: an toàn
N: nhường nhịn

T: thương yêu
H: hiền ḥa
Â: ấm áp
N: ngọt ngào

* T́nh bạn trong đời
Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy thật buồn và muốn khóc...
Hăy gọi cho tôi!
Tôi không hứa sẽ làm cho bạn cười, nhưng biết đâu tôi sẽ khóc cùng bạn!

Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy vô cùng đơn độc..
Hăy gọi cho tôi!
Tôi sẽ đến bên bạn, chỉ để im lặng không nói một lời, nhưng tôi muốn bạn biết rằng luôn có tôi bên cạnh.

Nếu một ngày nào đó, bạn phân vân trước những quyết định của ḿnh.
Hăy gọi cho tôi!
Tôi sẽ không quyết định thay bạn, nhưng có thể giúp bạn vững tâm hơn trước sự chọn lựa của ḿnh.

Nếu một ngày nào đó, bạn gặp thất bại trong công việc.
Hăy gọi cho tôi!
Tôi sẽ không đem lại cho bạn một công việc mới, nhưng tôi sẽ giúp bạn t́m thấy một cánh cửa khác của sự thành công.

Nếu một ngày nào đó, bạn vô cùng đau khổ v́ phạm phải sai lầm.
Hăy gọi cho tôi!
Tôi không thể sửa chữa sai lầm đó, nhưng tôi có thể giúp bạn nhận ra rằng những sai lầm sẽ giúp bạn trưởng thành và tự tin hơn.

Nếu một ngày nào đó, bạn lo sợ những điều tốt đẹp sẽ qua đi.
Hăy gọi cho tôi!
Toi sẽ không níu giữ chúng lại, nhưng tôi giúp bạn hiểu rằng mọi việc đều có những điểm khởi đầu và kết thúc.

Nếu một ngày nào đó, bạn trở nên bế tắc và tuyệt vọng.
Hăy gọi cho tôi!
Tôi không hứa sẽ làm bạn quên đi tất cả, nhưng tôi có thể giúp bạn t́m niềm tin trong cuộc sống.

Nhưng một ngày nào đó, bạn gọi mà không thấy tôi trả lời.
Bạn hăy đến bên tôi, v́ lúc đó tôi đang cần bạn!

Trong cuộc đời dù hai tiếng BẠN & BÈ thật rất ư khác biệt nhưng hai tiếng "bạn bè" vẫn thường được ghép đôi !

-Khi đắc thời đâu biết... AI là BẠN
-Lúc thất thời mới biết ... BẠN là AI
-Trong cuộc vui vẫn coi ... BÈ là BẠN
- Khi hoạn nạn mới biết ... BẠN là BÈ

ST

hoanglan22 03-15-2019 03:40

Đàn Bà, Đàn Ông
 
Đàn Bà Đàn Ông có những đ́ểm khác nhau như người viết mới tŕnh bày sơ sơ ở phần 1, thế mà trời sinh họ vẫn thương nhau, thế mới mệt và khổ cho cuộc sống con người! Bởi v́ sao? Bởi v́ họ bị trúng mũi tên Yêu rồi nhỉ?

SL xin mời qúy bạn đọc tiếp Đàn Bà Đàn Ông để khám phá ra họ c̣n khác nhau về đ́ểm nào nữa và họ làm như thế nào để có thể "sống chung ḥa b́nh" nhé. Smile!
SL

Đàn Bà Đàn Ông

Hay là:

Lúc xem TV, đến phần quảng cáo thương mại các ông thường bóp cái tầm xa (remote control) lia lịa để đổi đài, ngược lại các bà th́ nhẫn nại hơn và vẫn tiếp tục xem phần quảng cáo một cách b́nh thản… Các bà thường phàn nàn các ông sao làm biếng kéo nắp toilet xuống quá mỗi khi tè xong, c̣n các ông th́ càu nhàu tại sao các bà sao không chịu dỡ nắp lên khi các bà xong việc cho người ta nhờ một tí… Các bà thường hay tỉ mỉ từng ly từng chút, chi tiết quá trời nên thường trách các ông sao quá bừa băi. Đàn ông thường phải mất rất nhiều thời giờ để t́m được 2 chiếc vớ cùng màu bỏ lộn xộn không thứ tự trong ngăn tủ, nhưng ngược lại các CDs của họ đều được xấp xếp rất ư là có thứ tự trên bàn. Đàn ông phải mất cả buổi mới t́m ra xâu ch́a khóa xe bị thất lạc, trong khi Đàn bà t́m ra ngay chỉ trong một thời gian rất ngắn…

Hoặc là:

Đàn ông có khiếu xác định vị trí trong không gian, họ đọc bản đồ rất nhanh và t́m ra hướng Bắc rất dễ dàng. Nhờ năng khiếu này mà thuở tạo thiên lập điạ, người Đàn ông mới có thể đi săn thú trong rừng để nuôi sống gia đ́nh. Đàn bà nếu có xem bản đồ họ thường xem ngược ngạo. Lỡ có lạc đường, th́ các bà thường mau mau ngưng xe lại trạm xăng để hỏi thăm, c̣n các ông th́ ít chịu làm như vậy để khỏi bị chê là ḿnh quá yếu quá dở. Các ông thường ráng chạy loanh quanh cả tiếng đồng hồ để t́m đường, miệng th́ lẩm bẩm: “h́nh như tôi có thấy chỗ này rồi”...
Đàn bà thường có thị giác ngoại biên rộng lớn (wider peripheral vision), Đàn ông th́ có thị giác hẹp hơn nhưng lại thấy rất xa (narrow tunnel vision). Bởi vậy, nếu có lái xe đường xa, người ta khuyên nên để Đàn bà lái xe lúc ban ngày sáng tỏ, c̣n Đàn ông th́ nên lái xe lúc về đêm tăm tối v́ họ có thể nhận thấy các xe khác từ xa ở phía trước lẫn phía sau.

Đặc biệt nhất là:

Năo của Đàn ông chỉ program để làm mỗi lần một việc mà thôi. Họ chỉ sử dụng có 1 bán cầu năo (thường là phía trái) để suy nghĩ. Mỗi khi ngừng xe lại để đọc bản đồ là họ cần phải vặn nhỏ cái radio xuống rồi mới có thể đọc được. Đang xem TV mà bà xă hỏi th́ có ông nào nghe đâu. Bởi vậy lúc các ông xă đang lái xe các bà xă đừng nên nói đừng nên hỏi ǵ hết có thể nguy hiểm đó! Ngược lại ở Đàn bà, mỗi khi suy nghĩ họ thường sử dụng cả 2 bán cầu năo phía trái và phía phải, và nhờ vậy các bà có thể dễ dàng làm được nhiều việc cùng một lúc. Đàn bà có thể vừa đọc sách và vừa nghe radio hoặc vừa làm bếp nấu nướng vừa nói điện thoại. Các bạn có để ư không, trong các siêu thị ở quày trả tiền thường các cô thu ngân viên, mắt vừa nh́n các món hàng, tay th́ bấm máy lia lịa, đôi khi vừa làm vừa trả lời khách hàng hoặc vừa viết và vừa nói điện thoại kẹp nơi cổ. Nếu được hỏi th́nh ĺnh phía nào là tay phải, phía nào là tay trái, các bà thường hay lộn nếu họ không nh́n vào chiếc nhẩn đeo trên tay.

Xin mời quư bạn đọc tiếp thêm một vài câu danh ngôn nói về đàn bà:

1. Cả cuộc đời của người phụ nữ là một bài lịch sử về những yêu thương. (Washington Irving)
2. Nếu phụ nữ không hiện hữu, tất cả tiền bạc trên thế giới đều vô nghĩa. (Aristotle onassis)
3. Quả tim của người đàn bà không bao giờ già cỗi, và một khi nó không yêu nữa th́ đó là v́ nó đă ngừng đập (P. Rochepedre)
4. Rung động, yêu thương, đau khổ, hy sinh, tất cả sẽ măi măi là những trang t́nh sử của người đàn bà. (Honoré De Balzac)
5. Nơi nào có người đàn bà đẹp, th́ nơi đó có người đàn ông thở dài. (Tục Ngữ Hung-Ga-Ri)

Dĩ nhiên qúy bạn cũng cần nên đọc một vài danh ngôn về quư ông nữa cho vui chứ lị:

1. Tài hoa, đạo đức, anh hùng, người đàn ông nên có đủ ba tính chất ấy (Tản Đà)

2. Đàn ông thựng hay yêu nhưng yêu ít

Đàn bà rất ít yêu nhưng yêu đậm đà (Basta)

3.- Lúc c̣n làm t́nh nhân th́ người đàn ông là người khổ, lúc thành vợ chồng th́ người đàn bà là người thiệt tḥi nhất ( Shakespeare)

4.- Nhi nữ thường t́nh, anh hùng khí đoản (Cổ ngữ Trung Hoa)

5.- T́nh Yêu vào trong người đàn ông qua con mắt, vào trong người đàn bà qua lỗ tai (Ngạn ngữ Ba Lan)

Đàn ông và đàn bà có nhiều sự khác biệt nhau như thế nhưng: “Đàn ông ở một ḿnh không tốt.” (Kinh Thánh) cho nên Thượng Đế đă kết hợp đàn ông đàn bà phải yêu thương nhau, săn sóc, giúp đỡ lẫn nhau và sống hạnh phúc bên nhau như lời kết dưới đây:

Chồng giận th́ vợ bớt lời.
Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.

Đầu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon.

(Ca Dao Việt Nam)

Đàn Ông Đàn Bà của Nguyễn Thượng Chánh

hoanglan22 03-15-2019 03:54

Hệ thống tiền tệ Mỹ .
 
Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ



B.S. Nguyễn Lưu Viên

------------ --------- --------- --------- --------- --------- ---

Lời nói đầu

Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của chánh phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của Ông Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA của Mỹ nên mù tịt. Nhưng v́ ṭ ṃ muốn hiểu biết, nên tôi đă cố gắng t́m ṭi, học hỏi đó đây. Th́ mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm, [un vrai labyrinthe avec des souterrains] một con đường máng dện chằng chịt mà nếu đi không có bản chỉ dẫn th́ sẽ dể bị lạc.



Rồi tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y Tế Nguyệt San chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt như tôi, nhưng không có th́ giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này tóm lược và giản-dị -hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đă kéo dài theo lịch sử của Hoa-kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà ḿnh phải đ6í phó hằng ngày. Tôi sẽ dùng phương pháp hơi và đáp [H & Đ] để dẫn đường quư bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.



Tôi xin lưu ư quư bạn: V́ trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal Reserve, CPLB là Chánh Phủ Liên Bang, HCQHK là Hiệp Chũng Quốc Hoa-Kỳ USA và T.T. là Tổng Thống.

------------ --------- --------- --------- --------- ------

I- Tạo ra tiền [create money].

H-: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vây ở bên Mỹ cơ quan nào có quiyền phát hành dollar?

Đ-: Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lư là Bộ Tài Chánh của C PLB . Nhưng trên thực tế th́ không hẳn như vậy. Bộ Tài Chánh của C PLB chỉ có quyền phát hành “coins” nghĩa là đúc [mint] các dồng tiền One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.

H-: Vậy th́ cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?

Đ-: Chỉ có Federal Reserve [FED] mới có quyền phát hành giấy xanh dollar.

H-: Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có h́nh của một ông Tổng Thống Mỹ, cũng có chữ kư tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là ǵ ?

Đ-: Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ.

H-: Ai nợ ai?

Đ-: Chánh Phủ Liên Bang nợ FED.

H-: Sao lại có chuyện đó?

Đ-: Số tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên C PLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào? Bằng cách cho phép Bộ Tài Chánh [The Treasury Department] in giấy nợ dưới h́nh thức “Federal Bonds” [là giấy IOU (I Owe You) trong đó chánh phủ cam kết sẽ trả lại với tiền lời] [mà bách-phân lời (% interest) là do FED. chủ nợ, quyết định]. FED chấp nhận và in [thí dụ như một tỷ dollars $1 billion] đưa cho chánh phủ. Thế là chánh phủ [tức là quốc gia, là dân Mỹ] nợ FED một tỷ dollars với tiền lời. Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên đến năm 1995 số tiền nợ là $5 trillion [1 trillion là 1 ngàn tỷ] và đến ngày 16-th.3-2006 là hơn $8,21 trillion.

H-: FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy C PLB mà nợ FED th́ có khác ǵ là “Tôi nợ Tôi”.

Đ-: Khác, v́ FED là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” [Federal] nhưng không phải của Liên Bang. FED là một công-ty độc lập của tư-nhân [a corporation independent privately owned].

H-: Privately owned th́ ai own nó?

Đ-: Federal Reserve [FED] gồm có 12 cái Fed bank địa phương [twelve regional federal reserve banks] mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành viên của cái Fed địa phương đó Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas.



Fed Bank của New York có đa số cổ phần [53% of shares]. Mà trong Fed bank của New York , Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia-đ́nh Rockefeller và J.P. Morgan Chase Co là của gia-đ́nh Morgan. Hai gia đ́nh này và gia đ́nh Carnegie với gia đ́nh Rothschild là thành phấn quan trọng nhứt của một nhóm người mà hoc giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” [những Nam-tước Trộm Cắp].

H-: Nhưng trong Ban Quản Trị [Board] của FED ở Washington có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [the Treasury Secretary] và Ông Giám Sát Ngân Khố [the Comptroller of Treasury] là nhân viên chánh phủ.

Đ-: Vâng, v́ vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ kư tên của hai ông này. Và T.T. Mỹ cũng bổ nhiệm [với sự chấp thuận của Senat] ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị [Chairman of The Governing Board] của FED, cho nên FED được coi như là một cơ-quan “gần như chính thức” [ quasi-governmental] . Hội Đồng này gồm có 7 người, với nhiệm kỳ là 14 năm, mà Tổng Thống chỉ có quyền thay thế một người mỗi hai năm.



Như vậy, thí dụ như có một ông T.T. muốn sữa đổi FED theo ư của ông, th́ trong nhiệm kỳ 4 năm của T. T, ông chỉ thay thế được có 2 người [v́ ông chỉ có quyền thay thế một người mỗi 2 năm.] Thôi th́ cho rằng ông ấy là một ông T. T. tài ba lổi lạc, vượt qua được những khó khăn và những chống đối mà ông đă gây ra [v́ quan niệm muốn sửa đổi FED], trong hàng ngũ dân-biểu và nghị sĩ của cả hai đảng, trong chính trường và trong media, để ông được đắc cử một nhiệm kỳ thứ hai, th́ ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong Governing Board (nếu được the Senate chấp thuận) th́ cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, ông mới đưa ra được một dự luật sữa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số phiếu cần thiết ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông phải rời khỏi Nhà Trắng.



Mặt khác ban Quản Trị [Board] không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo chánh sách của Fed Bank New York nắm đa số cổ phần. Vă lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay, chưa bao giờ bị chánh phủ “audit”[ soát xét ] v́ năm 1975 dự luật [bill] H.R.4316 cho phép chánh phủ “audit” FED, được đưa ra Congress, nhưng dự luật không qua được v́ không đủ phiếu.



Hảy xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty [corporate director] cho J.P. Morgan, th́ được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của FED, giử chức đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời T.T.George W. Bush mới về hưu. Nghỉa là đă làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị FED với bốn T.T. Mà trong lúc tại chức Ông không bao giờ có hợp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi.

H-: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, c̣n quyền phát hành giấy xanh là của FED, mà FED th́ bị các nhà bank tư nắm. Vậy trong tổng số tiền của Mỹ, tỹ-lệ của mổi thứ tiền là bao nhiêu?

Đ-: Tiền coin của CPLB đúc chỉ là lối một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy được” [tangible currency] chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp [American Money Supply]

H-: Sao kỳ vậy? C̣n 90% kia là tiền ǵ ở đâu ra?

Đ-: Phần 90% c̣n lại là tiền ma [phantom money].

H-: Tiền ma là tiền ǵ?

Đ-: Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chổ không có ǵ hết [money created from nothing], do cái tṛ ảo-thuật cho vay [gọi là “loan”] tạo ra.

H-: Thật sự tôi không hiểu được.

Đ-: Thực ra th́ cũng không có ǵ khó hiểu cho lắm. Tṛ ảo thuật tạo ra tiền từ con số không [create money out of nothing] dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đao-luật tạo ra FED [Federal Reserve Act] cho phép. Theo đó th́ khi mà nhà bank có trong kho của nó một số tiền X là tiền thật [hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh] được coi như là để dự-trữ [reserve], th́ nó có quyền phát ra 10 X [tức là có 9 X tiền ma, không có bảo đảm reserve].



Thí dụ như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi $ 10,000 th́ nhà bank để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra $100,000 [tức là trong đó có $ 90,000 là tiền ma, v́ không có reserve bảo đảm] Cũng như thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, th́ nhà bank có quyền phát ra $200,000 [tức có $180,000 là tiền ma]. Tổng cộng nhà bank có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi khi Anh C đến mượn nhà bank $300,000 [để mua nhà, sửa nhà hay làm ǵ khác] th́ nhà bank cho ảnh mượn [dưới h́nh thức loan] $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời [x %] dưới h́nh thức mortgage hằng tháng, trong 15 hoac 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà Anh C có được nhờ lương của Anh C, hoặc nhờ việc làm [như pḥng mạch] của Anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo-thuật của “loan” đă “create money out of nothing”.



Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẩu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hăng, là cơ sở sản xuất, th́ tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hăng, xưởng v.v. cân tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới h́nh thức “loan” th́ không có ǵ lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ [american money supply] năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật [tangible currency] chỉ có $ 1.4 trillion, c̣n $8.3 trillion là tiền ma. Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng credit card [Visa, Master Card, American Express v.v.] với một lải xụất [% interest] c̣n cao hơn gắp bội.



II- Một chút lịch sử.

H-: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?

Đ-: Anh nói là “quái thai” th́ cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED như một con “Hydra”. Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu [trong thần thoại] hể chặt đầu này th́ nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái ṿi [tentacles] rất dài để bắt mồi từ xa. FED [con hydra dưới h́nh thức hiện tại] sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng Thống Woodrow Wilson kư [về sau ông hối tiếc]. C̣n từ đâu và tại sao có nó, th́ phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK v́ trong dĩ văng nó cũng đă bị chặt đầu nhiều lần, mổi lần lại sống lại với một tên khác.

H-: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?

Đ-: Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.



Ở Trung học chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc. Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà [tea tax] một buổi tiêc trà được tổ chức ở Boston [Boston Tea Party]. Trong dịp đó một số người Mỹ giả làm người Da-đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà xuống biển. Bị chánh quyền cai trị đàn áp, những đ̣an dân quân được thành lập để chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một Hội Nghị gọi là Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của Người Mỹ Có Đống Thuế” [Delaration des Droits du Contribuable Americain] năm 1774. Sau đó, với sự chiến thắng của đoàn dân quân của Massachusetts , Congress cho ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lâp [Déclaration d’Indépendance ngày 4-th7-1776.] Rồi dưới sự chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Ḥa Ước Versailles năm 1785 Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.



Nhưng sau này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.



1-V́ không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, v́ dân, không t́m cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu th́ phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chánh phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát [inflation] hay sự kém phát [deflation] nên giá vật và giá công [product and service] vẫn được đều ḥa và thăng bằng Nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc mà ở London của mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lổng [The streets are covered with beggars and tramps]. Th́ các chủ nhà bank Anh [the British bankers] lobby triều đ́nh, nên năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins” của mẩu-quốc [do các nhà bank Anh đă hợp thành một thể dưới tên là Bank of England phát hành]. Vua George III kế vị vua cha từ năm 1752 giữ nguyên lênh ấy. Th́ các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. V́ thiếu tiền coins [do mẩu quốc siết để tạo sự kém phát deflation], người làm ruộng hay trồng tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái không ai hái. Người có hảng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả dân trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo đói không gia đ́nh nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng lên chống đối chánh quyền và đó là nguyên do sâu xa của cuộc Cách Mạng Mỹ năm 1774. Cái”Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái b́nh.



2- Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới h́nh thức IOU [I owe you.] nghĩa là giấy nợ mà Chánh Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coins [vàng hay bạc] sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới h́nh thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc lập. Th́ mẫu quốc phản ứng bằng cách in tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không c̣n giá trị ǵ hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế [dính liền với tài chánh].



3- V́ thấy tiền Continental gần như không c̣n giá trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc [the Founding Fathers], không c̣n tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” [thay v́ “create money”] và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ [“and to borrow money on the credit of the United States]. Th́ các nhà bank của mẫu-quốc Anh củ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Ḥa-lan [Amsterdam] nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó [the enormous loophole] mà nói rằng chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. V́ tiền coins th́ cồng kềng và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins [bằng vàng hay bạc] ghi trên giấy, th́ dân chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.



4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ư rằng rất ít người trở lại nhà bank để đ̣i lấy lại đồng tiền coins. Trung b́nh hằng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, c̣n 90% người c̣n lại th́ không bao giờ thấy đến đ̣i lấy lại tiền coins. Th́ nhà bank nghĩ rằng ḿnh có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma.



5- Tổng Thống Thomas Jefferson (1801-1809) vị T.T. thứ ba của Mỹ thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đ̣an các nhà bank [the banking cartel] là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con hydra” và Ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của ḿnh, th́ trước hết bằng sự lạm phát [inflation] rồi bằng sự kém phát [deflation] các nhà bank và các công ty [corrporations] sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, th́ con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đă chiếm được.” Nên năm 1811 Congress không chấp nhận tái ban cho đặc quyền [renew the charter] cho First U.S.Bank. Th́ chiến tranh với Anh quốc [the War of 1812] bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát [inflation] và nợ nần [debt]. V́ những lư do đó, Tổng Thống James Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải kư một đặc quyền 20 năm [a twenty year charter] cho Second Bank of The United States vào năm 1816.



6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837) vị T.T. thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiép tục ban đặc quyền cho Second Bank of the United States . Trong bản veto Ông viết:” Không có cái ǵ nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, th́ c̣n đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”.



Nhưng Ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với nhà bank nên Ông nói: “ Con hydra của sự đồi bại mới bị chận lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [Treasury Secretary] mới của Ông, chuyển hết tiền deposits của chánh phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang [state banks] th́ ông này từ chối không làm. Ông T.T. cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác Ông này cũng từ chối không làm th́ T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, Ông này thi hành lệnh nên T.T. Jackson vui mứng mà nói: “ Tôi đă trói được con quái vật rồi” Nhưng ông chủ nhà Bank, lobby được Senat không chấp thuận người được Tổng Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát [deflation] bằng cách hồi [call in] các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên một sự hoảng hốt tài chánh [a financial panic] xẩy ra trong dân chúng, th́ báo chí lại đổ tội vào đầu Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor của Pennsylvania [là nơi có trụ sở của nhà bank] xuất hiện để ủng hộ T. T. Jackson và phê b́nh nhà bank rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đọan kinh tế của nhà bank bị phơi bày trước công chúng.



Cho nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện [House of Representatives] với 134 phiéu thuân và 82 phiéu chống, đă hủy bỏ việc tái ban đặc quyền [rechartering] cho Second U.S.Bank. Đến tháng 1- 1835 th́ T.T. Jackson trả được hết các nợ của chánh phủ. Rồi ngày 30-th.1- 1835, khi T.T. Jackson đến Capitol để dự tang lể của Dân-biểu Warren R. Davis của South Carolina th́ ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong rotunda cách Ông có sáu feet bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi T.T. Jackson đóng cửa nhà bank trung ương [Central Bank] th́ tiền giấy được dùng là những banknotes của của các nhà banks tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia [national currency].



7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám đánh con hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16 của Mỹ. Liền sau khi Ông đắc cử và trước khi Ông nhậm chức th́ Nội Chiến Nam-Bắc [The Civil War] bùng nổ (1860) v́ vấn đề “Nô-lệ” [Slavery]. Các nhà bank của vủng Đông [tức là thuộc về Union ] đề nghi cho chánh phủ vay $150 triệu với bách phân lời quá nặng từ 24 tới 26%. T. T. Lincoln từ chối và quyết định chánh phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback” v́ phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ [IOU] với cam kết trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xă hội. Công lao sản xuất [product] từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao dịch vụ [service] từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh trật tự, và ǵn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thơ kư đến giam đốc đến nguyên thủ quốc gia. Lănh lương là lănh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của ḿnh để nhận lấy món hàng được sản xuất với công lao tương đương của người bán.



V́ tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và v́ dân, chớ không phải cho hay v́ tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông Benjamin Franklin lúc Hoa kỳ c̣n là 13 thuôc địa phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng lọan Miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, T.T. Lincoln đă thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như: xây dựng và vơ trang một quân đội lớn nhứt thế giới lúc bấy giờ, biến Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ [industrial giant], kỹ nghệ thép [steel industry] được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên luc-địa dược xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy viêc chế tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành chánh cho các vùng Miền Tây, tăng múc sản xuất lao động [labor productivity] lên từ 50 đến 75 %. Tất cả những viêc ấy thục hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con hydra tiền tệ đă bị T.T.Lincoln chặt.



Nhưng đến ngày 14-th.4-1865, th́ một kịch-sĩ tên là John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang xem tuồng hát Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại. Và đầu nó mọc lại thật, v́ dân vẩn thích có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar vàng. Th́ các nhà bank phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 th́ một con hydra mới xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.



III- Tân hydra chào đời.

H- : Tai sao có Luật đó?

Đ-: V́ năm 1907 xẩy ra một cuộc “Kinh Khủmg Tài Chánh” [a Financial Panic] nên năm 1908 T.T.Theodore Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ26 của Mỹ, cho thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chánh. Chủ tịch của Commission đó là Ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich [bên ngoại của David Rockefeller Sr.]. Ông Aldrich dẫn cả commission đi tour sang Âu-châu để nghiên cứu trong ṿng hai năm. Rồi khi trở về, Ông lập lên, một cách ḥan ṭan bí mật, một nhóm bị gọi là “The First Name Club” v́ cấm triệt để không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người sẽ đống vai quan trọng nhất là Ông Paul Warburg (1868-1932) người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, được quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york [thuộc vào tài sản của Rothschild].



“First Name Club” được triệu tâp đến một ḥn đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, hợp trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp tiền tệ [the banking and currency legislation] sẽ tŕnh cho Congress.



H-: Trong dự luật có cái ǵ là đặc biệt?

Đ-: Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: v́ dân đă quá ghét. nên phải tránh cho kỳ được cụm-từ “Central Bank “ rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ quan này là của chánh phủ, do nhân viên chánh phủ điều khiển v́ vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ [chớ không phải là Central Bank] và có Governing Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân viên chánh phủ, mà trong thực tế th́ Governing Board không có điều khiển được chánh sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu thực ư: như trong Lời Mở Đầu [Preamble] của dự luật nói: Mục đích của luật là để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dăn” [to furnish an elastic currency] nghĩa là ǵ?



Trong thực tế nghĩa là tiền mà nhà bank đă có th́ nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu “[rediscounting] nghỉa là ǵ? Trong thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép một nhà bank trung ương tư [a private central bank] tạo ra tiền từ chô không có ǵ hết [create money out of nothing] rồi cho chánh phủ vay số tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bôm pḥng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ư muốn [control the national money supply, expanding or contracting it at will.]

H-: Thế mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao?

Đ-: Có chớ. một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles Lindbergh Sr. [bố của phi công trứ danh Lindbergh] nói:” Luật tạo ra FED là một cái tội pháp luật tệ hại nhứt của mọi thời đại Hệ thống tài chánh đă bị lật lại cho một nhóm ngừơi chỉ có biết lợi dụng Hệ thống là của tư-nhân, được hướng dẫn về muc tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc xử dụng tiền của người khác “.



Và cũng c̣n một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại số dân biểu và nghị sĩ đă bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York ngày 25-th.6-1863 rằng: “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là ǵ, th́, hoặc là v́ thấy có lợi cho ḿnh, hoặc là v́ đă tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. C̣n nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu, th́ sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”



Bởi vậy cho nên ngày 18-th.9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện th́ ngày 19-th.12-1913, dự luật được chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây lại có một việc lạ nhứt chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viên không đồng ư nên đă sửa lại. Th́ sau khi Thượng Viên biẻu vquyết, hai Viện phải ngồi chung lại để sữa lại sao cho cả hai bên đều đồng ư. Thế mà việc đó được thực hiện chỉ có trong một weelend. .Cho nên ngày Thứ Hai 22-th.12-1913 dự luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống rồi, cùng ngày, sang Thượng Viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu chống. Và T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vị T.T.thứ 28 của Mỹ kư thành Luật ngày hôm sau Thứ Ba 23 th.12-1913.



Tất cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền thống của Quốc Hội và của Chánh Phủ Mỹ là không bao giờ Lập Pháp Congress [Thượng và Hạ Viện] thảo luân và biểu quyết một Dự Luật vào lúc gần Noel, để cho Congress “recess” [thường thường là kể từ 15, 17 Dec.] và các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê của ḿnh ăn mừng Christmas và New Year, và không bao giờ Hành Pháp [Chánh Phủ] kư một Đạo Luật vào Noel để cho T.T. về nhà riêng hay “ranch” của ḿnh ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ này Thượng Viên hợp lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả hai viện làm việc với nhau weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai viện, hơp lại, thảo luận và biểu quyết dự luật, và ngày Thứ Ba 23 Dec. T.T. kư thành Luật.



Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này thành lâp cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà T.T. kư cái dự luật này (thành Luật), th́ cái chánh phủ vô h́nh của Mănh Lực Tiền Tệ sẽ được hơp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau mà thôi”. Trong lúc đó th́ báo chí [đă ở trong tay của “Mănh Lưc Tiền Tệ”] th́ ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang đầu: “Tổng Thống Wilson kư Dự Luật Tiền Tệ Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai câp.

H-: Thế là con hydra được khai sanh là đứa con hơp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước?

Đ-: Hay đúng hơn th́ phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.

H-: Nói ǵ lạ vây, đứa em song-thai nào?

Đ-: Khi nhóm của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có Ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để tŕnh cho Congress, họ đă tiên đóan rằng với sự áp dụng luật này th́ C PLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tím cách làm sao cho phép chánh phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED. th́ họ kèm theo dự luật FED một Tu-Chỉnh Hiến Pháp [là the Sixteenth Amendment] cho phép C PLB đánh thuế income tax vào dân. Lúc ấy bản văn của Tu-Chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên Bộ Luật về thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ th́ nó dày đến 17,000 trang, cũng như nợ của chánh phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là $8.5 trillion.

H-: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?

Đ-: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của ḿnh mà thôi.

H-: Đă được hơp-pháp-hóa rồi, con hydra c̣n phá phách ǵ nữa không?

Đ-: Nói là phá phách th́ không hẳn là phá phách, nhưng khi được hơp-pháp-hóa rồi th́ FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.

H-: Tai nạn ǵ?

Đ-: Cuộc Đại Khủng Hoảng [The Great Depression] năm 1930.

H-: Bằng cách nào?

Đ-: Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua tṛ ảo-thuật “loan”. Để khuyến khích dân vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời [% interest] th́ dân ùn ùn vay loan và loan để có tiền tiêu xài thả ga. Th́ nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát [inflation]. Rồi nói là để kềm hảm sự lạm phát, th́ lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các loan đả phát ra, không cho vay loan mới, th́ dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mănh Lực Tiền Tệ [Monetary Power] có tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. C̣n con cháu những người thiếu nợ th́ trở nên vô gia cư vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu ngoài đường như hồi Mỹ c̣n là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua George III, trước ngày Cách Mạng Mỹ [American Revolution] năm 1774. Nhưng nhờ chánh sách “New Deal” của T.T.Franklin D.Roosevelt (1933-1945) vị T.T. thứ 32 của Mỹ, và việc lập lên cái FDIC [Federal Deposit Insurance Corporation] mà t́nh thế trở lại yên ổn. Giáo sư Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế, viết: “Nhứt định là FED đă gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng v́ thu rút lại một phần ba [1/3] số tiền đang lưu hành.từ năm 1929 tới năm 1930”.



C̣n Ông Louis T. McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, th́ nói: “Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế t́m cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”

H-: Thế rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào dám đụng tới FED nữa?

Đ-: Có chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-th.6-1963 T.T. Kennedy kư một Hành Pháp Lệnh [an Executive Order số 11110] cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài Chành The Treasury phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi bạc, bạc, hay là mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ [the power to issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in the Treasury] Nghĩa là một khi Bộ Tài Chánh có trong kho một ounce bạc nào, th́ Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu hành trong nền kinh tế. Như vậy T.T.Kennedy đă tung ra $4.3 tỷ dollars cho lưu hành. Th́ FED bank của New York sẽ phá sản, v́ dân chúng biết rằng các giấy chứng nhận bạc [silver certificates] của Chánh Phủ được bạc yểm trợ [backed by silver] chớ giấy bạc của FED [Federal Reserve Notes] không có cái ǵ yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên c̣n giúp chánh phủ trả hết nợ của ḿnh mà không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức là trên thực tế Lệnh sô 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của ḿnh có bạc yểm trợ, đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ.

Năm tháng sau, ngày 22-th.11-1963, T.T.Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát và tên này hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Dallas Police Station.

H-: Như thế th́ phải chăng là một nhóm tài phiệt cai trị xứ này v́ người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” phải không?

Đ-: Tôi không dám trả lời là phải hay là không [yes or no] v́ tôi không đọc được sách nào nói rơ là đă có một ṭa án nào kết án một người nào trong giới Mănh Lực Tiền Tệ [the Monetary Power] hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp [the Robber Barons] về tội dùng tiền của ḿnh mua được quyền thế. Cho nên tôi xin để cho quư bạn đọc mỗi người kết luận theo ư kiến của ḿnh.



Tôi chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, th́ tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của những vị Tổng Thống đă có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ: T.T.Andrew Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám sát.


Tài liệu được tham khảo:

The Web of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium, Baton Rouge , 2007

hoanglan22 03-19-2019 01:58

Bắc Việt Gửi Thư Đầu Hàng HK 1972
 
Vào năm 1972, Bắc Việt đă gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm
Thứ Hai, 26 Tháng 4 Năm 2010 05:35
Đây là sự thực của cái mà Đảng CSVN huyênh hoang về chiến thắng đánh "Mỹ nguỵ". Bắc Việt đă đầu hàng, nhưng Kissinger có ư đồ riêng, không chấp nhận.



Đoạn video tài liệu được giải mật, dài 3:50, có 2 phần. Phần 1 dài 1:50 là bản dịch tiếng Việt không có âm thanh. Phần 2 c̣n lại nói Tiếng Anh và có âm thanh. Xem để biết CS Hà Nội đă gởi điện thư đầu hàng vô điều kiện nhưng bản văn đă bị ém nhẹm...
Những tài liệu bất ngờ cùng nhân chứng cao cấp của chính quyền Hoa Kỳ cho biết sau năm 1968, CSVN đă bị kiệt quệ nhân sự v́ hầu hết các lực lượng chính quy chủ lực quân cộng sản bắc Việt đă bị Mỹ và VNCH tiêu diệt . Vào năm 1972 máy bay B52 đă san bằng Bắc Việt đưa tới sự việc lănh đạo đảng CSVN gửi điện thư Đầu Hàng Vô Điều Kiện tới pḥng truyền tin Hoa Kỳ. Bức điện thư đầu hàng của CSVN đă được pḥng truyền tin gửi về NGŨ GIÁC ĐÀI .
Thay v́ tuyên bố cho thế giới biết về sự việc cộng sản bắc Việt đầu hàng.Nhưng ngược lại, CIA đă đưa về nước 79 nhân viên pḥng truyền tin Hoa Kỳ và thay đổi hoàn toàn nhân viên mới.
Điện thư đầu hàng của CS bắc Việt đă được ém lại.

Trên 80% quân đội nhân dân Trung cộng đă đánh chiếm cao nguyên miền Nam VNCH, Lính Trung cộng đă ngụy trang cộng sản bắc Việt xâm chiếm miền Nam Việt Nam.!!! Tại Sao ???

Chúng tôi phỏng vấn anh Nguyễn Hoàng Việt về sự kiện nầy.

Thu Hiền: Xin anh cho biết những sự kiện bất ngờ về việc CSVN đă đầu hàng VNCH từ năm 1973, thêm sự việc quân Trung Quốc ngụy trang lính Bắc Việt đánh chiếm Miền Nam VN vào năm 1975, anh nghĩ sao về vấn đề nầy?

Hoàng Việt: Tôi nghĩ tất cả là sự thật nhưng nguyên do tại sao chính quyền Ḥa Kỳ lúc bấy giờ không tuyên bố bức điện thư đầu hàng từ của CSVN mà lại t́m cách ém chuyện nầy đó là điều ḿnh phải cần phân tích.

Ông Ted Gunderson là nhân viên đặc nhiệm ở Los Angeles và Washington DC (Special Agent in Charge, Los Angeles, Special Agent in Charge, Washington,D.C. offices) Trong thời gian cuộc chiến tranh VN ông ta là Trưởng Pḥng điều tra, làm việc với những hồ sơ thuộc loại bảo mật quốc pḥng (high-profile cases) . Trong thời gian gần đây, ông đă tiết lộ cho biết là CSVN đă có điện thư đầu hàng Đồng Minh vào đầu năm 1973 trong một cuộc nói chuyện tại Washinton DC, ông cho biết như vậy . Trong cuộc nói chuyện nầy được nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ hỏi về chiến dịch "Operation Linebacker" là chiến dịch dùng B52 để san bằng, tiêu diệt quân đội Bắc Việt đă đưa tới kết quả nào th́ ông cho biết là CSVN đă đầu hàng sau đó . Chiến dịch "Operation Linebacker" bắt đầu từ mùa Xuân 1972.

Thu Hiền: Như vậy anh cho biết tại sao tin CSVN đầu hàng không được phổ biến để rồi kết quả cuộc chiến ngược lại ?

Hoàng Việt: Ông Ted Gunderson cho biết là trong thời gian làm việc tại VN, ông đă tiếp xúc nhiều sĩ quan cao cấp Quân Đội Hoa Kỳ nhất là nhân viên thuộc pḥng Truyền Tin bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại VN, họ đă cho ông biết về bức điện thư CSVN tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh vào đầu năm 1973 . Bức điện thư đó cho tới nay vẫn chưa được giải mă, Ông Ted Gunderson c̣n cho biết thêm là tất cả các nhân viên thuộc pḥng truyền tin sau đó đă được CIA thay thế toàn bộ ! Tôi t́m ra được một đoạn Video Ông Ted Gunderson có nói về vấn đề nầy.

hoanglan22 03-19-2019 02:03

Bí Ẩn 30-4-1975
 
1) Mở đầu
Đối với đa số người Việt đă từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một b́nh luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "T́nh h́nh thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đă đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.

Từ hồi c̣n là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đă may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đă đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "T́nh h́nh thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đă phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.

2) Ai đă gây ra thảm họa 30.04.1975?
Câu hỏi lịch sử này cũng đă được bàn căi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lư để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển h́nh nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nh́n Lại" ("Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhă, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa măn cho sự thắc mắc: Ai đă gây ra thảm họa 30.04.1975?

Nh́n trở lại, người ta có thể thấy rơ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều t́m cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đă làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rơ nguyên nhân chính nào đă khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đă có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đă dự đoán bởi v́ vụ x́ căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đă làm tê liệt mọi cố gắng để cứu văng t́nh thế.

Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.

- Trong ḍng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đă rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.

- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc pḥng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. V́ vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đă khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.

Tham dự Ḥa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó c̣n làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm"!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị th́ các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rơ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan t́nh báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy c̣n chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển h́nh như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Gịng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đă sớm nh́n thấy rơ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là ḥa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).

Như vậy thảm họa 30.04.1975 đă xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?
a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ
Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai tṛ thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.
Điển h́nh là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan)
Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ politicians# List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng th́ sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ c̣n lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lănh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển h́nh gần đây như:

- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!).
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton...
- Trong Bộ Quốc Pḥng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.
- Trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- Trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.

Họ c̣n chủ động nắm những lănh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền h́nh, và điện ảnh...

Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ entertainers). Họ biết rơ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ c̣n điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.

Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển h́nh nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính v́ vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đă cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ.

b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rơ, chúng ta phải t́m hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi v́ đế quốc La Mă. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đă đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính v́ chuyện này đă làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính v́ có niềm tin mănh liệt vào Do Thái Giáo, họ đă đoàn kết nhau lại dưới sự lănh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đă tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đă lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đă yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

Như vậy, Do Thái c̣n tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ v́ duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhưng luôn luôn "sống chết" hết ḷng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích ǵ về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính v́ Do Thái, Hoa Kỳ c̣n gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rơ ràng v́ thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rơ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là v́ họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không c̣n khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đă từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đă có kế hoạch rơ ràng từng bước một.

c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đ́nh Nhu đă ngạc nhiên và bất măn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lănh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rơ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đă khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường ṃn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và vơ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của ḿnh. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại B́nh Giă, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những h́nh ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau h́nh ảnh dă man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà c̣n lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác .
Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc pḥng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức h́nh biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam v́ không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lư v́ thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn c̣n có những kư giả và b́nh luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đă góp phần "khai tử" miền Nam!



Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966
Phong trào phản chiến càng lên cao và đă khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đă tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Ḥa nắm chắc sự thắng cử. V́ vậy thế lực Do Thái đă gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Ḥa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.

Thế lực Do Thái c̣n đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc pḥng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 - 1999)... Với những chức vụ then chốt này, họ đă thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.

Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa t́m cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đă dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lănh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH kư kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đă sớm thấy rơ âm mưu của Kissinger và đă ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam.
Chính ngay Kissinger cũng đă tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:
"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn th́ được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự , Kissinger đă trấn an T.T Nixon là:
" Hoa Kỳ phải t́m ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó th́ …chẳng ai cần đếch ǵ nữa . V́ lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ c̣n là băi hoang vắng ”.

Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái c̣n có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên t́nh thế không c̣n bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc pḥng v́ chịu trách nhiệm bị thua trận.

4) Kết luận
Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nh́n rất xa và rất có lư với nỗi lo sợ Hoa Kỳ v́ bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không c̣n có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không ǵ ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lănh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

Bí ẩn về lư do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi v́ phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn c̣n bị xí gạt.

Điển h́nh, về phía dư luận ngoại quốc vẫn c̣n có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nh́n Lại" ("Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 lầm lẫn hoặc cố t́nh cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua ! v́ đang câu con cá to hơn ("has bigger fish to fry”) . Thực tế Hoa Kỳ đă có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Ṭa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh.
Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh " nướng quân " hàng loạt trên chiến trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland !), họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới t́nh trạng "Đồng Minh tháo chạy" (từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH. Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger th́ chưa chắc ǵ Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lănh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đă xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đă xảy ra trong ngày 30.4.1975.

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm t́nh thiện cảm với dân tộc Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất hứa / Exodus " của tác giả Leon Uris) v́ ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đă thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm t́nh nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm "Bài học Israel (Do Thái)". Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đă không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.

Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đă đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không c̣n bị sai lầm nữa. Mong thay !

Bài viết của: Phạm Trần Hoàng Việt

hoanglan22 03-19-2019 02:48

LÁ THƯ CUỐI CÙNG CỦA TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU : Vũ Hải Hồ
 
1 Attachment(s)

queebee 03-19-2019 11:00

Congratulation Gentlemen.. You two got promoted (top job).

hoanglan22 03-21-2019 03:45

Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân Hoa-Kỳ
 
Lời giới thiệu: Cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân V.N.C.H. xuất thân khóa I Hải-Quân Nha-Trang. Ông là một trong số rất ít sĩ quan cao cấp Hải-Quân Việt-Nam c̣n giữ được mối liên lạc mật thiết với Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân-Hoa-Kỳ.

Bài biên soạn công phu sau đây của cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh sẽ giúp độc giả thấu triệt được nhiều điều hữu ích về ngôi trường quân sự mà hầu hết các cấp lănh đạo Hải-Quân V.N.C.H. đều đă theo học.



“Viribus Mare Victoria” (Chiến thắng của con người trên đại dương) là phương châm của một cơ quan huấn luyện cao cấp nhất trong Hải-Quân Hoa-Kỳ: Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến (CĐHC) Hải-Quân Hoa-Kỳ.

Trường CĐHC tọa lạc trên bán đảo Coaster Harbor Island của thị xă Newport, nằm trong vịnh Narragansett thuộc Rhode Island, một tiểu bang nhỏ nhất của Hoa-Kỳ. Thị xă Newport, đặc biệt vào mùa Hè, là một địa danh nổi tiếng trong ngành du lịch, nhờ khí hậu tương đối mát mẻ; những băi biển cát trắng, nước trong; và những lâu đài lộng lẫy như The Elms, The Breakers, The Marble House, Chateau-Sur-Mer, Rose Cliff, v. v… Newport cũng là nơi hội ngộ của những tay đua thuyền buồm quốc tế vào những dịp tổ chức America’s Cup.

Trường CĐHC có đầy đủ tiện nghi về huấn luyện và tiếp vận cũng như tại hầu hết các Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ. Viện Trưởng là những sĩ quan cấp Đô-Đốc thâm niên, hầu hết sau nhiệm kỳ chỉ huy Trường CĐHC, những vị này đều về hưu.

Được thành lập vào năm 1884, Trường CĐHC thoạt tiên được tổ chức để huấn luyện sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học các khóa tham mưu (staff) và chỉ huy (command) dựa trên những căn bản chiến thuật và chiến lược hải chiến để tổ chức những cuộc hành quân

Đến năm 1956, Trường CĐHC mở thêm những khóa huấn luyện cho sĩ quan Hải-Quân quốc tế đồng minh của Hoa-Kỳ. Cơ cấu Trường CĐHC được chia thành hai khối:

-Trường Tham-Mưu Hải-Quân (Naval Staff College)
-Trường Chỉ-Huy Hải-Quân (Naval Command College – NCC)

Riêng về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân th́ có hai phần riêng biệt dành cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ (HQHK) thuần túy (1) và sĩ quan Hải-Quân Đồng-Minh (2).

Để có nhiều ư nghĩa liên quan mật thiết với Hải-Quân V.N.C.H., bài này được viết trên căn bản không gian và thời gian của kỷ niên 1965 và đặc biệt chú trọng nhiều hơn về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân dành cho sĩ quan Hải-Quân đồng minh tại Trường CĐHC.

Trường CĐHC/HQHK huấn luyện những sĩ quan Hải-Quân cấp tá thâm niên, để chuẩn bị cho họ một căn bản chỉ huy dựa trên những lư thuyết chiến thuật và chiến lược quốc tế hiện đại.

Khóa học kéo dài 11 tháng, gồm những phần chính yếu như:

-Thuyết giảng về chiến thuật tác chiến của các quân binh chủng bạn có liên hệ đến hoạt động của Hải-Quân.
-Lập trận đồ và chỉ huy hạm đội tham chiến (War Games).
-Đi quan sát các cơ cấu quân sự quốc pḥng thuộc hệ thống pḥng thủ Hoa-Kỳ.
-Viếng những cơ sở kỹ nghệ chiến tranh trong nước và ngoài nước. (Field trips)
-Viết một bài luận án theo các đề mục tùy ư về quân sự, kinh tế, ngoại giao, v. v…

Khóa sinh đến Trường CĐHC như một sứ giả của quốc gia ḿnh; v́ tất cả khóa sinh đều được hưởng quy chế đặc miễn chính thức dành cho một ngoại giao đoàn quốc tế hợp lệ. Ngoài quyền tự do di chuyển, khóa sinh c̣n được tự do phát biểu ư kiến ngay tại quân trường vào những dịp khóa sinh hội thảo những đề tài trong chương tŕnh huấn luyện và trong những dịp thuyết tŕnh tại các trường trung học địa phương hay tại pḥng Thương Mại Newport mà khóa sinh được Lions Club hoặc Rotary Club mời như một thuyết tŕnh viên danh dự.

Những ư kiến mà khóa sinh đă phát biểu trong những dịp hội thảo – kể cả trong luận án – sẽ không được tiết lộ hoặc phổ biến nếu không có sự chấp thuận của tác giả.

Trong nhiều cuộc hội thảo chính thức, khóa sinh thẳng thắn chỉ trích chính sách ngoại giao của Hoa-Kỳ, đường lối Hoa-Kỳ viện trợ cho các quốc gia nhược tiểu và chính sách thương mại và trao đổi với quốc tế. Đến khi đàm đạo trong những dịp “trà dư tửu hậu” giữa khóa sinh và sĩ quan cán bộ HQHK, những chỉ trích về phương diện giáo dục và xă hội của Hoa-Kỳ lại được tiếp tục. Ư niệm chung của khóa sinh là: “Chúng tôi đến đây với tư cách là đồng minh của Hoa-Kỳ để hấp thụ những kinh nghiệm quư báu của Hải-Quân Hoa-Kỳ trong những trận thế chiến đă qua; nhưng chúng tôi không hoàn toàn đồng đồng ư trên nhiều vấn đề mà quốc gia của chúng tôi có nhiều ưu điểm hơn.”

Mặc dù có nhiều dị biệt tư tưởng giữa khóa sinh đồng minh và sĩ quan huấn vụ, sau cùng t́nh thân hữu ngày càng nẩy nở tốt đẹp suốt khóa học. Tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ” bao trùm không khí khóa học, làm cho khóa sinh và sĩ quan huấn vụ quân trường thông cảm và hiểu biết nhau hơn, khắng khít nhau hơn, để sau cùng tạo ra một “Tinh thần Trường Chỉ-Huy Hải-Quân Newport”. (“The Spirit of The Naval Command College).

Điểm tế nhị nhất là không hề xảy ra những xung đột hoặc đả kích công khai nào giữa các khóa sinh tụ họp từ bốn phương trời, mang nhiều màu sắc khác biệt, không cùng ngôn ngữ, tuổi tác chênh lệch và đang có những rắc rối về vấn đề chính trị quốc gia.

Thật vậy, trong khóa học năm 1964-1965 có bốn quốc gia đang trong t́nh trạng tranh chấp lănh thổ với nhau. Đó là Thổ-Nhỉ-Kỳ với Hy-Lạp và Ấn-Độ với Pakistan. Tuy nhiên, trong suốt khóa học, mặc dầu sự thân t́nh giữa đại diện các quốc gia này không được biểu lộ một cách sâu đậm, nhưng trái lại cũng không hề xảy ra một cuộc đụng chạm nào.

V́ thời gian thụ huấn khá dài, khóa sinh thuộc các quốc gia Âu-Châu, Mỹ-Châu và Trung-Đông đem theo gia đ́nh khi đến nhập học. Khóa sinh các nước Á-Châu và Phi-Châu, có thể v́ t́nh trạng kinh tế và chính trị, không đem theo gia đ́nh.

Khóa sinh đến tŕnh diện nhập khóa và lập thủ tục tại Luce Hall. Luce Hall là bộ chỉ huy và cũng là cơ quan hành chánh của Trường CĐHC. Tại Trường CĐHC, khóa sinh được theo quy chế ngoại trú, được tự do sinh hoạt nơi nào ḿnh thích, miễn là phải tham dự đầy đủ những giờ thuyết giảng tại Trường hoặc tháp tùng những chuyến đi quan sát xen kẻ trong chương tŕnh huấn luyện.

Sự tiếp đón của Trường CĐHC được tổ chức rất chu đáo và có vẻ trịnh trọng ngay từ khi khóa sinh vừa đến phi trường Providence, thủ đô của Rhode Island, để đưa về tạm trú tại BOQ, chờ hoàn tất thủ tục nhập khóa. Sĩ quan thuộc Bộ-Tham-Mưu quân trường được chỉ định làm cố vấn cho mỗi khóa sinh về phương diện huấn luyện cũng như những vấn đề tổng quát khác như thuê nhà, mua xe, mua bảo hiểm, v. v…

Khóa học bắt đầu vào giữa tháng Tám.

Sinh hoạt của khóa sinh bắt đầu từ giảng đường tại Simms Hall để nghe thuyết giảng về chiến thuật và chiến lược hải chiến. Trưa, sau bữa ăn tại câu lạc bộ sĩ quan là những giờ dành cho việc khảo cứu tài liệu mượn từ thư viện Mahan Hall đem về văn pḥng riêng của mỗi khóa sinh. Những đề tài thuyết giảng chiến thuật và chiến lược rất bao quát và ngoạn mục với phim ảnh do thuyết tŕnh viên tŕnh bày.

Trong những dịp hội thảo toàn khóa, một hội trường rộng lớn được xử dụng và trang trí như dành cho một Đại Hội Đồng quốc tế nhóm họp. Mỗi khóa sinh có một bàn riêng, được trưng bày Quốc-Kỳ và bảng tên của ḿnh. Mọi sự sắp xếp đều theo mẫu tự, không có sự phân biệt cấp bậc hoặc quốc gia của khóa sinh. Tại Mahan Hall và Luce Hall, quốc kỳ các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ được dương cao, trong số đó lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay…

Sau nhiều tuần huấn luyện tại Trường, khóa sinh bắt đầu đi quan sát. Phương tiện di chuyển hầu hết là phi cơ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Những phi cơ này sẵn sàng tại căn cứ Nagaransett Naval Air Station trên đảo Connecticut, bên kia vịnh về hướng Tây.

Thời gian 1965, Newport Bridge dài hai miles nối liền bán đảo Newport với đảo Connecticut chưa được xây cất, khóa sinh dùng tiểu đỉnh của Naval Base để sang đảo. Đôi khi Trường lại dùng xe chuyên chở công cộng đưa khóa sinh sang phi trường, nhưng phải dùng chiếc phà Jamestown Ferry để qua đảo Connecticut.

Ngày nay Newport Bridge tối tân đă thâu ngắn thời gian di chuyển từ Newport qua đảo Connecticut, nhưng đă vô t́nh xóa đi h́nh ảnh thơ mộng của chiếc phà Jamestown Ferry với đoàn hải âu lượn quanh t́m mồi do hành khách rải xuống biển.

Những chuyến đi quan sát thường kéo dài trọn tuần lễ. Nào Bermuda thuộc Anh-Cát-Lợi nằm giữa Đại-Tây-Dương, đến Roosevelt Roads Naval Air Station ở Puerto Rico nằm trong biển Caribbean, rồi trở về Key West Naval Station và Miami thuộc Florida. Có lần sang Ottawa, thủ đô Gia-Nă-Đại rồi trở về miền Trung Bắc Hoa-Kỳ để viếng các xưởng kỹ nghệ sản xuất xe thiết giáp và quân xa đủ loại tại Detroit, Michigan. Tiếp đến là viếng Bộ-Chỉ-Huy Không-Quân Chiến-Lược (Strategic Air Command) đặt sâu trong ḷng núi đá ở Nebraska. Trong chuyến đi miền Tây, đến vùng Bắc California viếng căn cứ chiến thuật Không-Quân với hệ thống tiếp vận tân tiến rồi sang thăm quốc hội California và Thống-Đốc Ronald Reagan tại Sacramento. Đi về miền Nam California th́ viếng những cơ xưởng chế tạo phi cơ tác chiến ở Los Angeles và Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-B́nh-Dương tại San Diego. Chuyến đi kế tiếp lại sang miền Đông quan sát những cuộc biểu diễn hành quân tại các Căn-Cứ Thủy-Quân Lục-Chiến (Camp Le Jeune) và Lưc-Lượng Đặc-Biệt (Fort Bragg) ở North Caroline; viếng Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội Đại-Tây-Dương đặt ở Norfolk, xưởng kỹ nghệ đóng tàu tại Newport News, nơi chế tạo hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đỉnh nguyên tử; viếng Williamsburg, thủ đô đầu tiên của tiểu bang Virginia. Đi dần về miền Đông Bắc, viếng thủ đô Hoa-Thịnh-Đốn với Quốc-Hội và Ṭa Bạch-Ốc, rồi Ngũ-Giác-Đài. Chuyến kế tiếp được viếng Nữu-Ước hoa lệ với ṭa nhà Liên-Hiệp-Quốc, thị trường chứng khoáng Wall Street, tượng Nữ Thần Tự-Do trước khi trở về New London, tiểu ban Connecticut để quan sát Căn-Cứ và Trung-Tâm Huấn-Luyện Tiềm-Thủy-Đỉnh. Khóa sinh được dịp ra khơi bằng Tiềm-Thủy-Đỉnh và quan sát cuộc thực tập tác chiếc có xử dụng ngư lôi.

Tại mỗi nơi thăm viếng khóa sinh được tiếp đón nồng hậu và chu đáo. Các vị Thống Đốc, Thị Trưởng, Tư-Lệnh quân chủng hay Chỉ-Huy-Trưởng cơ quan thường có mặt để tiếp đón phái đoàn khóa sinh. Trong những buổi dạ tiệc, quà kỷ niệm, chứng chỉ Công Dân Danh Dự và ch́a khóa vàng của thành phố được trao tặng cho mỗi khóa sinh.

Từ năm thành lập cho đến nay (1990), Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đă huấn luyện được 35 khóa học liên tiếp, với 1.045 khóa sinh thuộc 70 quốc gia trên thế giới. Trong tổng số khóa sinh có 545 người đă được thăng cấp Đô-Đốc Hải-Quân hoặc Tướng Lănh Lục-Quân và Không-Quân. Hai mươi sáu người giữ chức Tổng Bộ Trưởng trong chính phủ hoặc làm Đại-Sứ. Đặc biệt có một cựu khóa sinh đă trở thành Tổng Thống!

Lư thuyết và kinh nghiệm thâu nhận được sau những chuyến đi quan sát và t́nh thân hữu nẩy nở trong khối khóa sinh quốc tế là những điểm son khóa sinh mang về khi hồi hương. Những kỷ niệm vui buồn cũng giúp thêm nhiều màu sắc rực rỡ cho bức tranh kỷ niệm của Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ. Bất cứ một sĩ quan nào đă tu nghiệp tại Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đều không thể quên được phương châm đặc biệt của Trường: Populos Mare Jungit. (Con người triền miên với biển cả).

1. Gồm một số sĩ quan Thủy-Quân Lục-Chiến (U.S. Marine Corps), sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và công chức cao cấp quốc pḥng

2. Gồm một số sĩ quan Lục-Quân và Không-Quân của vài quốc gia đồng minh.

Danh sách sĩ-quan Hải-Quân V.N.C.H. từng tu nghiệp tại Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ:

Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Chơn 1959-1960
Hải-Quân Trung-Tá Chung Tấn Cang 1960-1961
Hải-Quân Trung-Tá Đặng Cao Thăng 1961-1962
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đức Vân 1962-1963
Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Phấn 1963-1964
Hải-Quân Trung-Tá Lâm Ngươn Tánh 1964-1965
Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng 1965-1966
Hải-Quân Trung-Tá Khương Hữu Bá 1966-1967
Hải-Quân Trung-Tá Vũ Đ́nh Đào 1967-1968
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Hữu Chí 1968-1969
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Xuân Sơn 1969-1970
Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Xuân Phong 1970-1971
Hải-Quân Đại-Tá Ngô Khắc Luân 1971-1972
Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên 1972-1973
Hải-Quân Đại-Tá Phan Văn Cổn 1973-1974
Hải-Quân Đại-Tá Dư Trí Hùng 1974-1975


(Trích từ Hải-Quân VNCH Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh)

hoanglan22 03-21-2019 03:59

Việt Cộng Nằm Vùng .
 
1* Mở bài

Việt Cộng nằm vùng thời nào cũng có.

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hoà, cái nhức nhối nhất là chỗ nào cũng có bọn VC nằm vùng, chúng tràn lan trong các tổ chức chính quyền, các cơ quan truyền thông, văn nghệ, tôn giáo, sinh viên học sinh…

Trong các tổ chức chính quyền, từ Bộ Quốc Pḥng, Bộ Tổng Tham Mưu, Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo, Tổng Nha Cảnh Sát, Quốc Hội, và ngay cả trong Dinh Độc Lập cũng có VC nằm vùng. Bọn nầy ẩn nấp dưới hàng trăm hàng ngàn bộ mặt, muôn h́nh vạn trạng, đánh phá miền Nam, từ công khai hợp pháp, đến bí mật dưới muôn ngàn h́nh thức. Độc hại nhất là bọn ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản.

Ngày nay, trong cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ của các cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, cũng không tránh khỏi bọn nầy. Ở thế kỷ 21, kỹ thuật đánh phá tinh vi hơn, nhất là lợi dụng các thứ tự do, công khai và hợp pháp để đánh phá.

Phạm vi hoạt động của Việt Cộng

Thời nào cũng vậy, bài bản của phạm vi hoạt động cũng giống nhau. Đó ví như một ṿng tṛn có ba phần:

Phần trung tâm, là do cán bộ đảng viên thực hiện.

Phần thứ hai của ṿng tṛn, nối tiếp bên ngoài trung tâm, là những tổ chức được thành lập, do liên minh, liên kết, trong đó cán bộ đảng viên nắm phần lănh đạo, chỉ huy, và đa số các thành phần quần chúng tham gia là không Cộng Sản. Đó là những “Mặt Trận”, như Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Mặt Trận Tổ Quốc…

Phần ngoài cùng của ṿng tṛn, là những tổ chức quần chúng không cộng sản, nhưng thân cộng, bị VC len lỏi bên trong, giật dây, tác động. Đó là những “Phong Trào”, như:

Phong trào hoà b́nh (chống chiến tranh, phản chiến), Phong trào chống tham nhũng, Phong trào Nhân dân cứu đói, Phong trào bảo vệ phụ nữ, Phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc, Phong trào đ̣i thi hành Hiệp định Paris, Lực lượng quốc gia tiến bộ, Thành phần thứ ba…


2* Những tên Việt Cộng nằm vùng

2.1. Nhà văn nhà báo Việt Cộng nằm vùng

Cuối năm 1957, dưới thời tỉnh trưởng Nguyễn Trân, một mẻ lưới của cảnh sát Định Tường tung ra, bắt giữ những kư giả đem về giam tại Mỷ Tho, gồm có những người nằm vùng trong những tờ báo như sau:

Triệu Công Minh (báo Tiếng Dội), Lương Ngọc (Trời Nam), Nam Thanh (Lẻ Sống), Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba (Buổi Sáng), Nguyễn Bảo Hoá (Ánh Sáng), vợ Nguyễn Bảo Hoá là dược sĩ Mă Thị Chu (Tiếng Chuông), LS Nguyễn Văn Diệp, đạo diễn Lê Dân, Mai Thế Đông (giám đốc cải lương).

Nguyễn Trân tổ chức tranh luận công khai tại rạp hát Viễn Trường, Mỷ Tho, nếu nhận CNCS là sai và ăn năn hối cải th́ được thả ra. Sau khi được thả, toàn bộ dông tuốt vô bưng, xem như Nguyễn Trân thả cọp về rừng.

2.2. Truy lùng Việt Cộng

Sau cuộc truy lùng trong các báo nêu trên, chính quyền bắt giam hàng loạt cán bộ nằm vùng cấp thành ủy, như GS Nguyễn Văn Ch́, Lê Văn Chí, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cữu, Cổ Tấn Lương, Bùi Đức Thịnh, bà B́nh Minh, đa số là giáo sư tư thục.

2.3. Việt Cộng nằm vùng, nhà văn Vũ Hạnh

Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Cán bộ văn hoá khu ủy Sài G̣n-Gia Định, hoạt động công khai đơn tuyến ở nội thành Sài G̣n.

Trước 1975, Vũ Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng có người bảo lănh cho ra. Người bảo lănh Vũ Hạnh sau cùng, là LM Thanh Lăng, Chủ tịch Hội Văn Bút.

Sau ngày 30-4-1975, Vũ Hạnh giữ chức Chủ tịch Hội Nhà Văn TP/SG. Vũ Hạnh mang súng kè kè bên hông, th́ bị thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nửa đùa nửa thật bảo: “Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen càm bút chư có biết chơi súng đau”.

Nhưng mấy tháng sau, ông lắc đầu nói nhỏ “Totalement décu” (hoàn toàn bị lừa). Với chức vụ Chủ tịch Hội Nhà Văn, chẳng có quyền hành và quyền lợi ǵ, coi bộ đời sống thời bao cấp gặp nhiều khó khăn. Ít lâu sau, nghe nói có một nhà giàu cộng tác để Vũ Hạnh mở ra một gánh hát cải lương, nhưng sau đó dẹp tiệm. Vũ Hạnh lại t́m người có vốn mở xưởng làm xà bong, nhưng cũng không khá v́ thiếu nguyên liệu.

Ít lâu sau nữa, một trong những người bạn cho biết, Vũ Hạnh đang t́m đường dây cho con vượt biên, nhưng bạn bè chả ai dám giúp đở v́ sợ cái bản chất phản bội của tên nằm vùng.

2.4. Những tờ báo của Việt Cộng và có Việt Cộng nằm vùng

2.4.1. Tờ Tin Văn

Báo nhà nước đưa tin như sau:

“Đầu năm 1966, đảng ủy giao cho cán bộ Vũ Hạnh đang hoạt động trong “vùng bị tạm chiếm”, ngụy trang dưới chiêu bài “bảo vệ văn hoá”, xin phép cho ra tờ Tin Văn, chủ trương chống văn hoá đồi trụy, chống văn hoá ngoại lai đầu độc thanh niên.

Tờ báo được các cán bộ ta chỉ đạo, đứng đầu là đồng chí Trần Bạch Đằng, Ủy viên thường trực Thành Ủy SG-GĐ, lănh đạo tuyên huấn, mặt trận, trí vận, Hoa vận, và thanh niên (bao gồm sinh viên và học sinh).

Chủ nhiệm tờ Tin Văn là Nguyễn Mạnh Lương. Một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương, Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Toà soạn đặt trong một ngôi chùa”.

Sau 1975, Vũ Hạnh viết như sau: “Tuần báo Tin Văn, với những bài phê b́nh vạch mặt những tên xung kích chống cách mạng, qua các tác phẩm đồi trụy, phản động, đă tạo ra một phong trào quần chúng sôi nổi. Ngụy quyền hoang mang nên t́m cách phản kích. Chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của Sở Công An và Phủ Đặc Ủy TW T́nh Báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là “VC nằm vùng”, và liên tiếp trong nhiều số báo như vậy, y đă “vu khống tôi” cốt làm cho những người tham gia phong trào sợ hăi. Lúc đó, đảng ủy văn hoá và thường vụ khu ủy, động viên, chăm sóc và giúp đở tôi về vật chất lẫn tinh thần, thông qua vợ tôi. Mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng.” (Trích từ Vũ Hạnh: Trui rèn trong lửa đỏ, trang 179).

Tên VC láu cá nầy là “VC chính cống”, thật sự nằm vùng, mà nhảy lên như đỉa phải vôi, khi bị Chu Tử vạch mặt là “VC nằm vùng”, rồi lại nói là “bị vu khống”. Bọn nằm vùng luôn luôn có phản ứng như thế!

2.4.2. Hai tờ báo có Việt Cộng nằm vùng

1. Tờ Đại Dân Tộc

Chủ nhiệm: Vơ Long Triều

Tổng thư kư: Hồ Ngọc Nhuận

VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt)

2. Tờ Điện Tín

Chủ bút Hồ Ngọc Nhuận
Chủ nhiệm: cựu đại tá, cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông
Chủ bút: Hồ Ngọc Nhuận

2 VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)

2.4.3. Nói về tờ Tin Sáng

Báo Tin Sáng có 3 thời kỳ:

1. Tin Sáng cũ trước năm 1973

2. Tin Sáng lậu từ 1973 đến 1975

3. Tin Sáng bộ mới từ ngày 10-8-1975 đến 1-7-1981

Tin Sáng cũ trước 1973. Toà sọan ở số 124 đường Lê Lai, Q.1. do nhóm dân biểu đối lập, thân cộng và VC nằm vùng, như: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lư Chánh Trung, Dương Văn Ba, có cán bộ VC nằm vùng nhưng giữ chức vụ khiêm tốn.

Trên tờ báo có 50 bài viết của LM Nguyễn Ngọc Lan, chửi Mỹ, chửi VNCH và chống chiến tranh. Tin Sáng là nơi kích động các cuộc biểu t́nh của nhóm SV/VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm. Ṭa soạn bị đốt và có truyền đơn “Đồng bào quyết đập chết những tên VC nằm vùng Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận. Quần chúng rất phẩn nộ trước hành động đâm sau lưng chiến của dân biểu tay sai VC Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận”.

Trần Văn Giàu nhận xét: “Các anh làm báo CS hơn CS”. Alain Ruscio ghi lại trong cuốn Vivre au Vietnam như sau: “Không ai nói ngọt hơn Lư Chánh Trung được. Mặc dù trong thâm tâm họ biết là họ đang nói dối, đang đóng kịch. Nhưng điều quan trọng là lời nói đă phát ra th́ không thu lại được”. Đó là những tiếng chửi rất nặng nề của trí thức đối với trí thức. Không biết bọn nằm vùng nầy có hiểu và cảm thấy nhục nhă hay không?

Ngô Công Đức cũng đă sáng mắt ra, trước khi chết cũng để lại chúc thơ bộc bạch phân trần đôi điều, nhưng quá muộn. Nói chung, những tên VC nằm vùng đă mở mắt ra, và té ngửa hết, nhưng đă muộn cho một cuộc đời.

Tại sao Tin Sáng sống được 5 năm dưới chế độ Cộng Sản?

Thứ nhất, báo Tin Sáng nịnh bợ VC hơn báo VC.

Thứ hai, Vơ Văn Kiệt nhận thấy người dân miền Nam c̣n căm thù VC. Từ đổi tiền, đuổi đi kinh tế mới, cải tạo thương nghiệp, xếp hàng mua gạo, ăn độn, chồng, con, cha mẹ của đa số bị tù cải tạo. Người dân chưa thấy cái “ưu việt” của XHCN như tuyên truyền. Trong khi đó, báo Sài G̣n GP th́ c̣n non trẻ, chờ cho đến khi thành lập tờ Thanh Niên, nói theo giọng điệu o bế người dân, tŕnh diễn màn lừa bịp, là “nói thẳng, nói thật”…, v́ thế Vơ Văn Kiệt chưa khai tử báo Tin Sáng, để cho sống 5 năm trong t́nh trạng trái ngược, là mỗi khi số lượng phát hành gia tăng lên cao, th́ ban biên tập lại hồi hộp chờ ngày giờ kết liểu cuộc đời nịnh bợ.

2.5. Trí thức thân cộng và bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”

Ở miền Trung th́ nổi bật những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Trần Quang Vọng, Trần Hữu Lực, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trần Vàng Sao, Vơ Quế…

Hoàng Phủ Ngọc Tường phải sống những ngày khổ nhục, oán hận, khi thấy người đồng chí trẻ của y là Bửu Chỉ đang ngủ với vợ của y là nữ đồng chí, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

Ở miền Nam, th́ có Tôn Nữ Thị Ninh, LS Trần Ngọc Liễng, GS Lư Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành. Những LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, các thượng tọa Thích Trí Quang, Nhất Hạnh.

2.6. Thành phần thứ ba và Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói

“Theo chỉ đạo của ta, một lực lượng chính trị mới ra đời, đó là “Thành phần thứ ba” gồm trí thức, nhân sĩ, binh sĩ, dân biểu, báo chí, tu sĩ, công thương gia, cựu tướng lănh, có khuynh hướng chống Thiệu, đ̣i hoà b́nh, nổi bật nhất là các nhân vật như LS Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành, KS Dương Văn Đại, DB Hồ Ngọc Nhuận, Lư Quư Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Lư Chánh Trung, LM Phan Khắc Từ, Thích Pháp Lan, ni sư Huỳnh Liên và nhà báo Nam Đ́nh”. Tướng Dương Văn Minh đại diện cho thành phần nầy ra đảm nhiệm chức Tổng thống.

Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói

Ra đời tháng 9 năm 1974 do Đại đức Thích Hiển Pháp làm Chủ tịch. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm làm Tổng Thư kư. Các nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Nga tích cực tham dự. Ni sư Huỳnh Liên, LM. Phan Khắc Từ, các DB Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận, GS Lư Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành…

“Ta đưa một số cán bộ đứng tên vào mặt trận: Ngọc Trảng, Ba Thép, Xuân Thượng, với khẩu hiệu “Lá lành đùm lá rách” ẩn chứa nội dung tố cáo chế độ. H́nh thức biểu t́nh rất sáng tạo, biểu t́nh có ca hát “Dậy mà đi”. Biểu t́nh “xa luân chiến”, không lớn mà liên miên từ ngày nầy qua đêm khác, đêm nầy qua đêm nọ như bánh xe quay, làm cho cảnh sát ngụy mất ăn mất ngủ”. Phong trào th́ công khai, nhưng ra báo th́ bí mật. Công khai th́ có Kiều Mộng Thu trong báo Đại Dân Tộc, ở tờ Điện tín th́ có Lư Chánh Trung. Về phía bí mật, Cứu Đói in 10,000 bản phổ biến trong quần chúng.

Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói lập khối Dân Tộc Xă Hội ở Hạ Viện để đấu tranh nghị trường.

Tổ chức “báo nói”, “văn nghệ chạy”, “biểu t́nh ngồi”, “phát chẩn”.

Ni sư Huỳnh Liên sinh tại Mỷ Tho năm 1923, mất ngày 16-4-1987, tên thật là Nguyễn Thị Trừ, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng. Đại biểu QH Khoá VI. Phó Chủ tịch UB/MTTQ Sài G̣n, Ủy viên TW MTTQ/VN.

Bọn cứu đói cứng họng, cảm thấy ô nhục khi nhân dân kêu đói, khi đồng bào ăn bo bo, ăn độn mà chúng lặn mất, im thin thít của thái độ hèn nhát, lưu manh.


3* Dân biểu Việt Cộng nằm vùng và dân biểu thân cộng

Trên tờ Tuổi Trẻ trong nước, bài viết đề ngày 31-7-2012 với tựa đề “Dân tin người thật tâm, thật tài”, nói đến 2 dân biểu VNCH là những “chứng nhân lịch sử” của 37 năm về trước. Đó là dân biểu Nguyễn Văn Hàm từng giữ cương vị Phó Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài G̣n, sau ngày 30-4-1975, và dân biểu Đinh Văn Đệ, từng làm Chánh Văn Pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.

3.1. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm

Nguyễn Văn Hàm khoe thành tích như sau: “Ở Sài G̣n có những cuộc biểu t́nh mà tôi và những người khác đă tổ chức rất công phu như “phong trào cứu đói”, “kư giả đi ăn mày”. Cũng có những cuộc biểu t́nh tự phát, không cần ai tổ chức cả. Quần chúng qui tụ quanh chúng tôi, gọi là “lực lượng thứ ba”.

“Quê ở Mộ Đức, Quảng Ngăi, Nguyễn Văn Hàm làm thơ, viết báo, giảng dạy triết học, văn chương. Tham gia Quốc Hội Hạ Viện khoá 2 (1971), là một dân biểu đối lập, thủ lĩnh phong trào quần chúng Phật giáo”.

Sau 1975, đương sự làm Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân, bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân. Hội đồng chả có quyền hạn ǵ cả, rồi hắn bị đá ra. Vợ và con vượt biên qua Úc. Có đứa con gái đang sống ở Minnesota, nhưng không nh́n cha.

3.2. Dân biểu Đinh Văn Đệ

Sau năm 1975, nhiều người “bức xúc” khi thấy cựu dân biểu Đinh Văn Đệ ra vào làm việc trong Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Sài G̣n. Vơ văn Kiệt cho biết : Hắn là người Cộng Sản mà không có đảng” (Il est Communist sans party)

Đinh Văn Đệ
3.2.1. Đinh Văn Đệ là lính VNCVH

Tờ báo viết: “Ông Đinh Văn Đệ bị động viên đi lính rồi trở thành trung tá Chánh văn pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1954-1961). Làm Tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt (1963). Tỉnh trưởng B́nh Thuận (1964-1967).

Năm 1967, ra ứng cử dân biểu Quốc hội. Giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Quốc Pḥng Hạ Viện. Tổng thống Thiệu cử ông làm “trưởng phái đoàn” sang Mỹ xin viện trợ khẩn cấp. Kết quả chuyến đi, ông Đệ được Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam tặng thưởng Huân Chương Chiến Công hạng nhất.”

Đinh Văn Đệ phát biểu: “Tôi được giáo dục từ nhỏ, mang sẵn trong ḷng t́nh yêu nước thực sự, yêu con người thực sự, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chính thể. Bị động viên, tôi đành phải đi lính, và luôn luôn giữ cái tâm lành, trung thực, ngay thẳng. Bao nhiêu năm đeo lon, đeo súng, tôi không một lần sát sanh. Bây giờ xuất gia, theo đạo Cao Đài”.

Đinh Văn Đệ sinh năm 1924, mồ côi cha lúc 15 tuổi. Nhà nghèo, học hết Trung học đệ nhất cấp rồi ra đi dạy học, theo đạo Cao Đài.

3.2.2. Người có công xây dựng gián điệp U 4

Năm 1969, danh sách điệp viên của t́nh báo chiến lược Việt Cộng có thêm một tên mới, Đinh Văn Đệ, bí số U 4.

Người có công đầu, móc nối, tác động, xây dựng U 4, là Đinh Văn Út, chú của Đinh Văn Đệ. Út có bí danh là Chín Mẫn, sinh năm 1919 tại Châu Đốc. Chín Mẫn thuộc pḥng t́nh báo T4 của Thành Ủy Sài G̣n Gia Định, thuộc Trung Ương Cục miền Nam, c̣n gọi là Cục R, B2 và “Ông Cụ”. T4 do Mười Hương phụ trách.

Năm 1969, Đinh Văn Đệ cung cấp tài liệu kinh tế hậu chiến của VNCH, chính Đệ lấy xe riêng đưa người và tài liệu đến nơi an toàn. Cũng năm nầy, Đệ thoả thuận và tiếp nhận toàn bộ qui ước liên lạc, mực mật, giấy viết mực mật, thuốc hiện mực mật, vật ngụy trang, mật khẩu giao liên… nói chung, Đinh Văn Đệ, Chủ tịch Ủy Ban Quốc Pḥng Hạ Viện Quốc Hội VNCH, đă chính thức trở thành một gián điệp của Việt Cộng, mang bí số U 4 trực thuộc pḥng T́nh báo mật danh J.22 của Cục R (c̣n gọi là B2). Em của Đinh Văn Đệ là Đinh Văn Huệ, trước làm chính trị viên tiểu đoàn giao thông vũ trang thuộc J. 22

Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ kể những chiến công như sau.
1). Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh

“Sau khi ta (VC) giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975, đồng chí Phạm Hùng muốn biết địch (VNCH) có ư định tái chiếm Phước Long hay không? Tôi được giao phó nhiệm vụ trả lời câu hỏi nầy.

Trước hết, tôi điện qua Phủ Thủ Tướng, mời Tổng trưởng Quốc Pḥng ra điều trần trước Hạ Viện, tại sao thất thủ Phước Long? Trách nhiệm của ai?

Tại buổi điều trần, Tổng trưởng QP đổ mồ hôi hột, bối rối v́ bị chất vấn sôi nổi, tới tấp. Tôi binh vực và đề nghị, mỗi lần điều trần như thế nầy vất vả lắm, vậy Bộ QP cấp cho tôi cái giấy được tự do ra vào các nơi liên hệ, để hỏi trực tiếp các cấp chỉ huy phần hành. Thế rồi, với tờ giấy trong tay, tôi đến Pḥng Hành Quân, th́ gặp ngay người quen biết cũ, là một chuẩn tướng, ông ta nói: “Đại ca đừng lo. Ai lại dại ǵ kéo quân đi lấy lại nơi mà ḿnh pḥng thủ đă bị thất bại. Tôi sẽ trả thù bằng cách dội bom cho nát Lộc Ninh”.

Tôi báo cáo tin đó. Vài hôm sau, địch (VNCH) đă ném bom Lộc Ninh, nhưng quân ta tránh được thiệt hại.

2). Trung Ương Cục ở đâu?

Trung Ương Cục Miền Nam (TWCMN) hay Cục R, B2, “Ông Cụ”, là cơ quan đại diện cho Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, để chỉ đạo chiến trường miền Nam. Ban Anh ninh TWCMN do thiếu tướng Cao Đăng Chiếm phụ trách từ năm 74 đến 75.

Ban An Ninh T4 thuộc về Thành Ủy Sài G̣n Gia Định do Mười Hương phụ trách.

TWCMN hỏi tôi là địch (VNCH) có biết Cục R ở đâu không?

Tôi gọi điện qua Bộ QP/VNCH xin 3 chiếc trực thăng, cho tôi là Chủ tịch Ủy Ban QP/HV, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, nghị sĩ, Chủ tịch UB/QP Thượng Viện và cho Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng, mỗi người một chiếc trực thăng, thành lập một phái đoàn đi ủy lạo binh sĩ đang cố thủ tại Pleiku, Đà Nẳng và Bến Cát (SĐ 5 đóng ở B́nh Dương). Đi đến đâu tôi cũng hỏi các cấp chỉ huy “Địch nó biết rơ vị trí của ta, vậy ta có biết Cục R ở đâu không? Tôi đúc kết các câu trả lời và báo cáo về Cục R.

3). Xin viện trợ để cắt viện trợ

“Tôi tham gia phái đoàn sang Mỹ để xin viện trợ khẩn cấp, v́ Thiệu ngoan cố, cố chống giữ. Phái đoàn chia nhau đi “vận động hành lang” với các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ, làm thế nào để vận động xin viện trợ mà kết quả là bị cắt viện trợ. Khi sang Mỹ, mỗi dân biểu, nghị sĩ đều có nhân viên của toà đại sứ đi kèm, nếu sơ hở là bị lộ ngay.

Với cái chiêu “nói vậy mà không phải vậy”, làm cho các đại biểu trong đoàn thấy tôi là người tận tâm, tha thiết nhất trong việc xin viện trợ để cứu chế độ Sài G̣n.

Với mục đích làm cho Mỹ nản chí và bỏ cuộc, tôi đưa ra h́nh ảnh của người lính VNCH không c̣n muốn chiến đấu, đă bỏ chạy bằng cách níu càng trực thăng, trốn ra khỏi chiến trường, th́ người Mỹ hiểu ngay là họ phải làm ǵ.

Khi tiếp phái đoàn, Tổng thống G. Ford cho biết: “Thôi các bạn cứ yên tâm ra về, tôi sẽ cử một viên tướng qua thị sát t́nh h́nh rồi sẽ có quyết định sau”. Nghe vậy, tôi hiểu là Mỹ đă bỏ cuộc”.

Theo chỉ thị của trên, Đinh Văn Đệ đă đưa một gián điệp mang bí danh “Số 6” vừa tốt nghiệp cao học nước ngoài vào làm việc trong Ủy Ban QP của Hạ Viện QH/VNCH.

Đinh Văn Đệ qua cái nh́n họa sĩ Ớt vào thời điểm trước năm 1975

Năm 1972, t́nh báo Hà Nội đă nhận đầy đủ chi tiết về hệ thống tổ chức, về quân số ở các quân khu, về ngân khoản QP/VNCH, thậm chí c̣n nhận những khoản viện trợ không công khai cho VNCH, ẩn dưới chương tŕnh PL (Program Law), thương mại hoá, tức không viện trợ bằng tiền, mà bằng hàng hoá, để VNCH bán lấy tiền dùng cho quân sự.

Sau khi 2 giao liên Ngô Viết Triều và Nguyễn Thị Thành bị bắt, cuối năm 1971, Đinh Văn Đệ được chuyển sang hoạt động đơn tuyến, nhận lịnh trực tiếp của Cục R thông qua một nữ t́nh báo giao liên.

Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ hiện sống ở Sài G̣n vẫn khỏe mạnh và nổi tiếng là một Thiên Vương Tinh đức cao trọng vọng của đạo Cao Đài.
Có một điều Đinh Văn Đệ dấu đầu ḷi đuôi là “tôi luôn luôn có cái tâm lành, trung thực và ngay thẳng”. Một tên gián điệp phản quốc, sống dối trá, hành động phản bội mà c̣n cái ǵ gọi là tâm lành, trung thực, ngay thẳng cho được?


4. Sinh viên nằm vùng

4.1. Danh sách 16 sinh viên bị chính quyền VNCH bắt giữ

Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Vơ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Vơ Thị Tố Nga.

4.2. Danh sách sinh viên thoát ly ra căn cứ Bắc Lộ 7, Campuchia

Phan Công Tŕnh, Nguyễn Đ́nh Mai,Tôn Thất Lập, Trần Long Ân, Nguyễn Văn Sanh, Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải, Huỳnh Quang Thư, Dương Văn Đầy, Trần Ngọc Hảo, Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng, Trương Quốc Khoách.

4.3. Sinh viên Việt Cộng nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm

4.3.1. Huỳnh Tấn Mẫm

Huỳnh Tấn Mẫm tên thật là Trần Văn Thật, sinh năm 1943 tại Sài G̣n. Trước 1975 là một đảng viên cộng sản nằm vùng, hoạt động công khai ở Sài G̣n. Sau 1975, học tiếp y khoa, ra bác sĩ. Sang học Liên Xô về Triết học Mác Lênin.

Trở về VN được cử làm Tổng Biên Tập báo Thanh Niên. Là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc và hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên.

Với những chức vụ như thế, Huỳnh Tấn Mẫm (HTM) trở thành một cán bộ thuộc hàng cao cấp, có tiếng tâm của Sài G̣n.

4.3.2. Huỳnh Tấn Mẫm mở mắt nhưng quá trễ

Con đường hoạn lộ của HTM bị nhiều trắc trở, v́ thực tế sau 1975 cho thấy, cái quan điểm tự do dân chủ kiểu “tư sản” của miền Nam không c̣n được áp dụng trong chế độ chuyên chế XHCN. Ngoài HTM ra, các sinh viên VC khác cũng đều vở mộng, cho nên đă thể hiện những hành động bị cho là “chệch hướng”, không được ḷng đảng v́ khác đường lối, nên bị hạ tầng công tác, loại trừ.

Đă vậy, vợ của cán bộ cao cấp lại làm chủ hụi và giựt hụi. Vợ ra toà lănh án đă đành, Huỳnh Tấn Mẫm c̣n bị kêu ra toà làm chứng chống lại vợ, nên mất uy tín.

Thế là một cuộc đảo chánh trong nội bộ, đă khai trừ HTM ra khỏi tờ báo Thanh Niên năm 1990. Được chuyển về Hội Hồng Thập Tự, làm bác sĩ phụ trách pḥng mạch miễn phí, thế là hết cơ hội chấm mút, thu hoạch như các đồng chí khác trên đường hữu sản hoá cán bộ trong thời đổi mới, mở cửa.

Mở pḥng mạch ngoài giờ, chuyên chăm sóc da mặt, nặn mụn cho phụ nữ, nhưng chẳng có ai chiếu cố tới, v́ bác sĩ cách mạng, có một thời không được bịnh nhân tin tưởng bằng “bác sĩ ngụy”. Riêng cá nhân HTM, trước kia chỉ lo biểu t́nh, đấu tranh, chạy trốn và ở tù, th́ c̣n ngày giờ đâu mà học với hành. Hơn nữa, đảng cần “hồng” hơn “chuyên”, chỉ cần có quan điểm lập trường 101% cộng sản là một bác sĩ tốt rồi. Pḥng mạch ế. Bị gán là bác sĩ chính trị, mà thứ chính trị của CNCS đă bị ném vào sọt rác từ lâu rồi. Người ta nhận xét: “bác sĩ nửa vời, chính trị nửa vời, cuộc đời cũng nửa vời, gia đ́nh tan nát, sự nghiệp tiêu tan. H́nh ảnh “anh hùng” vang bóng một thời, làm rung chuyển chế độ miền Nam đă chấm dứt trong cay đắng, chán chường, tiêu cực, mệt mơi”.

Kể ra ông trời cũng có con mắt.


5. Thành Đoàn Cộng Sản Sài G̣n Gia Định lộng hành

Thành Đoàn là tên gọi tắt của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đang hoạt động trong nội thành Sài G̣n.

5.1. Thành Đoàn Cộng Sản giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật

Ngày 28-6-1971, Biệt Động Thành bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại hành lang trường Luật Sài G̣n.

Ban ám sát Thành Đoàn cử 2 tên tới Đại Học Luật Khoa, số 4 đường Duy Tân, nhận là người nhà muốn gặp Lê Khắc Sinh Nhật có việc cần. Lúc đó, sắp tới mùa thi cuối năm, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thức thi cử tại một giảng đường. Nhật vừa ra tới hành lang, th́ một tên móc súng bắn liền 3 phát vào ngực. Hắn phóng lên một chiếc Honda nổ máy chờ sẵn. Hắn ném lại một quả lựu đạn nhưng may mắn, lựu đạn không nổ. Cảnh sát gác bên ngoài bắn 3 phát chỉ thiên. Nhạc sĩ Vũ Thành An sáng tác một bài hát tưởng niệm Lê Khắc Sinh Nhật.

Lư do giết SV Lê Khắc Sinh Nhật

Thành Đoàn CS giết SV Lê Khắc Sinh Nhật (LKSN) v́ 2 lư do:

Một là răn đe các sinh viên thuần túy, có tinh thần quốc gia

Hai là để trả mối hận bị đánh bại trong 2 cuộc bầu cử, mà Liên danh của LKSN đă thắng Liên danh SV Việt Cộng Trịnh Đ́nh Ban, trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện SV trường Luật niên khoá 1970-1971. Và đă thắng Liên danh SV/VC trong tay Thành Đoàn trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện Tổng Hội Sinh Viên Sài G̣n, tại Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 20-6-1971. Trong cuộc bầu cử nầy, khi thấy kết quả nghiêng về phía Liên danh LKSN do SV Lư Bửu Lâm đứng đầu, th́ bọn SV/VC giở ngay bản chất côn đồ, nhảy lên bục “đá thùng phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử” và ấu đả, hỗn chiến xảy ra” (Trích trong “Trui rèn trong lửa đỏ” trang 21 của thiếu tướng Trần Bạch Đằng)

Bị thất bại trong cuộc bầu cử, Thành Đoàn CS cay cú, đưa ra 2 quyết định:

Một là, sát hại SV Lê Khắc Sinh Nhật

Hai là, chỉ thị cho SV Huỳnh Tấn Mẫm, tập họp một số SV tại Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử, số 294 Công Lư, vào ngày 28-7-1971 để bầu ra một tổ chức ma, chưa bao giờ có, đó là “Tổng Hội Sinh Viên VN” do Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch. Tổ chức nầy không đại diện cho ai cả, ngoài đám SV/VC và một số ít bị lừa.

Quyết định hạ sát SV Lê Khắc Sinh Nhật là một hành động tội ác của Thành Đoàn CS/SG.

5.2. Thành đoàn CS/SG giết GS Nguyễn Văn Bông

Ngày 10-11-1971, SV/VC Vũ Quang Hùng (bí danh Ba Diệp, năm thứ 3 Khoa học) và tên Lê Văn Châu, dùng chất nổ ám sát chết GS Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Quốc Gia Hành Chánh, tại ngă tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản. Hai tên Hùng và Châu thuộc Trinh sát vơ trang bí số S1, hoạt động nội thành SG-GĐ, thuộc Ban An ninh T4 của Thành Ủy SG-GĐ (trong mật khu). Cả hai bị bắt, đày đi Côn Đảo.

Sau ngày 30-4-1975, Vũ Quang Hùng viết : “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng” và rất hảnh diện về thành tích đó. Tên Hùng giải thích lư do giết GS Nguyễn Văn Bông như sau: “Tin t́nh báo cho biết, GS Nguyễn Văn Bông sẽ làm thủ tướng v́ chính quyền ngụy muốn chuyển từ quân sự sang dân sự. GS Bông là một trí thức rất có uy tín mà lên làm Thủ tướng, th́ cách mạng sẽ khó khăn hơn. Để giữ bí mật, tôi đặt tên mục tiêu phải giết với bí số G.33”.

Đến tháng 4 năm 2000, trong lễ kỷ niện 25 năm ngày “chiến thắng 30 tháng 4”, nhà báo chuyên về t́nh báo Nam Thi của báo Thanh Niên, cũng kể lại “thành tích” nầy, trong đó có sự trợ giúp đắc lực của SV kiến trúc Nguyễn Hữu Thái, người đă theo tướng Dương Văn Minh đến đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng trong ngày 30-4-1975. Chính SV Nguyễn Hữu Thái làm “xướng ngôn viên bất đắt dĩ”, đă giới thiệu tướng DVM đọc tuyên bố. Sau đó, Nguyễn Hữu Thái xuất cảnh sang Canada theo diện đoàn tụ gia đ́nh.

Phu nhân của GS Bông có lẻ đă biết tên ṭng phạm nầy.

Trong phỏng vấn của đài RFA, kư giả Mạc Lâm ghi lại như sau: “Đă hơn 40 năm, những nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie Bông, phu nhân của cố giáo sư lừng danh Nguyễn Văn Bông, bị tên SV Vũ Quang Hùng ám sát, tuy không bao giờ quên nổi biến cố bi thương, bổng ập xuống cuộc đời bà và các con nhỏ dại của bà năm xưa. Nhưng bà đă lấy tâm Phật mà “cầu nguyện cho ông ấy (tức tên Vũ Quang Hùng, kẻ đă giết chồng bà) và mong nhà cầm quyền Hà Nội “mở mắt ra”, “mở tấm ḷng ra”. (RFA ngày 5-5-2011)

Ngoài việc ám sát GS Nguyễn Văn Bông, Thành Đoàn c̣n ném lựu đạn M-26 vào xe của BS Lê Minh Trí, Tổng trưởng GD&TN ngày 6-1-1969.

Hai tháng sau, đến lượt BS Trần Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Sài G̣n, bị bắn chết trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại học xá Minh Mạng, ngang nhà thờ Ngă Sáu, Chợ Lớn. BS Trần Anh đang đi bộ từ Bộ Y Tế trên đường về nhà ở bên cạnh Đại học xá Minh Mạng.


6* Phan Nhật Nam tố cáo Việt Cộng nằm Vùng

6.1. Thiếu tá “VC Killer” Thái Quang Chức

Trong bài viết tựa đề “Những tên Việt Cộng nằm vùng”, một thiếu tá Hải quân có danh hiệu là “VC Killer” mang tên Thái Quang Chức, em của tướng Thái Quang Hoàng.

Năm 1957, thanh niên Thái Quang Chức lội qua sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, về làm việc tại Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng 4, Sông Ng̣i, Mỷ Tho.

Năm 1970, mang lon thiếu tá, nổi tiếng là “VC Killer”, v́ sau cuộc hành quân, xác VC được kéo chạy trên sông để biểu dương ư chí chống Cộng.

Trong những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, tướng Thái Quang Hoàng cho người em xuống Mỷ Tho gọi Chức về để cùng gia đ́nh di tản, đương sự quyết định ở lại để góp phần xây dựng quê hương.

Tŕnh diện học tập cải tạo, Chức được đưa đến trại Hoàng Liên Sơn.

Hai năm sau, năm 1977, một người mặc thường phục đến bộ chỉ huy đoàn 776, đưa thiếu tá “VC Killer” ra khỏi trại, về làm nhiệm vụ mới.

6.2. Trung úy Trần Trung Phương, tiểu đoàn 3 Nhảy dù, VC nằm vùng

Do được giới thiệu, tác giả đến một đường dây chạy giấy xuất cảnh. Đến một cơ sở không có bảng hiệu, nhân viên thường phục tiếp đón với thái độ “chúng tôi đă biết rơ tất cả”, “chào anh Nam, anh có mạnh không?”. Anh ta nói: “Tôi biết anh nhiều lắm”, rồi mở tủ hồ sơ lấy ra cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn Dù cấp, có kư tên đóng dấu của trung tá Trần Văn Vinh.

Anh ta tự giới thiệu: “Trung úy Trần Trung Phương, gốc Đại Đội 33, tiểu đoàn 3 Dù, đơn vị cuối cùng là “Biệt Đội Quân Báo Điện Tử Sư đoàn. Là nhân viên Đặc vụ Sở Phản Gián Bộ Nội Vụ (Cộng Sản).

Điều kiện đưa ra, tôi có thể làm hồ sơ cho anh ra khỏi VN tối đa là 8 tháng. Gia đ́nh anh tại Mỹ phải trả cho người của chúng bên đó 2,000 đô là, và kèm thao một số điều kiện…

“Lẽ tất nhiên, tôi không chấp nhận điều kiện của Phương, từ 2,000 đô la đến “những điều kiện khác…”.

Sau đó, năm 1993, để giúp một người quen cần phải xuất cảnh để giải quyết những khó khăn, tôi t́m đến Trần Trung Phương ở một địa chỉ mới, là một văn pḥng ở khách sạn đường Nguyễn Văn Trỗi, nhân viên văn pḥng cho biết, ông Phương đang Hoa Kỳ, ở vùng Westminster, Cali.

Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Hạ Lào, những băi đáp đổ quân, những vị trí tấn công, toạ độ dội bom B-52 của SĐ Dù, đă bị quân báo VC giải mă từ cơ quan đầu mối, tối cao, là Biệt Đội Điện Tử và Pḥng Hành Quân SĐ.

Ngày 30-4-1975, viên hạ sĩ quan ở đơn vị đó mà tôi biết, đă dẫn trung tá Nguyễn Văn Tư, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh SĐ Dù, qua Camp Davis để giao nộp hồ sơ trận địa của đơn vị mà hạ sĩ quan nầy đă lưu giữ từ hơn 10 năm trước đó.

Phan Nhật Nam: “Tôi có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại, điển h́nh như Trần Trung Phương, Thái Quang Chức, những hạ sĩ quan và những công an VC, đă đi theo diện ghép với những gia đ́nh HO và ODP hiện tràn lan khắp các cộng đồng người Việt hải ngoại”.

Ngoài những tên VC nằm vùng mà ông Phan Nhật Nam nêu trên, c̣n có 1 tên vô cùng lợi hại, đó là một thượng sĩ.

“Giữa tháng 4, 1975, Bộ Chính Trị nêu vấn đề, nếu chúng ta đánh lớn, liệu Mỹ có nhảy vào cứu nguy hay không?

Giải đáp câu hỏi nầy là công lao của đồng chí Nguyễn Văn Minh, là thượng sĩ giữ hồ sơ tuyệt mật của Cao Văn Viên. Lúc đó, thư của TT/HK gởi cho Thiệu: “Cuộc chiến tranh VN coi như đă chấm dứt đối với Mỹ, chi viện 700 triệu đô la, c̣n mọi việc khác th́ tùy theo quư ngài định liệu”. Bản sao bức thư được gởi cho Cao Văn Viên. Đồng chí Minh lập tức chép lại, gởi ra bộ chỉ huy miền. Nhờ tài liệu nầy mà BCT nắm được điểm yếu của địch, nên nêu phương châm tấn công “Thần tốc - Táo bạo - Chắc thắng”.


7* “Những bí ẩn của báo Người Việt”

Đó là cái tựa của bài viết trên tờ SGN ngày 28-7-2012.

Căn cứ vào 2 trang web Tân Đại Dương và trang tài liệu 401k-plans, để xác định “Nguoi Viet Daily News không phải là một công ty,, “Corporation Nguoi Viet Inc.” như đă công bố trên báo chí. Tác giả bài viết đặt câu hỏi: “Ai là chủ thực sự của báo Người Việt?”

Đây là một câu hỏi cần được phải trả lời để đánh tan những nghi ngờ gần như xác định về báo Người Việt, đang sôi nổi trong những ngày gần đây. Đương nhiên là báo NV có quyền không trả lời, tuy nhiên, nếu không trả lời rơ ràng và hợp lư th́ dễ biến sự nghi ngờ trở thành xác định.

Hôm nọ, xem ông Ngô Kỷ liệt kê “thành tích” của báo Người Việt trên You Tube, th́ quả thật, báo Người Việt rất đúng, chẳng sai tí nào đối với những tố cáo của các đoàn thể vừa qua. Hết phương chối căi. Những lời lẻ binh vực xem như ngụy biện, không thuyết phục.


8* Kết

Đem t́nh trạng “Việt Cộng nằm vùng ở miền Nam trước năm 1975”, đặt vào t́nh trạng của phong trào đấu tranh cho một nước VN tự do, dân chủ, nhân quyền hiện tại, th́ mới thấy rơ bài bản, âm mưu và kỹ thuật đánh phá của VC trong nước. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng có bọn lưu manh nằm vùng cả. Bản chất của bọn nằm vùng là gian manh, xảo trá và phản bội, tôi ác của bọn chúng là đă góp phần đưa dân tộc VN vào chế độ độc tài Cộng Sản hiện nay.

Trăm năm bia đá cũng ṃn, ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ, đừng có tưởng chết là hết.


Trúc Giang

hoanglan22 03-25-2019 01:39

Tử h́nh khủng bố VC Trần Văn Đang tại pháp trường cát
 
2 Attachment(s)
TỬ H̀NH KHỦNG BỐ VC TRẦN VĂN ĐANG TẠI PHÁP TRƯỜNG CÁT

LS NGUYỄN VĂN CHỨC



“Em đă bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con.”
(Lời nói cuối cùng của “liệt sĩ” Trần Văn Đang trước khi bị xử bắn)

Chi tiết vụ án:

Luật sư Nguyễn Văn Chức, người được luật sư đoàn Sài G̣n chỉ định biện hộ (thày căi) cho Trần Văn Đang, đă kể lại sự vụ của y như dưới đây. Xin chép lại (trích trong báo Con Ong số 84) để quư bạn đọc thấy trong số các nạn nhân của Việt Cộng, cũng có cả các "liệt sĩ" của chúng như trường hợp Trần Văn Đang ở trong bài viết này.

* * *

Tôi về đến nhà, đă thấy chiếc xe mô tô đen của trung sĩ Ân đỗ trong sân. Ân giơ tay chào, đưa cho tôi một phong thư mầu vàng của ṭa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư đóng dấu " tối mật ". Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy ḍng chữ đánh máy, nhưng tôi đọc rất lâu. Tôi kư sổ biên nhận, rồi bước vào trong nhà.

Ân có chào tôi hay không, và chiếc mô tô rồ máy bỏ đi lúc nào, tôi cũng không để ư. Tôi đang bận nghĩ đến hắn...

Cách đây khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Sài G̣n chỉ định tôi biện hộ cho hắn trước ṭa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là tên đặc công bị bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về hai tội phản nghịch và mưu sát; hắn có thể bị tử h́nh. Sau khi xem xong hồ sơ, tôi vào nhà lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp, và cũng là một cái thú. Nói chuyện với tử tù, thường phạm hay chính trị, đôi khi hấp dẫn hơn đọc một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất.

Tôi ngồi trong pḥng đợi, nh́n ra vạt sân nắng bên kia chấn song sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi. Trước đây, Trỗi cũng đă ngồi nói chuyện với tôi trong căn pḥng này. Trỗi khóc như một đứa con nít, thỉnh thoảng đưa hai tay lên vắt nước mũi rồi quẹt xuống gầm bàn. Trỗi c̣n trẻ, mới 26 tuổi, nhưng trông già như người 40.

Hắn trẻ hơn Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến gặp luật sư, miệng hắn đang c̣n nhai nhóp nhép, h́nh như là khô mực. Người hắn sặc mùi dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước mặt, rồi chăm chú nh́n tôi. Lúc đó tôi mới để ư đến cái đầu húi cua và khuôn mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm h́nh đăng trên các báo: tóc dài bù xù, và mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi: " Em vừa húi tóc? ". Hắn gật. Tôi lại hỏi: " Em là Trần Văn Đang? ". Hắn gật.

- Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn, có phải vậy không? Hắn gật.

- Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự Do, có phải vậy không? Hắn gật.

Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ căi cho hắn trước ṭa, hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để t́m hiểu thêm về tội trạng của hắn. Và tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ.

Hắn nh́n tập hồ sơ trên bàn, rồi nh́n ra ngoài sân rất lâu, như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nh́n hắn và chợt thấy hắn dễ thương. Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: " Khi lấy cung, người ta có tra tấn và hăm dọa em không? ". Hắn mở to mắt nh́n tôi. Tôi lại dục: " Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay không, đó là quyền của em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em ".

H́nh như tôi c̣n nói nhiều nữa. Tôi muốn đến gần hắn, tôi muốn được " hân hạnh " nói chuyện với hắn.

Hắn nh́n tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một lúc khá lâu, rồi lại hỏi: " Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều là sự thật, có phải vậy không? ". Hắn gật đầu một cách thản nhiên.

Bên ngoài vạt nắng đă thu hẹp lại ở góc tường bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo, tiếng chửi thề... đă bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong pḥng cũng không có đồng hồ, nhưng tôi đoán lúc đó khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng tôi, v́ là luật sư, tôi có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5 giờ chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với luật sư. Tôi đành phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác nhận, hoặc phủ nhận.

Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm phúc tŕnh của CS và An Ninh Quân Đội. Cô thư kư của tôi đă chép độ 20 trang quan trọng nhất. Riêng tôi đă lận đận trọn một ngày ở ṭa án Mặt Trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Lận đận như vậy, v́ lương tâm nghề nghiệp, và cũng v́ ṭ ṃ nghề nghiệp. Trong những vụ án chính trị lớn tại miền Nam, tôi từng tiêu hoang th́ giờ tại ṭa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của các bị can. Nhờ đó, tôi đă biết được cái lư do sâu xa đă khiến văn hào Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi ṭa xử.

Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc:

Hắn sinh tại G̣ Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe Vespa tại đường Trương Minh Giảng-Sài G̣n. Trong thời gian sống ở Sài G̣n hắn làm quen với một tên Tư. Tên này " xây dựng " hắn, và gửi hắn vào bưng học tập.

Bốn tháng sau, hắn trở về Sài G̣n hoạt động trong tổ đặc công của tên Tư. Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư cho đi ăn uống tại một con hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau bữa ăn, cả hai thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái " bar " Mỹ mà hắn đă từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau, một buổi chiều thứ Bẩy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng 10 kg thuốc nổ và bộ phận nổ chậm. Tên Tư gài bộ phận nổ chậm, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc thứ hai được đặt trong thùng một chiếc Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi tới địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15 phút. Hắn cưỡi chiếc xe Vespa mầu xanh, tên Tư cưỡi chiếc xe mầu trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước. Hắn có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ đă quan sát chiều hôm trước. C̣n tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar khác gần khách sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái bar Mỹ. Hắn ngừng xe lại, c̣n tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường Tự Do. Hắn xuống xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi dắt chiếc xe về phía cái bar Mỹ. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ chiếc xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả ḿn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ. Hắn biết chắc hắn c̣n nhiều th́ giờ, ít nhất là 15 phút để thi hành phận sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa, kéo ngược chiếc Vespa lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp bỏ đi, th́ người cảnh sát đứng bên kia đường thổi c̣i và ngoắc tay làm hiệu cho hắn phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần xe xuống, hắn làm đổ chiếc Vespa. Hắn h́ hục dựng chiếc Vespa lên. Người cảnh sát bên kia đường lại thổi c̣i. Hắn đâm ra hốt hoảng. Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn. Hắn sẽ phải dựng chiếc xe lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Và hắn chợt nhớ tới quả ḿn. Quả ḿn sẽ nổ banh xác hắn. Hắn không kịp nghĩ thêm ǵ nữa. Hắn rầm chạy. Hắn chạy ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ. Mấy người cảnh sát bên kia đường rút súng, huưt c̣i đuổi theo. Và hắn đă bị bắt. Khoảng 20 phút sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đă t́m thấy quả ḿn. Theo phúc tŕnh của cảnh sát, th́ bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả ḿn đă nổ vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe Vespa. Theo hồ sơ, hắn nhận hết tội, tại nha CS cũng như tại An Ninh Quân Đội, và không một lần nào phản cung. Hắn có vợ và một đứa con trai 10 tháng.

Tôi đọc hồ sơ rất chậm, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một cử chỉ, một lời nói. Nhưng tôi đă đọc hết ḍng chót, mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm xuống đất. Có lẽ hắn không nghe tôi đọc.

Tôi muốn hỏi hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư nào đó. Nhưng nhân viên nhà lao đă bước vào cho tôi biết chỉ c̣n đúng 5 phút với hắn. Tôi nh́n ra ngoài, thở dài. Vạt sân đă hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vô cặp, tôi vô ư làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8 tháng. Tôi chợt nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc tuổi đó. Tôi liền hỏi: " Từ ngày em bị bắt, em đă gặp con chưa? ". Hắn nh́n tôi rất nhanh, đôi mắt vụt trở nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: " Em có muốn gặp vợ con em không? ". Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực, rồi nói một cách vội vàng: " Ông có giúp tôi được không? ". Tôi gật. Lúc đó hắn mới cho tôi biết: theo lời khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đặt chất nổ, hắn đă cho vợ con về sống với quê ngoại ở Mỏ Cày. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đă biết tin hắn bị bắt và đă đem con lên Sài G̣n ở với người chú. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông Lănh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù. H́nh như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đă bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn nh́n tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.

Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gửi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông Lănh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không t́m thấy vợ con hắn.

Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư, một cho người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày ṭa xử và nhắn vợ hắn đến văn pḥng tôi để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi chồng. Kư xong bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về cuộc t́m kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đă bị trả về An Ninh Quân Đội để bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có dịp gặp hắn nữa.

Hôm ṭa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng tôi đă có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng ṭa án Mặt Trận, tôi thấy một thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng mây. Không hiểu sao tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân ṭa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi ngay: " Chị là vợ anh Đang? ". Thiếu phụ gật. Tôi hỏi: " Chị được tin hôm nào? ". Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết tin chồng bị bắt, chị muốn lên Sài G̣n ngay, nhưng v́ đứa con đau nặng, nên ông bà già không cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của người chú báo tin ngày ṭa xử, vả lại đứa con cũng đă gần hết bịnh, nên ông bà già cho đi.

Tôi nh́n đứa bé nằm ngủ trong ḷng mẹ. Da nó xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa ḿnh rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ nhẹ lên người nó để ru. Chị ta hỏi tôi: " Thưa ông, liệu ảnh có việc ǵ không? ". Tôi không t́m được câu trả lời. Tôi nh́n đứa bé rồi hỏi: " Cháu được mấy tháng? ". Chị ta trả lời: " Con sanh cháu được 10 tháng th́ ảnh bị bắt ".

Bỗng có tiếng c̣i hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nh́n về phía đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe chở tội nhân. Những người đứng dưới đường vội vàng dạt ra hai bên để cho xe quẹo vào cổng ṭa án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nh́n thấy hắn, và người vợ cũng nh́n thấy chồng. Chị ta vội vă đứng lên, một tay xách chiếc lẵng mây, một tay ôm con, lễ mễ chạy vào trong sân ṭa.

Đoàn tội nhân đă xuống khỏi xe, đứng xếp hàng giữa sân ṭa. Hắn đứng ở hàng chót, ngơ ngác nh́n quanh như t́m kiếm. Vợ hắn gọi lớn: " Anh hai, em và con đây nè ". Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy vợ hắn, hắn giơ hai tay bị c̣ng lên như muốn ôm gh́ một h́nh bóng. Vợ hắn đứng cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ. Chị ta bỏ chiếc lẵng mây xuống đất, ôm con xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đă ngăn chị ta lại, rồi ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ thiên, nằm giữa hai bức tường của hai dăy nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng chỗ đó để tạm giữ tội nhân, trong khi chờ ṭa gọi tội nhân ra trước vành móng ngựa.

Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường. Tay hắn đă được mở c̣ng. Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính định cản lại, nhưng thấy tội nghiệp, nên đă để cho đi qua.

Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp xuống đất bên cạnh người chồng rồi khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nh́n về trước mặt, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau người vợ lấy vạt áo lau nước mắt, rồi lấy ở trong lẵng ra một xị nước ngọt đựng trong túi nylon đưa cho chồng: " Anh uống đi cho đă khát, em có mua cho anh ổ bánh ḿ thịt ở trong lẵng ". Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên ḿnh đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong một lúc t́nh cờ, hắn ngẩng đầu lên. Hắn nh́n thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi giơ tay làm hiệu chào hắn.

Chỉ c̣n độ một hai giờ nữa, ṭa sẽ kêu đến vụ hắn. Tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc xum họp mà tôi linh cảm là cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân ṭa. Thời gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để ṭa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễn Văn Trỗi, cũng như bao thanh thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài người.

Măi mười một giờ trưa, ṭa mới kêu đến tên hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo từ đằng xa, rồi ngồi xuống một chiếc ghế cuối pḥng xử. Pḥng xử hôm đó đông nghẹt dân chúng. Bên ngoài, trời oi ả như sắp có cơn dông.



Trần Văn Đang trước vành móng ngựa (h́nh: AP)


Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt hơn cái hôm tôi gặp hắn trong nhà lao. Da hắn xanh mướt, và nét mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nh́n tôi một thoáng rồi lại nh́n thẳng đàng trước mặt. Không khí nặng nề. Cả pḥng xử im lặng. Ông chánh thẩm hỏi lư lịch, rồi truyền cho hắn trở về ghế bị can để nghe bản cáo trạng. Tôi cũng từ vành móng ngựa đi theo xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ ḷng biết ơn. Viên lục sự bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả ṭa, từ ông chánh thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới, đều lắng tai nghe. Chỉ có hắn là không. Hắn nh́n đăm đăm đàng trước mặt, như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ tới vợ con hắn. Một lần, tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nh́n xuống cuối pḥng xử, như muốn t́m xem vợ con hắn ngồi ở đâu. Bỗng nhiên, mặt hắn biến sắc, tay hắn run run, đầu cúi rầm xuống.

Viên lục sự đă đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời ghế bị can, rồi cùng tôi bước lên vành móng ngựa.

Ông chánh thẩm hỏi: " Anh đă nghe bản cáo trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội không? ". Hắn gật đầu.

- Anh có thể kể lại cho ṭa nghe tất cả sự việc từ đầu đến cuối không?

Hắn nh́n ông chánh thẩm, nh́n bồi thẩm đoàn, nh́n ủy viên chính phủ, nh́n tôi, rồi lắc đầu.

Ông chánh thẩm lại hỏi: " Có phải anh đă đỗ chiếc Vespa trước cái bar Mỹ? ". Hắn gật.

- Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ không?

Hắn gật.

- Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa bar, để phá cái bar đó, có phải không?

Hắn gật.

- Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế nào?

Hắn đứng im không trả lời.

Ông chánh thẩm nh́n tôi, tôi nh́n ông ta. Một bên ở vào cái thế khó xử, một bên ở cái thế khó căi. Đại tá Ủy viên Chính Phủ bỗng quát lớn: " Tại sao bị can không trả lời? ". Hắn ngước mắt nh́n ủy viên chính phủ, rồi đứng im như pho tượng.

Khi ṭa trao lời cho ủy viên chính Phủ chính thức đặt câu hỏi, th́ ủy viên chính phủ nhún vai, như muốn nói với ṭa rằng ông không có ǵ để hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc đầu. Nhưng chỉ một vài giây sau, ông nói như hét: " Thằng Tư, tên thật nó là ǵ. Địa chỉ nó ở đâu? ". Hắn lại nh́n ủy viên chính phủ rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại nhún vai và làm cái cử chi quen thuộc để ṭa hiểu rằng ông ta không c̣n ǵ để hỏi nữa.

Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn: " Khi bị lấy cung tại nha CS và An Ninh Quân Đội, em có bị tra tấn hoặc bị hăm dọa không? ". Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: " Em có hối hận v́ đă trót nghe lời dụ dỗ của tên Tư không? ". Hắn cúi gầm mặt xuống lắc đầu.

Tôi đă đưa ra hai cây sào để cứu hắn. Không ngờ hắn đă từ chối không nắm lấy và h́nh như c̣n thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt người vợ và t́nh thương con đă không làm hắn thay đổi. Một đời luật sư, tôi từng ngang dọc trong những vụ kiện lớn của chế độ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy ḿnh bất lực như hôm nay.

Ủy viên Chính Phủ đứng lên buộc tội. Trong 15 phút hùng biện, ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả tang phạm pháp, đến bản chất của tội trạng (phản nghịch và mưu sát) và sự ngoan cố của bị can. Ông kết luận: " Trong cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản " kẻ thù của dân tộc " chúng ta cần phải nghiêm trị những bọn phá hoại, những tên cán bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay. Nếu hôm đó quả ḿn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường đă bị chết thảm, bao nhiêu người dân vô tội đă bị què cụt đui mù... ". Ông yêu cầu ṭa lên án tử h́nh. Ṭa trao lời cho tôi. Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá khó khăn. Tôi biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường hợp gia trọng. Bị can ấy nhận tội tại nha CS, tại An Ninh Quân Đội, và trước ṭa án. Bị can ấy từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời ṭa án, không trả lời ủy viên chính phủ, không trả lời luật sư. Bị can ấy im lặng tuyệt đối, như để bảo mật cái tổ đặc công giết người của hắn, theo một mệnh lệnh... Giọng tôi trầm trầm. Tôi nói, h́nh như không phải cho ṭa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi nói, để cố trả lời cho những câu hỏi mà chính tôi đang thắc mắc. Tại sao hắn không có một lời để tự bào chữa? Tại sao hắn đă nhận tội một cách thản nhiên, và không một lần nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước ṭa án? Hắn là một tên đặc công bị bắt quả tang trong khi đặt chất nổ, chắc chắn hắn đă bị tra tấn của công an trong khi lấy cung. Tại sao hắn không nói điều ấy ra trước ṭa? Và tên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn lại im lặng không chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả lời những câu hỏi có lợi cho hắn?

Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành h́nh. Không ai muốn bị đập chết như một con chó ở góc tường, như những nhân vật trong tiểu thuyết Kafka. Huống chi, hắn mới 21 tuổi, có vợ, có con, và thương vợ thương con. Thế th́ tại sao hắn lại im lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị quyến rũ phạm tội ác, và sau khi bị bắt, hắn vẫn bị theo rơi. Hắn sợ vợ con hắn bị trả thù, hắn đă phải im lặng, tuyệt đối im lặng. Biết đâu trong pḥng xử hôm nay, lại không có tên Tư nào đó đang ngồi theo rơi hắn. Hướng về phía ông Ủy viên Chính Phủ, tôi nói như tâm sự: " Tôi đồng ư với ông là chúng ta, những người quốc gia, phải thẳng tay trừng trị, nếu cần, phải giết những tên đặc công gian manh, những tên cán bộ khát máu, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong hiện vụ, tôi không nghĩ bị can là một tên cộng sản gian manh, một tên cán bộ khát máu, một tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan trọng: quả ḿn hôm ấy đă không nổ ".

Kết luận, tôi yêu cầu ṭa khoan hồng. Bị can mới hai mươi mốt tuổi, chưa hề can án, có vợ c̣n trẻ và con c̣n nhỏ, v́ vậy đáng được hưởng sự khoan hồng của luật pháp.

Sau lời biện hộ của tôi, ṭa hỏi hắn: " Luật sư đă biện hộ cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn nói ǵ không? ". Hắn lắc đầu. Ṭa ngưng xử, bước vào pḥng để nghị án. Khoảng một giờ sau, ṭa trở lại tuyên án: tử h́nh. Lập tức, hắn bị c̣ng tay mang đi. Lúc đó, đă quá trưa, những đám mây đen từ đâu kéo về bao kín cả một góc trời đă mất ánh sáng. Dân chúng kéo nhau ra về. Tôi xách cặp đi ra xe như người mất hồn. Khi lái xe qua cổng ṭa án, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn pḥng, viết đơn xin ân xá cho hắn. Đây chỉ là thủ tục ṭa án, nhưng tôi đă làm với tất cả sự cẩn trọng của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. V́ nhân đạo. V́ nghề nghiệp. Và cũng v́ trường hợp cá biệt của hắn.

Hắn khác Nguyễn Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi khóc lóc van xin trước ṭa, và sau khi bị ṭa lên án tử h́nh, Trỗi đă hô lớn " Hồ Chí Minh muôn năm ". Hô xong lại khóc, lại van xin. C̣n hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc, không van xin, không hô khẩu hiệu.

Hắn khác Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hữu Thọ huênh hoang và cao ngạo trước ṭa. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khắc kỷ. Tôi nghĩ đến con chó sói trong bài thơ " La Mort du Loup " của thi hào Vigny.

* * *

Ba tháng đă trôi qua. Bức thư của ṭa án Mặt Trận mà trung sĩ Ân đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy ḍng chữ đánh máy: " Trân trọng báo để luật sư tường: đơn xin ân xá của Trần Văn Đang đă bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ sáng, bản án tử h́nh sẽ được thi hành. Nếu luật sư muốn hiện diện nơi hành quyết, th́ xin có mặt tại khám Chí Ḥa vào lúc 4 giờ sáng. Trân trọng ".

Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn vởn khuôn mặt của hắn, và h́nh ảnh của hắn ngồi trong hành lang ṭa án, một tay để lên vai vợ, một tay sờ lên ḿnh đứa con. Chưa đầy 3 giờ sáng, tôi đă thức dậy, đi vào khám Chí Ḥa. Tôi bước vào pḥng đợi, đă thấy một nhà sư gầy g̣ mặc nâu ṣng đang ngồi lần chuỗi hạt. Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư đă đến trước tôi cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục béo tốt bước vào, trong bộ quân phục thiếu tá tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ủy viên chính phủ đến. Rồi đoàn người, gồm viên quản đốc nhà lao, ủy viên chính phủ, luật sư, và hai vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn pḥng rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm danh tội nhân. Hắn đă ngồi đó từ bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. Ánh sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường trắng xóa. Tôi chợt có ư nghĩ kỳ lạ là đang bước vào căn nhà xác của bệnh viện. Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn đứng dậy, đôi mắt như ḍ hỏi. Một phút im lặng, dài như một ngày. Đại tá ủy viên chính phủ trịnh trọng nói với hắn: " Anh hăy cam đảm lên, và nghe tôi đọc ". Rồi ông lớn tiếng đọc bản án tử h́nh và bản quyết định bác đơn xin ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nh́n xuống sàn nhà, đôi mắt mở to. Người hắn run lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại b́nh tĩnh. Hắn hỏi: " Bao giờ người ta xử tôi? ". Viên quản đốc nhà lao để tay lên vai hắn: " Ngay sáng hôm nay, trước khi mặt trời mọc ". Rồi ông thân mật nói với hắn: " Bây giờ em muốn ăn uống ǵ không, khám đường sẽ chu tất cho em ? ". Hắn lắc đầu.

Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với hắn một vài câu an ủi. Không khí trở nên thân mật và âu yếm như trong một cuộc tiễn đưa. Riêng tôi chỉ nh́n hắn, tôi muốn nói chuyện riêng với hắn; đó là quyền của tôi, quyền của luật sư biện hộ. Ủy viên chính phủ đồng ư, và cho tôi biết: tôi có 5 phút. Rồi đoàn người bước ra khỏi pḥng, để một ḿnh tôi với hắn. Người cuối cùng đă bước ra khỏi pḥng. Hắn nắm lấy tay tôi, và nh́n tôi rất lâu, đôi mắt ướt sũng. Tôi hỏi: " Em có muốn nói nhắn với vợ em điều ǵ không? ". Hắn suy nghĩ giây lát, rồi nói: " Em bị chúng nó lừa. Luật sư có gặp vợ em, th́ bảo đừng ở dưới vườn nữa, và nuôi lấy con ". Tôi hỏi: " Em chết, có điều ǵ oán hận không? ". Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: " Người ta, ai cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo nào? ". Tôi là người Công giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để nghĩ đến Thượng Đế và t́nh thương bao la của Người. Nhưng ủy viên chính phủ đă bước vào nói nhỏ: " Luật sư hết giờ rồi ". Rồi ông thân mật hỏi hắn: " Ở đây có hai vị tuyên úy em muốn nói chuyện với ai? ". Hắn nh́n nhà sư mặc áo tu hành, hắn nh́n vị linh mục mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói chuyện với nhà sư. Tôi cúi đầu theo ủy viên chính phủ và vị linh mục đi ra một góc pḥng. Nh́n về phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi đầu tụng kinh, và hắn cũng cúi đầu như lắng tai nghe kinh. Khoảng khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay lên vai hắn, trong một cử chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ sáng, giờ khởi hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói với hắn một câu chân t́nh. Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo. Một cảnh sát viên chạy lại cầm cái bọc quần áo đưa cho hắn. Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ mi cụt mầu xám, và một chiếc quần vải dragon đen đă bạc mầu. Khi hắn quay mặt vào tường để thay quần áo, tôi nh́n thấy những lằn roi trên da thịt xanh xao của hắn. Thay xong quần áo, hắn xin một điếu thuốc. Viên quản đốc nhà lao mỉm cười, rút trong túi ra một bao thuốc lá Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy ra một điếu, dộng dộng trên ngón tay cái, rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản đốc châm lửa. Lúc đó, nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoăn đưa hai tay chụm ra đằng trước để người ta c̣ng. Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra. Hắn đi đầu, thản nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh thoảng dùng hai tay c̣ng đưa điếu thuốc lên môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà lao, điếu thuốc gần lụi, và hắn buông rơi xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít bùng, đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái thật nhanh ra khỏi nhà lao.

Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh đèn pha chiếu dài cả con đường Ḥa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt. Thành phố Sài G̣n đang trở ḿnh thức giấc, một vài gánh hàng đi nép bên lề đường. Và đó đây, có tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc xe Lam dậy sớm. Tới bùng binh chợ Bến Thành, tôi đă thấy một đám đông bu quanh vùng ánh sáng của pháp trường cát. Những phóng viên ngoại quốc chạy nhốn nháo, với máy ảnh và máy quay phim. Cảnh sát chận xe tôi lại. Khi nh́n thấy chiếc áo đen của tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào. Tôi đỗ xe sát chân tường Nha Hỏa Xa, cách pháp trường cát độ 30 thước. Những ngọn đèn pha cực mạnh đă được đặt tại đó chiều hôm trước. Tất cả đều chiếu vào pháp trường cát, tạo nên một vùng ánh sáng rợn người. Một chiếc cọc đen đứng cô đơn, đằng sau là những bao cát chất thành ṿng cung. Cách đó 3 thước, là chiếc quan tài đậy nắp, trên nắp có một tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa.

Tôi đứng trong ṿng ánh sáng chưa được 10 phút th́ nghe tiếng c̣i hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt nh́n về phía tiếng c̣i hụ, th́ thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến tới. Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường. Lát sau hắn bước xuống khỏi xe. Tôi vội choàng lên người chiếc áo đen, chạy ra với hắn. Hắn và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi xuống đất. Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được ngăn giữ bằng hàng rào an ninh. Bây giờ chúng tôi đă bước vào vùng ánh sáng. Hắn bỗng ngửng đầu lên, và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay đẩy nhẹ vào lưng hắn, hắn lại tiếp tục bước đi. Tôi đoán chiếc quan tài và chiếc khăn liệm đă làm hắn khựng lại. H́nh ảnh trung thực của chiến tranh không được t́m thấy ở chiến trường " da ngựa bọc thây ", mà được t́m thấy trong các bệnh viện, nơi đó có những h́nh hài cụt chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy, những hố mắt sâu thẳm, những cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ đau đớn. Và h́nh ảnh trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm và những người thân yêu tiễn đưa. Bây giờ, hắn và tôi đă bước vào trong ṿng những bao cát. Người ta mở c̣ng, rồi giữ gh́ lấy hai cánh tay hắn, đẩy hắn dựa lưng vào chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào thân cọc, hai cánh tay hắn bị kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi cao, hắn phải kiễng chân lên. Hắn nhăn mặt kêu đau. Tôi nói với viên sĩ quan: " Đằng nào tội nhân cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang xuống, kẻo máu bị ngừng ở nơi nách, tội nghiệp ". Viên sĩ quan gật đầu, hạ thấp chiếc cọc ngang xuống. Hắn nh́n tôi, và lần đầu tiên hắn nói: " Cám ơn luật sư ". Lúc đó, đội hành quyết đă sắp hàng chỉnh tề, chỉ c̣n đợi sĩ quan Quân Trấn Trưởng của Quân khu Sài G̣n đến là khởi sự. Một phút, hai phút, rồi ba phút... Cả pháp trường im lặng, trong sự đợi chờ và trong ánh sáng chói chang.

Chỉ c̣n ḿnh tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn bỗng trăn trối: " Em đă bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con ". Tôi gật đầu. Hắn nấc lên: " Con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi ". Tiếng nấc của hắn làm tôi mủi ḷng. Tôi để tay lên vai hắn, định an ủi, nhưng cổ họng bị tắc nghẽn. Tôi chợt nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi th́ thầm bên tai hắn: " Em hăy ăn năn hối cải, và cầu xin Chúa giúp em chết lành. Em chết, nhớ phù hộ cho vợ con em ". Hắn lại nấc lên: " Con ơi, con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi ". Lúc đó, có tiếng c̣i hụ. Quân Trấn Trưởng đến. Đội hành quyết đứng nghiêm. Người ta bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên đạn đàng sau lưng tôi. Ủy viên chính phủ nói lớn: " Xin ông luật sư đứng tránh xa ra một bên ". Tôi đi giật lùi ngang về phía bên trái, mắt không rời hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một loạt đạn nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn chảy róc xuống đùi, xuống chân, rồi ḅ ngoằn ngoèo trên lề đường. Viên đội trưởng hành quyết tiến lại, nắm tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục vào màng tang bên trái của hắn, bắn phát súng ân huệ. Một tiếng " đẹt " khô khan. Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc ṿi nước của chiếc xe chữa lửa vội vă phụt sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân trời đă bắt đầu hừng đỏ.

Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rơ ràng: từ lúc bị trói vào cọc cho đến lúc bị hành quyết, hắn đă noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và hô to khẩu hiệu " Hồ Chí Minh muôn năm ".

Nguyễn Văn Chức

Chú thích (của luật sư Nguyễn Văn Chức):

Dưới đây là những chi tiết liên quan đến vụ Trần Văn Đang. Bị can sinh năm 1942 tại Vĩnh Long, bị bắt ngày 30 tháng 3 năm 1965 trong khi đặt chất nổ, bị đem ra ṭa án Mặt Trận hai tuần sau, và bị bắn tại pháp trường cát bùng binh chợ Bến Thành sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965.

Chánh thẩm xử án là đại tá Phan Đ́nh Thứ (tức Lam Sơn), linh mục tuyên úy Công giáo tên Thông, nhà sư tuyên úy Phật giáo là đại đức Sĩ. Quân Trấn Trưởng là đại tá Giám.

Nguyễn Văn Trỗi bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964, trong lúc đặt bom ở gầm cầu Công Lư, chờ ám sát phái đoàn của Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ Mc Namara. Y bị toà án Vùng 3 Chiến Thuật xử tử h́nh. Trước toà, y khóc lóc, chửi bọn xúi y đi ôm bom là bọn " chó đẻ ", và xin toà tha tội. Khi toà tuyên án tử h́nh, y hô to Hồ Chí Minh muôn năm. Hô xong y lại khóc và xin toà tha.

Năm 1993, tôi (luật sư Nguyễn Văn Chức) có đọc cuốn "Chung Một Bóng Cờ" do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (Hà Nội) ấn hành, gồm những bài viết của Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Văn Đồng... Cuốn sách đă dành một trang để nói về cái chết của Anh Hùng Trần Văn Đang. Xin trích một vài ḍng cuối: " Sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965 lúc 5 giờ 52 phút, Mỹ và chính quyền Sài G̣n đem anh ra xử bắn tại pháp trường cát, với hy vọng có thể khủng bố được tinh thần nhân dân Sài G̣n. Nhưng chúng đă lầm. Trước đông đảo đồng bào và phóng viên trong và ngoài nước đang tụ tập dọc đường Hàm Nghi và chợ Bến Thành, vừa bước xuống xe, Trần Văn Đang dơng dạc nói lớn: Hỡi đồng bào chợ Bến Thành, hỡi đồng bào Sài G̣n thân yêu, tôi là Trần Văn Đang đây, chiến sĩ giải phóng, tôi đánh Mỹ để giải phóng dân tộc... Đả đảo đế quốc Mỹ... đả đảo tập đoàn tay sai bán nước. Ngay sau khi súng đă nổ, anh vẫn không ngừng hô to Hồ chủ tịch muôn năm, đả đảo đế quốc Mỹ " (trích trong Chung Một Bóng Cờ, trang 886-887).

hoanglan22 03-27-2019 13:17

50 năm sự kiện Vịnh Bắc bộ: Nghị Quyết Vịnh Bắc bộ – 1964
 
1 Attachment(s)


Diễn tiến

Trước hết tôi xin nói về diễn tiến của sự kiện lịch sử này theo lời cựu Bộ trưởng quốc pḥng McNamara và nhận định của ông (1). Nước Mỹ tiến gần tới tuyên chiến tại Việt Nam đó là vụ Nghị quyết vịnh Bắc Việt tháng 8-1964. Những biến chuyển quanh Nghị quyết này cho tới nay vẫn c̣n nhiều tranh căi mâu thuẫn.

Trước tháng 8-1964 chỉ có một số ít người Mỹ không quan tâm đến diễn tiến ở VN, chiến tranh có vẻ c̣n xa nhưng biến cố Vịnh Bắc Việt đă thay đổi cái nh́n đó. Về đoản kỳ khi tầu chiến Mỹ bị tấn công trong vịnh và nghị quyết của Quốc hội sau đó đă đưa tới khả năng Mỹ can thiệp vào cuộc chiến chưa từng có trước đây. Theo McNamara điều quan trọng hơn là chính phủ Johnson đă xin Quốc hội ra Nghị quyết này để hợp thức hóa về mặt hiến pháp mọi hoạt động quân sự của Hành pháp Mỹ tại VN từ 1965.

Quốc hội nh́n nhận quyền hạn lớn của Nghị quyết dành cho TT nhưng nó không có nghĩa như một tuyên chiến và cũng không có nghĩa đó là sự cho phép mở rộng lực lực lượng Mỹ tại VN từ 16,000 cố vấn lên 550,000 quân tác chiến. Bảo đảm sự tuyên chiến và cho phép quân tác chiến những năm sau đó chắc là không được.

Nhiều người coi chín ngày từ 30-7 tới 7-8-1964 như một giai đoạn nhiều tranh căi nhất của cuộc chiến 25 năm. Qua nhiều thập niên, đă có nhiều tranh luận về những sự kiện tại vịnh, Hành pháp tường tŕnh cho Quốc hội và người dân thế nào, xin Quốc hội quyền hành động và hai ông Tổng thống đă xử dụng quyền này qua các năm ra sao

McNamara nêu nên một số câu hỏi và tự ông trả lời như sau.

Tầu tuần duyên của Bác Việt tấn công khu trục hạm Mỹ ngày 2-8 và 4-8-1964, có thật không?

Trả lời: ngày 2-4 th́ chắc chắn không chối căi được. Ngày 9-11-1995 tại Hà Nội, McNamara có gặp gỡ và nói chuyện với Vơ nguyên Giáp, ông ta nói ngày 4-8 không có cuộc tấn công của tầu BV như người Mỹ tưởng.

Hồi đó và sau này một số vị dân cử Quốc hội và người dân Mỹ cho rằng chính phủ Johnson khiêu khích địch để có cớ leo thang chiến tranh và dùng mưu mẹo để được Quốc hội chấp thuận cho leo thang.

Trả lời: hoàn toàn không có chuyện này.

Tổng thống trả đũa, cho máy bay ném bom bốn căn cứ tầu tuần duyên và một kho nhiên liệu, như thế có đúng không?

Trả lời: có thể.

Những biến cố tại vịnh BV có liên hệ tới hai chiến dịch riêng rẽ của Mỹ trước đây: Kế hoạch 34A và DESOTO.

Từ tháng 1-1964 Hội đồng an ninh quốc gia đă chấp nhận cho CIA yểm trợ miền nam VN những hoạt động bí mật chống phá BV, mật danh 34A gồm hai hoạt động trước hết thả biệt kích ra Bắc, thứ hai dùng tầu tuần duyên nhỏ, tốc độ cao do người Việt hoặc Mỹ lái đánh phá bờ biển hoặc hải đảo BV những nơi được coi là xuất phát xâm nhập, yểm trợ VC tại miền nam, đánh rồi chạy (hit and run).

DESOTO là một phần của hệ thống thám thính toàn cầu bằng điện tử do những tầu hải quân Mỹ chạy ngoài hải phận quốc tế. Những tầu này thu lượm những tín hiệu của radar, những truyền tin từ các trạm trên bờ các nước CS như Nga, Trung cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt cũng giống như Nga dùng tầu lưới cá tại bờ biển Mỹ.

Tối 30-7 -1964, tầu tuần duyên của VNCH tấn công hai hải đảo thuộc vịnh BV được cho là dùng để yểm trợ xâm nhập miền nam VN. Sáng hôm sau khu trục hạm Mỹ Maddox đi vào vịnh (chiến dịch DESOTO ) rất xa các đảo. Hai ngày rưỡi sau tức 2-8 lúc 3 giờ 40 (giờ VN, tức 3 giờ 40 sáng Mỹ) tầu Maddox báo cáo bị những tầu tuần duyên cao tốc đuổi theo, một lúc sau bị tấn công bằng ngư lôi và súng tự động nhưng Maddox không bị trúng đạn hoặc hư hại. Thủy thủ lấy được những mảnh đạn trên boong tầu mà McNamara yêu cầu gửi cho ông làm bằng chứng. Trong quân sử của BV, họ xác nhận đă đưa ra lệnh tấn công Maddox, khi biến cố sẩy ta khu trục hạm này nằm ở hải phận quốc tế, cách bờ biển BV hơn 25 dặm.

Lúc 11:30 sáng (2-8) Tổng thống Johnson họp các cố vấn để nghiên cứu t́nh h́nh. Mọi người tin là do cấp chỉ huy địa phương BV hơn là do cấp lớn đă khởi động. Tổng thống v́ thế không trả đũa mà chỉ gửi kháng thư cho Hà Nội, ông vẫn cho tiếp tục tuần tiễu, cho thêm khu trục hạm C.Turner Joy đi kèm. Maxwell Taylor, Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n phản đối tại sao không giáng trả BV, có thể coi như Mỹ lùi bước không dám đối đầu với CS.

Vào lúc 3 giờ chiều hôm sau Dean Rusk (bộ trưởng ngoại giao) và McNamara thuyết tŕnh cho các Thượng nghị sĩ thuộc Ủy ban ngoại vụ và Ủy ban quân sự để diễn tả chiến dịch 34A, DESOTO và tại sao Tổng thống đă không giáng trả địch. Hai ông cũng giải thích cho biết DESOTO không có ư khiêu khích BV để tầu Maddox bị tấn công, vẫn tiếp tục chiến dịch DESOTO.

Vào lúc 7 giờ sáng (7 giờ chiều VN) ngày 4-8 tầu Maddox cho biết bị tầu lạ tấn công. Một giờ sau tầu Maddox nói radar cho thấy ba tầu lạ. Hàng không mẫu hạm Ticonderoga ở gần đó đă cho máy bay tới yểm trợ hai tầu Mỹ Maddox và Turner Joy. Trời nhiều mây, có mưa băo lớn rất khó quan sát. Mấy tiếng sau hai tầu này báo cáo bị hơn hai mươi ngư lôi tấn công, thấy vệt sóng của ngư lôi, ánh đèn chiếu sáng trên boong tầu địch, súng tự động nhả đạn, radar của tầu Mỹ có báo hiệu.

McNamara cùng ông phụ tá họp với bộ tham mưu để đối phó. Mọi người đồng ư nếu báo cáo này đúng, cần trừng trị thích đáng kẻ tấn công tầu Mỹ ngoài hải phận quốc tế , v́ thế họ vội triển khai ngay kế hoạch cho máy bay từ hàng không mẫu hạm đánh phá bốn căn cứ tầu tuần duyên và và hai kho nhiên liệu. Lúc 11 giờ 40 sáng, McNamara họp với Dean, Mac (Bundy) và các Tướng khác để duyệt lại quyết định, họ tiếp tục bàn tại phiên họp tại Hội đồng an ninh QG và họp với Tổng thống. Johnson đồng ư lần này nếu được xác nhận đúng cần phải trừng trị nhanh và mạnh.

Vấn đề c̣n lại là cuộc tấn công lần thứ hai có thật không?

Như đă nói tầm nh́n khi bị tấn công đợt hai rất hạn chế, v́ thế và v́ tiếng động máy ḍ tầu ngầm thường không đáng tin lắm cho thấy báo cáo về cuộc tấn công đợt hai (4-8) không chắc chắn lắm. V́ thế McNamara cố điều tra để t́m sự thật, ông yêu cầu Trung tướng David A Burchinal liên lạc hỏi Đô đốc Sharp ở Honolulu để biết hư thực.

Lúc 1 giờ 27 chiều đại úy Herrick, người điều hành DESOTO trên tầu Maddox cho biết tin tức về việc bị tấn công bằng ngư lôi có vẻ nghi ngờ. Thời tiêt xấu ảnh hưởng radar có thể gây lên báo cáo đó, đề nghị lượng giá lại trước khi hành động. Bốn mươi phút sau Đô đốc Sharp gọi cho tướng Burchinal nói mặc dù đại úy Herrick nói thế nhưng ông vẫn tin là cuộc tấn công lần thứ hai (4-8) là có thật. McNamara gọi hỏi thẳng Sharp, ông này cho biết có vài nghi ngờ xong cũng tin có bị tấn công bằng một số ngư lôi, tầu Turner Joy báo cáo đánh ch́m ba tầu tuần duyên, Maddox báo cáo đánh ch́m một hoặc hai cái. McNamara nói khi nào biết chắc là có thật th́ sẽ trả đũa. Sharp nói có thể có và sẽ điều tra thêm.

Lúc 4 giờ 47 McNamara họp với các tham mưu trưởng duyệt các chứng cớ liên quan cuộc tấn công, có năm yếu tố cho thấy cuộc tấn công có thật. Tầu Turner Joy bị chiếu sáng khi bị bắn bằng súng tự động, một trong hai khu trục hạm thấy đèn pha trên boong tầu tuần duyên, súng pḥng không của họ đă bắn hai phi cơ Mỹ bay ở trên, đă bắt được và giải mă một bản tin của BV được biết họ có hai chiếc tầu bị bắn ch́m. Đô đốc Sharp nói có thể có tấn công ngày 4-8. Đến 5 giờ 23 Đô đốc gọi Tướng Burchinal và nói chắc chắn có tấn công các khu trục hạm Mỹ.

Lúc 6 giờ 15 chiều, Hội đồng an ninh QG họp, McNamara kể sơ chứng cớ và đề nghị trả đũa. Mọi người nhất trí hành động, Tổng thống cho lệnh máy bay thuộc Hải quân trừng phạt. Lúc 6 giờ 45 TT Johnson, Dean Rusk, Bus Wheeler (Tham mưu trưởng mới), McNamara họp với các vị Chủ tịch ủy ban Quốc hội để thuyết tŕnh sự việc, giải thích sự trừng phạt. Dean nói BV đă cố ư tấn công, ta cần trừng trị giới hạn. Tổng thống nói ông muốn đưa ra Quốc hội để xin yểm trợ cuộc chiến nếu cần, một số vị dân cử nói họ sẽ ủng hộ.

Lúc 7 giờ 22 hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constelletion được lệnh tấn công trả đũa. Tổng cộng có 64 phi vụ tấn công các căn cứ tuần duyên và kho dầu để trả đũa, chỉ là tấn công giới hạn.

Mấy năm sau, tháng 2-1968 Thượng viện họp xét lại chứng cớ và chỉ trích tường tŕnh của chính phủ. Năm 1972, Tordella, phụ tá giám đốc cơ quan an ninh QG kết luận bản tin nghe được của BV cho là lệnh tấn công ngày 4-8 thực ra là lệnh tấn công ngày 2-8. Cline, phụ tá giám đốc CIA 1964 trả lời một cuộc phỏng vấn năm 1984 nói thế. Phi công Stockdale, năm 1964 đă bay yểm trợ cho hai khu trục hạm Mỹ tối 4-8, sau này viết hồi kư nói tối hôm đó khi bay ngang hai khu trục hạm ông ta chẳng thấy cái tầu BV nào cả và nói chắc không hề có cuộc tấn công này.

Ngày 6-8-1964, lúc 9 giờ sáng các ông Dean, Bus, McNamara vào pḥng họp với Ủy ban Ngoại vụ và Quân sự Thượng viện để xác nhận vụ tấn công 2-8 và 4-8 và xin Thượng viện ủng hộ. Dean nhấn mạnh cuộc tấn công này không phải là biến cố riêng mà nó nằm chung trong kế hoạch xâm chiếm miền Nam và các nước Đông nam Á. Sau đó nói chi tiết hai vụ tấn công, Tướng Bus cho biết các TMT nhất trí trả đũa, đó là thích đáng.

McNamara cho rằng Quốc hội hiểu quyền hạn rộng lớn mà Nghị quyết dành cho Tổng thống, nhưng chắc Quốc hội hiểu rằng Tổng thống sẽ không dùng nó mà không tham khảo cẩn thận tường tận với Quốc hội. Hôm sau, lưỡng viện bỏ phiếu bầu ngày 7-8. Thượng Viện thông qua Nghị quyết Tonkin Gulf Resolution với tỷ lệ 88-2, Hạ viện bỏ phiếu thuận hoàn toàn 416-0, tỷ lệ chung là 99.60%.

Nhiều người chỉ trích (sau này) cho rằng chuyện Vịnh có nhiểu âm mưu giả dối, họ lên án chính phủ mong được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến tại Đông Dương, soạn thảo một nghị quyết, khiêu khích địch gây ra biến cố để được ủng hộ, McNamara nói những chỉ trích này vô căn cứ.

Tổng thống không hề nghĩ Nghị quyết cần để đưa quân vào VN mà vài vị Tham mưu trưởng đă đề nghị từ tháng 1-1964, việc đưa quân vào cần có Quốc hội chấp thuận. Bộ Ngoại giao đă soạn một Nghị quyết từ cuối tháng năm nhưng v́ Max Taylor khuyên nên hoăn chiến dịch quân sự tới tới mùa thu. Johnson, Dean, Mac, McNamara đồng ư và đă quyết định hoăn đưa dự thảo Nghị quyết ra Quốc hội chờ khi Đạo luật Nhân quyền đă được Thượng viện chấp thuận tháng Chín.

Nhưng khi BV tấn công, Johnson thấy đó là cơ hội để được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến chống lại âm mưu xâm lược của Hà Nội, hành động của ông cứng rắn nhưng vẫn ôn ḥa so với ứng cử viên diều hâu Goldwater của đảng đối lập.

Năm 1977, George Ball (cựu thứ trưởng ngoại giao 1964) trả lời phỏng vấn đài BBC chỉ trích chính phủ đă mở chiến dịch DESOTO khiêu khích BV để có cớ trả đũa. Ngược lại Bill Bundy (CIA, cố vấn ngoại vụ TT 1964) cũng đă nói chuyện trên BBC, ông ta phủ nhận những lời cáo buộc như trên, theo Bill t́nh h́nh lúc đó (tại VNCH) chưa tồi tệ đến nỗi phải có biện pháp mạnh. Bill nói “Không có chuyện Chính phủ cố t́nh khiêu khích để tạo ra biến cố ấy” (2)

McNamara cho rằng nếu Nghị quyết vịnh Bắc Việt đă không đưa tới sự can thiệp quân sự lớn lao tại VN th́ nó đă không gây nhiều tranh căi như vậy. Nhưng nó dùng để mở cửa cho ḍng thác lũ (đưa quân vào), McNamara nói tuy nhiên cho rằng chính phủ Johnson lừa gạt Quốc hội là sai. Vấn đề không phải là Quốc hội không nắm được khả năng của Nghị quyết mà là nhưng là không nắm được tiềm lực của cuộc chiến và chính phủ có thể đối phó với nó như thế nào. Trong phiên họp ngày 20-2-1968 để duyệt lại vấn đề này, Thượng nghị sĩ Fulbright vui vẻ từ bỏ lời đă kết án McNamara cố ư khiến cho Quốc hội sai lầm, ông nói “Tôi không bao giờ có cảm tưởng rằng tôi đă nghĩ ông cố t́nh gạt chúng tôi”, các Thượng nghị sĩ Mansfield , Claiborne Pell và Symington cũng xác nhận thế (3)

McNamara kết luận cơ bản của vấn đề Vịnh Bắc Việt không phải là sự lừa gạt nhưng nói đúng hơn là sự lạm dụng quyền hạn từ Nghị quyết. Ngôn ngữ của Nghị quyết cho Tổng thống quyền hành xử, và Quốc hội hiểu tầm vóc của quyền hạn khi họ ủng hộ tối đa Nghị quyết ngày 7-8-1964. Nhưng chắc chắn là Quốc hội không có ư định cho phép xa hơn trong việc tăng vọt từ 16,000 lính Mỹ lên 550,000 tại VN mà không tham khảo đầy đủ với Quốc hội. Nó khiến chiến tranh mở rộng lớn có nguy cơ kéo Nga, Trung Cộng vào cuộc và đă mở rộng sự can thiệp của Mỹ tại VN trong nhiều năm.

Vấn đề Quyền hạn của Quốc hội đối nghịch với quyền Tổng thống về điều động quân đội vẫn c̣n tranh căi cho tới nay. Căn nguyên của sự tranh chấp này nằm ở chỗ văn tự Hiến Pháp mơ hồ, nó trao Tổng thống quyền Tổng tư lệnh nhưng lại cho Quốc hội quyền tuyên chiến.

Những nhận định khác

Trên đây là nội dung vấn đề theo diễn tả và ư kiến của McNamara, nhân vật đóng vai tṛ then chốt trong chiến tranh VN giai đoạn 1963-1968. Tôi xin ghi thêm nhận xét và ư kiến của các chính khách và nhà nghiên cứu khác để vấn đề được nh́n thêm dưới nhiều khía cạnh. Về cuộc tấn công hai ngày 2-8 và 4-8 qua sự tường thuật của các tác giả có khác nhau về chi tiết, có thể v́ do tam sao thất bản, tôi chú trọng về ư kiến riêng của họ nhiều hơn.

Về biến cố này cựu Tổng thống Nixon nói (4) ngày 2-8 tầu tuấn duyên BV tấn công khu trục hạm Maddox tại vịnh trên bằng ngư lôi nhưng không gây thiệt hại, và sau đó ngày 4-8 họ lại tấn công hai tầu Maddox và C Turner Joy. Nhiều năm sau, các kư giả phản chiến xác định rằng cuộc tấn công 4-8 của BV không hề có, họ kết án Johnson và quân đội ngụy tạo ra để lấy cớ can thiệp vào cuộc chiến. Nixon kết luận là không có chứng cớ nào cho thấy Mỹ khiêu khích, ngay quân sử của BV cũng kể lại chuyện này.

Ông cũng nói Nghị quyết vịnh BV không phải là mưu mẹo để được rộng quyền tham chiến như một số người kết án nhưng nó là một cố gắng lương thiện để được Quốc hội yểm trợ cho việc can thiệp sâu rộng hơn mà nó buộc ta phải gánh vác. Nghị quyết của Johnson không phải là lư do người Mỹ vào VN, nó xác nhận rằng các cuộc tấn công này chỉ là một phần của chiến dịch xâm lược có hệ thống của CSBV đối với các nước láng giềng, các nước liên kết chiến đấu cho tự do. Quốc hội chấp thuận và ủng hộ quyết định của Tổng thống, với cương vị Tổng tư lệnh, bằng mọi cách đẩy lui những lực lượng gây hấn với Hoa Kỳ và pḥng ngừa những gây hấn trong tương lai.

Nixon nói “Chúng ta không lâm chiến v́ hai cuộc tấn công nhỏ ngoài khơi nhưng v́ Bắc Việt đang ra sức chiếm trọn Đông dương” (5). Nhiều người trách Johnson không xin Quốc hội tuyên chiến. Quốc hội và Ngũ giác đài không tuyên chiến v́ họ không ngờ cuộc chiến lại kéo dài như thế, Johnson tưởng là oanh tạc chiến thuật tại miền nam VN và oanh tạc giới hạn tại BV sẽ khiến Hà nội từ bỏ xâm lược, tuyên chiến có thể lôi kéo Nga Trung Cộng nhập cuộc. Johnson không muốn chiến tranh khi ông chuẩn bị ứng cử Tổng thống năm 1964. Hạ viện chỉ họp trong bốn mươi phút và đồng thuận 100% (480-0), Thượng viện bàn thảo 8 tiếng cuối cùng bầu với 88 thuận, 2 chống. Nixon nói sự kiện chứng tỏ Quốc hội đă ủng hộ vô cùng vững chắc.

Những người ủng hộ Nghị quyết về sau họ chống chiến tranh kết án Johnson lừa gạt Quốc hội để vượt quá quyền hạn của ḿnh. Nixon cho là không phải như thế, bản ghi âm cuộc thảo luận tại Thượng viện cho thấy Quốc hội tham chiến với con mắt mở to, hoàn toàn tự nguyện. Nghị quyết này không phải chỉ là căn bản hợp pháp để lâm chiến, Johnson cũng hành động phù hợp với những điều khoản an ninh của Tổ chức Liên pḥng Đông nam Á (SEATO). Vả lại Quốc hội cũng hành xử quyền hạn chiến tranh của ḿnh hàng năm khi họ chi tiền cho quân đội Mỹ tại VN.

Tác giả Bernard C. Nalty (6) nói ngày 2-8 ba tầu tuần duyên BV đuổi theo tầu Maddox đang ở ngoài hải phận quốc tế, tầu BV đă phóng ba ngư lôi nhưng không trúng mục tiêu. Tầu Maddox bắn trả bằng đại bác 127 ly gây thiệt hại nặng cho hai tầu BV, phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga tới yểm trợ.

Về cuộc tấn công ngày 4-8, Nalty nói BV gây hấn hay người Mỹ tưởng tượng? ông tỏ vẻ nghi ngờ biến cố này. Hôm sau Tổng thống Johnson cho tăng cường thêm khu trục hạm C Turner Joy, ngày 4-8 người chuyên viên radar trên tầu Maddox báo cáo có năm tầu phóng ngư lôi đang đuổi theo, sau đó cả hai thuyền trưởng của Maddox và C. Turner Joy quả quyết là họ bị tấn công và gọi máy bay yểm trợ đồng thời cho khai hỏa, họ báo cáo là bắn ch́m hai tầu BV và làm hư hại hai cái khác.

Theo tác giả có nhiều chỉ trích gồm cả các viên chức t́nh báo, lời của họ đă được viết vào Văn kiện Ngũ giác đài, sau này nó xác nhận “tầu địch” chẳng qua chỉ là những tiếng “blip”của radar do những đợt sóng phía sau tầu C Turner Joy gây ra mà những chuyên viên radar chưa có kinh nghiệm của tầu Maddox đă tưởng lầm. Tuy nhiên các vị chỉ huy tại chiến trường xác nhận là có tấn công và tin rằng BV đáng bị trừng phạt giới hạn, Tổng thống Johnson quyết định trả đũa, cho không kích các căn cứ xuất phát tấn công nhưng không có mục đích mở rộng chiến tranh. Các phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation tấn công bốn căn cứ hải quân và một kho dầu của BV. Khoảng 25 tầu tuần duyên bị phá hủy, 90% các kho dầu tại Vinh bị bốc cháy. Hai máy bay Mỹ bị pḥng không bắn rơi, hai chiêc khác bị hư hại.

Thăm ḍ cho thấy sau cuộc tấn công trả đũa, người dân Mỹ ủng hộ hành động của Johnson rất cao.

Tác giả Marilyn B. Young (7) nhận xét: nhiều năm sau Nghị quyết khi sự lừa dối được phát hiện và Quốc hội muốn tự tách ra khỏi cuộc chiến mà chính họ đă phê chuẩn năm 1964, nhiều Thượng nghị sĩ than phiền rằng nếu họ biết sự thật th́ họ đă chống lại Nghị quyết. Dân biểu Dante, Florida nói ông Tổng thống có nhu cầu quyền hạn, một biến cố t́nh cờ có thể đem lại quyền lực cho ông. Quốc hội nghĩ oanh tạc BV sẽ khiến họ chấm dứt chiến tranh. Họ cũng nghĩ như Hành pháp, nếu Mỹ khiến CS trả giá cao th́ sẽ ngưng xâm lược miền nam. James Thomson (1964 trong Hội đồng an ninh GQ) trong một phiên họp của Thượng viện năm 1968 nói biến cố Vịnh lần sau (4-8) là cách thuận lợi chứng tỏ ư chí của chung mà chẳng cần có chứng cớ rơ ràng để tham dự cuộc chiến. Thượng viện sau này đánh giá Hành pháp Johnson sai lầm khi nghĩ rằng dùng oanh tạc hay sức mạnh quân sự có thể khiến Hà nội bị khuất phục.

Không cần biết chuyện ǵ sẩy ra ở Vịnh BV, việc đưa ra Quốc hội thành công mà các cố vấn của Tổng thống đă khuyên ông làm để đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Theo Marilyn B. Young Hà nội quyết tâm đi vào cuộc chiến, tháng 10-1964 họ đă đưa ba trung đoàn chính qui khoảng 4,500 người vào Nam, chiến dịch oanh tạc của Johnson không khiến Hà nội phải đầu hàng mà c̣n mở rộng cuộc chiến hơn nữa, cuối cùng Johnson không t́m được ḥa b́nh như ông đă hứa với người dân.

Tác giả Stanley Karnow (8) nói tổng cộng cuộc oanh kích trả đũa BV của Johnson gồm 64 phi vụ, có khoảng 25 tầu bị phá hủy hoặc hư hại, Mỹ bị mất hai máy bay.
McNamara hồi đó cho biết ông đă có bốn công điện của BV cho thấy họ cho lệnh tấn công tối 4-8, những công điện này được giữ bí mật từ đó. Nhưng hoặc ông hiểu sai công điện hay cố t́nh dấu diếm nó, theo một cựu viên chức Mỹ rành về những bản truyền tin của địch th́ đó không phải là lệnh tấn công (attack orders) mà McNamara hiểu nhưng là lệnh của bộ chỉ huy cho các tầu tuần duyên chuẩn bị tác chiến (military operations) mà có thể là tự vệ. Ray Cline phụ tá giàm đốc CIA hồi đó, đă phân tách sự khác biệt chính giữa hai cuộc tấn công là: sau khi duyệt xét những hồ sơ th́ chỉ thấy nó liến quan đến cuộc tấn công trước (2-8)

Kết Luận

Những năm đầu thập niên 60, người dân Mỹ và Quốc hội ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến tranh VN v́ quá sợ CS, họ tin rằng nếu mất miền nam VN hay Đông dương sẽ mất Đông nam Á. Tất cả sách báo, thống kê về giai đoạn này, nhất là 1964 đều nói đa số, đại đa số người dân, thậm chí có tài liệu nói 78% hoặc 85% (9) ủng hộ cuộc chiến, đại đa số Quốc hội ủng hộ cuộc chiến. Tháng 8-1964 Johnson đưa ra Quốc hội xin Nghị quyết Đông nam Á và đă được chấp thuận với tên Nghị quyết Vịnh Bắc Việt ngày 7-8-1964 với tỷ lệ tối đa 99.60% số phiếu thuận choTổng thống can thiệp vào cuộc chiến ngăn chận CS tại VN.

Trường hợp nếu Johnson -McNamara dùng oanh tạc khuất phục được BV, mang lại ḥa b́nh th́ sẽ không có ai đề cập tới Nghị quyết này. Nhưng sau khi được Quốc hội cho phép hành động, Johnson McNamara đă đem hơn nửa triệu quân vào miền nam VN trong mấy năm chiến tranh nhưng không thắng được CS, cuộc chiến ngày càng mở rộng. Sau trận Tết Mậu Thân tháng 2-1968 số người ủng hộ chiến tranh tụt thang nhanh chóng, tỷ lệ chống chiến tranh tăng nhanh. Khi ấy người ta kết tội Johnson đă gây lên cuộc chiến sa lầy, họ bèn xét lại Nghị quyết và lên án ông đă lừa gạt Quốc hội để đưa nước Mỹ can thiệp vào VN. Sau đó tới màn bới lông t́m vết, vạch lá t́m sâu và duyệt xét lại Nghị quyết để kết luận không có cuộc tấn công lần thứ hai ngày 4-8 của tầu tuần duyên BV mà do McNamara và ban tham mưu bịa ra tŕnh Tổng thống lường gạt Quốc hội, nghĩa là chỉ Johnson McNamara là chịu trách nhiệm, người dân và Quốc hội không có ǵ đáng chê trách!

Như đă nói trên buổi chiều tối 4-8 chuyên viên radar trên tầu Maddox cho biết nhận được tín hiệu bị tấn công bằng ngư lôi, các thủy thủ trên tầu Turner Joy xác nhận đă nh́n thấy đèn pha chiếu sáng từ tầu địch và thấy súng tự động bắn, súng pḥng không bắn hai máy bay Mỹ bay trên cao (10). Hai thuyền trưởng trên hai khu trục hạm Maddox và C Turner Joy báo động và ra lệnh bắn trả tối đa về hướng nghi ngờ, không có lửa tại sao lại có khói?

Thuyền trưởng kêu gọi không quân yểm trợ, Stockdale một trong các phi công từ hàng không mẫu hạm bay tới, ông đảo trên trời một tiếng rưỡi và không thấy chiếc tầu nào của BV mà chỉ thấy tầu Mỹ bắn loạn xạ trên mặt biển, sau này viết hồi kư kể lại như vậy.

Đô đốc Sharp, Tư lệnh Thái b́nh dương dựa theo báo cáo của hai thuyền trưởng để tường tŕnh với McNamara và ông này tŕnh lên Tổng thống như đă nói trên. Mặc dù chứng cớ về cuộc tấn công này có vẻ mơ hồ nhưng phản bác của những người chống đối cũng không có ǵ là cụ thể, chỉ là “lư sự”, thí dụ họ nói các chuyên viên radar thiếu kinh nghiệm, tưởng lấm, những năm sau giải mật các bản công điện của BV th́ thấy chắc là lệnh tự vệ chứ không phải lệnh tấn công. Đó cũng chỉ là một cách hiểu khác, giải thích khác cũng như người ta giải nghĩa những câu văn trong Kinh Dịch, mỗi người hiểu một cách. Ngoài ra những bản công điện, vô tuyến điện thoại của BV chưa chắc đáng tin cậy, họ thường đưa tin giả để nghi binh, Đại tá Nguyễn trọng Luật, cựu tỉnh trưởng Ban mê Thuột cho biết CSBV thừa biết đối phương hay nghe lén điện thoại, công diện nên họ đă đưa nhiều tin giả để lừa địch.

Nhưng vấn đề là Johnson McNamara có cần phải khiếu khích BV và tạo biến cố giả tại Vịnh Bắc việt để đánh lừa Quốc hội hay không trong khi cuộc chiến giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đă thực sự diễn ra từ 1959.

Ngày 13-5-1959 tại Hà Nội, CSBV đă mở Hội nghị thứ 15, ra Nghị quyết phát động chiến tranh chiếm miền nam bằng vũ lực (11). Họ thành lập đoàn 559 đưa người vũ khí xâm nhập miền nam qua Lào và hai tháng sau đoàn 779 xâm nhập đường biển. Năm 1959 có hơn 2,500 vụ ám sát các viên chức chính phủ, gấp hai lần năm 1958 (12). Ngày 12-12-1960, CSBV thành lập Mặt trận giải phóng miền nam tại Hà nội, chính thức ra mắt ngày 20-12-1960 (13). Ngày 18-9-1961 hai tiểu đoàn VC chiếm tỉnh lỵ Phước Thành trọn một ngày, giết tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và 10 công chức, tổng cộng có 17,000 cán binh xâm nhập miền nam. Ngày 18-10-1961 Tổng thống VNCH ban hành t́nh trạng khẩn cấp toàn quốc (14). Năm 1962 cố vấn Mỹ gia tăng 11,300 người, quân đội VNCH tăng lên 220,000 người (15).

Đầu tháng 1-1963 trận Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho, VC bắn rơi 4 trực thăng Mỹ và bắn cháy ba M113, VNCH thiệt hại 63 người, Mỹ có 3 người chết, VC chết 41 nguời (16). Ngày 23-11-1963 tại trận Hiệp Ḥa, tỉnh Hậu Nghĩa có 41 Dân sự chiến đấu miền nam bị giết, 120 bị thương , 32 mất tích, VC bỏ lại 7 xác, 4 lực lượng đặc biệt Mỹ mất tích (17). Ngày 1-1-1964 VC pháo kích phi trường Biên ḥa, phá hủy 6 máy bay B-57, làm hư hại 20 cái khác , giết 5 người Mỹ, 2 VN, 76 bị thương (18). Từ 1959 cho tới 1962 có 100 cố vấn Mỹ bị giết, tới cuối 1964, tổng cộng có 416 người Mỹ bị giết chưa kể số người bị thương và bị bắt làm tù binh (19). Từ cuối 1964, đầu 1965 Hà nội công khai đưa quân chính qui vào nam. Như thế chiến tranh đă diễn ra rất sôi động rồi, cần ǵ phải t́m lư do?

Johnson chẳng thiếu ǵ chứng cớ để xin Quốc hội ủng hộ, đâu cần phải ngụy tạo biến cố Vịnh Bắc Việt ? dù có hay không Nghị quyết th́ cuộc chiến tranh giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đă diễn ra từ lâu rồi.

Ngoài ra Johnson không phải diều hâu, ông chủ trương ḥa b́nh, dùng oanh tạc đe dọa để Hà nội thấy cái giá phải trả mà từ bỏ cuộc chiến xâm lược, khác với ứng cử viên đối lập Goldwater chủ trương đánh mạnh hơn nữa. Năm 1965 khi t́nh h́nh quân sự tại miền nam rất xấu, Cộng quân gia tăng xâm nhập tấn công liên tục, Quân đội miền nam bị thiệt hại nhiều, Tướng Westmoreland khẩn khoản xin McNamara và Johnson gửi thêm quân tác chiến để cứu nguy miền nam. Mặc dù vậy, Johnson vẫn chần chừ, ông thăm ḍ các cố vấn, hỏi ư kiến cựu Tổng thống Eisenhower đến khi mọi người khuyên ông phải tăng quân theo yêu cầu của Tư lệnh, Johnson mới chịu dấn thân. Ông leo thang khi Hà Nội đă gia tăng xâm nhập, tấn công mạnh để làm sụp đổ VNCH. Trong khi đại đa số người dân, Quốc hội ủng hộ cổ vơ cuộc chiến, nó đă gián tiếp lôi cuốn Johnson can thiệp, ông tham gia cuộc chiến để khỏi mất phiếu v́ bị cho là nhu nhược.

Nguyên do TT Johnson không muốn tham gia cuộc chiến VN v́ sợ nó sẽ làm hỏng chương tŕnh chương tŕnh phúc lợi xă hội Great Society của ông gồm medicaire, cải tổ di dân, chống nghèo, làm dịu kỳ thị chủng tộc, nâng đỡ nhân quyền…. Johnson nghĩ ngân sách quốc pḥng sẽ làm hỏng chương tŕnh xă hội của ông.

Nếu nói là Johnson lừa gạt Quốc hội để được chấp thuận Nghị quyết Vịnh BV 1964 rồi đem quân vào VN là không đúng tí nào v́ dù không có Nghị quyết này ông vẫn có thể đem quân vào VN mà không cần đưa ra Quốc hội v́ hồi đó chưa có Nghị quyết War Powers Resolution, giới hạn quyền Tổng thống trong chiến tranh mà măi tới năm 1973 mới có.

(Tháng 8- 1973 War Powers Resolution được ban hành, nó qui định TT phải tham khảo Quốc Hội trước khi tham chiến. Sau khi tham khảo, TT có quyền tham chiến trong 60 ngày không cần sự chấp thuận của Quốc Hội và thêm 30 ngày nữa….)

Trường hợp TT Johnson gần giống TT Bush năm 2003 khi ông đă được Quốc hội và người dân ủng hộ cuộc chiến Iraq, nhưng mấy năm sau khi bị sa lầy người ta chỉ trích ông lừa gạt người dân v́ không t́m thấy vũ khí giết người hàng loạt. Tuy nhiên trường hợp Johnson có hơi khác là ông không muốn tham chiến v́ chuẩn bị ứng cử, v́ chương tŕnh phúc lợi xă hội.. c̣n Bush muốn chiến tranh, nhiều người nói cuộc chiến Iraq là do ư muốn của chính ông.

Người ta chỉ trích chiến dịch oanh tạc BV thất bại, Johnson không làm cho BV chịu thua cuộc nhưng cả Quốc hội, người dân cũng tin vào kế hoạch này. Không riêng ǵ Johnson mà cả nước Mỹ sai lầm v́ chủ quan, khinh địch, đánh giá quá thấp đối phương cũng như CS quốc tế, quá tin tưởng vào sức mạnh của ḿnh. Chiến dịch thất bại một phần v́ hỏa lực pḥng không địch rất mạnh, người Mỹ không nghĩ CS quốc tế viện trợ cho Hà Nội dồi dào như thế, từ đầu chí cuối họ đă cung cấp cho BV 3,229 khẩu cao xạ; 20,000 hỏa tiễn địa-không (SAM) (20)

Phản chiến nói TT Johnson lừa Quốc hội để có Nghị quyết vịnh BV, từ Nghị quyết này đi tới cuộc chiến lớn và sa lầy tại VN, có nghĩa v́ sự lừa gạt mà đưa tới cuộc chiến VN. Nhận định này không có căn cứ tí nào v́ như đă nói dù không có biến cố vịnh BV Johnson cũng có những lư do khác để đưa ra Quốc hội, và thậm chí dù không có Nghị quyết Vịnh BV 1964, ông vẫn có thể đưa quân vào VN được v́ ông là Tổng tư lệnh quân đội, v́ t́nh h́nh đ̣i hỏi và v́ hồi đó chưa có Nghị quyết hạn chế quyền Tổng thống (1973).

Những người chống chiến tranh và cả McNamara sau này cho là cuộc chiến VN sai lầm, nhưng nếu sai lầm tại sao không rút bỏ VN từ giữa thập niên 60? Tháng 12-1964, Hội đồng quân lực VNCH đă yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sứu và Thủ tướng Trần văn Hương trục xuất Đại sứ Mỹ Taylor mà họ cho là có thái độ hách dịch (21). Trong tường tŕnh cuối năm về Ṭa Bạch ốc, Taylor có đề nghị rút bỏ miền nam VN (22) nhưng không được ai chú ư. McNamara (hồi kư trang 320) cho là đáng lư Mỹ phải rút bỏ miền nam từ cuối 1963 hay cuối 1964 hoặc đầu 1965.

Nói cho oai thôi chứ trên thực tế Hoa kỳ vẫn bám vào miền nam VN kỹ lắm, mặc dù 1965, 1966 phản chiến tại Mỹ lên cao, ngay tại miền nam cũng có nhóm quá khích chống chiến tranh1966 nhưng họ cũng không dám rút bỏ. Người Mỹ chỉ rút bỏ VN năm 1975 sau khi đă ḥa được với CS quốc tế.

Những năm 1964, 1965 Hoa Kỳ có thể lựa chọn hoặc tham chiến hoặc rút bỏ miền nam VN hay không? Thực ra họ không có con đường nào khác hơn là can thiệp vào cuộc chiến VN để giữ Đông nam Á, để bảo vệ an ninh cho chính họ, bảo vệ cho chính quyền lợi của nước Mỹ.

Như thế không thể kết luận chỉ có Johnson là người đă đưa nước Mỹ vào cuộc chiến sa lầ.

© Trọng Đạt

Chú thích

(1) McNamara, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, trang 127-143
(2) In Retrospect trang 140
(3) In Retrospect trang 141
(4) No More Vietnams trang 73-76
(5) No More Vietnams trang 74
(6) The Vietnam war, trang 81, 82
(7) The Vietnam war 1945-1990, trang 120-123
(8) Vietnam a History trang 388,389
(9) Vietnam a History trang 390; answer.com, domino theory
(10) In Retrospect trang 134
(11) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1955-1963, trang 152
(12) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập trang 61
(13) VN Niên Biểu trang 206
(14) VN Niên Biểu trang 228,229
(15) Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 61
(16) Sách kể trên trang 63.
(17) Sách kể trên trang 94,95
(18) The World Almanac of The Vietnam War trang 95
(19) National Archives, Statistical Information about Fatal Casualties of the Vietnam War
(20) Đăng Phong, Năm Đường Ṃn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(21) Lâm vĩnh Thế, VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn trang 98
(22) In Retrospect, trang 164

hoanglan22 04-01-2019 13:21

Chiếc bàn ủi con gà nhà tôi
 
3 Attachment(s)
Nhờ có các chị lớn đi học mặc áo dài, cần phải ủi ngay ngắn nên nhà tôi có bàn ủi con gà khá sớm. Thời đó, quần áo nữ thường được may bằng các loại xoa như xoa Pháp, xoa suưt, nilon, xoa nhung mềm mại… dễ bị nhăn khi giặt nên cần phải ủi cho ngay ngắn.

Bàn ủi con gà được sản xuất từ Pháp cách đây khoảng 200 năm. Sau này ở Huế, khoảng năm 1930, cũng có đúc ra loại bàn ủi giống như vầy.



Bàn ủi con gà của Pháp được đúc bằng đồng có khả năng tích nhiệt từ than củi do chúng ta đốt sẵn từ bên ngoài cho vào. Do có một cái khóa h́nh con gà cũng bằng đồng cài lại cho chắc để khi ủi không bật tung ra trong lúc ủi đồ, nên người ta quen gọi nó là “bàn ủi con gà”.

Bên trong bàn ủi có một cái vỉ kê cao khoảng một phân, nằm vừa khít với phần đáy bàn ủi. Cái vỉ này có tác dụng giữ than cách với bàn ủi cho bàn ủi không bị nóng táp dễ cháy đồ, đồng thời là chỗ chứa lớp tro tàn từ than nóng. Nếu ủi đồ nhiều, cần phải đổ than ra ngoài thay than hồng khác cho nóng.

Trong lúc ủi, thỉnh thoảng dùng cái quạt mo quạt vào hàng lỗ dưới hông bàn ủi giúp cho tro bay bớt và than nóng lên.

Ngoài ra, c̣n có một cái đế h́nh tam giác là nơi đặt bàn ủi những khi nghỉ tay để xoay trở áo quần.

Khi cả nhà đi xuống chợ ở, tôi vừa nấu bếp dầu vừa nấu bếp củi. Dầu th́ cứ lăn thùng phi ra cây xăng bơm vào, rồi lăn về nhà xài. C̣n củi th́ chở trên quê xuống, má tôi lúc nào cũng chất để dành cả chục thước củi đă được phơi khô trong nhà.

Mấy chị tôi khi nào cần ủi đồ th́ dặn tôi nấu bếp củi để có than mà ủi đồ. Tôi phải lựa những loại củi chắc cây cho than lâu tàn, nếu có mủng vùa đốt lên than sẽ rất nóng mà lại lâu tàn hơn.

Có hôm mấy chị lười bắt tôi ủi đồ, nhờ vậy tôi ủi đồ cho ḿnh luôn. Tôi được cái lanh tay lẹ chân nên khi ủi đồ, tôi vừa ủi vừa xoay trở áo quần mà không cần đặt bàn ủi xuống. Chỉ ở chỗ khó phải căng ra ủi cẩn thận, tôi mới đặt bàn ủi xuống.

Có những lúc vội vàng, tôi gài cái khóa con gà không kỹ, vừa xách lên th́ than đổ ra đất tùm lum. Lại có lần tôi quên không thử bàn ủi trước, nên bị cháy một lỗ to. Khi bỏ than vào, bàn ủi tích nhiệt rất nóng nên phải ủi qua miếng lá chuối tươi cho đến khi nó khô quéo mới an tâm mà ủi quần áo.

Sau 75, bàn ủi con gà cũng theo tôi về trên quê. Lúc đó tôi đi học ở trường Trương Định G̣ Công. Quần áo lúc đó không có nhiều, nên lắm lúc mắc mưa, đồ giặt không kịp khô. Khuya tôi dậy nấu cơm sớm, đốt lấy than để ủi đồ. Củi than cháy chưa hết, bỏ vào bàn ủi, lúc ủi khói bay lên cay chảy nước mắt. Đă vậy quần áo c̣n ướt, ủi năm lần ba lượt mới khô, nếu không c̣n nóng phải đi thay than khác.

Lâu rồi cái khóa con gà bị lờn, cài lại không dính nên tôi phải dùng sợi dây vải cột từ tay cầm bàn ủi tṛng qua đầu con gà giữ cho chặt.

Những năm tháng đó nếu không có bàn ủi con gà th́ không biết làm sao, chẳng lẽ mặc đồ ướt đồ nhăn đi học, nhất là vải xoa dễ nhăn.


Rời quê lên Sài G̣n, tôi quên khuấy mất cái bàn ủi con gà thân thương. Cứ vài ba ngày tôi ủi đồ cho cô dượng tôi bằng bàn ủi điện, nhẹ nhàng không có khói và nhất là không sợ cháy đồ như bàn ủi than.

Nhưng khi bước ra đường, tôi lại thấy bàn ủi con gà ở một vài góc phố lúc cần đi ép nhựa giấy tờ. Họ cắt miếng nhựa đặt giấy tờ trong đó, rồi đặt miếng giấy lụa lên, đẩy bàn ủi đi bốn phía. Sau này người ta dùng máy điện để ép nhựa, ép plastic, tôi vẫn thấy c̣n vài người ngồi góc đường vời bàn ủi con gà ép nhựa giấy tờ.

Tôi nhớ, một thời những người này c̣n ép b́a bao tập vở cho học sinh. Sau nữa có những cuốn sách quá khổ cũng nhờ bàn ủi con gà ép cho cái b́a bao. Có người có thâm niên ép nhựa cả 40 năm…

Bàn ủi trở nên món đồ cổ khi người ta xài bàn ủi điện, cho nó ra ŕa. Nhưng nhờ vậy, bàn ủi con gà càng tăng giá trị cùa nó mà theo báo chí đưa tin là có những tay săn lùng t́m mua với giá bạc tỷ (?).

Bàn ủi con gà có giá, nói nào ngay, cũng v́ nó đặc biệt. Đó là “con gà” gắn trong bàn ủi phải là loại đồng lạnh, tức là nó không hấp nhiệt; trong bàn ủi có than, vậy mà rờ vào “con gà” vẫn không thấy nóng.




Nghe nói có một người đàn ông ở ngoài Nha Trang đă sưu tầm cả trăm cái bàn ủi than đủ loại – mà ông gọi là bộ sưu tập “Kư ức thời thơ ấu”. Ngoài bàn ủi con gà đủ loại với năm sản xuất khác nhau, ông c̣n có những loại bàn ủi khác như bàn ủi hoa sen triều Nguyễn, bàn ủi h́nh đầu lính La Mă, bàn ủi của Mỹ nhỏ nặng khoảng 100 gram…

Tôi không quan tâm đồ cổ v́ đôi khi vật chất vô hồn, người giữ nó phải có tâm th́ mới thổi hồn vào cho nó trở nên sống động. Tôi chỉ có thể nhớ đến một thời bàn ủi con gà mà lắm khi trong ḍng đời trôi chảy tôi vô t́nh quên nó đi.

Cảm ơn sự hiện diện của cái bàn ủi con gà trong hành tŕnh của tôi, như một người bạn đă giúp đỡ tôi những lúc cần đến…

Đăng lại từ Fanpage Dấu Quê

hoanglan22 04-01-2019 13:31

Chuyến Đi Kinh Hoàng - Những Món Nợ Ân T́nh Không Bao Giờ Trả Được
 
6 Attachment(s)
(Xin chân thành gửi đến anh Trần Đ́nh Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đă khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt t́nh giúp tôi hoàn tất viết lại những ḍng hồi kư đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này.)

Kính dâng lên hương hồn những thuyền nhân đă bỏ ḿnh trên biển cả v́ lư tưởng tự do. H́nh ảnh hiệu đính trên bài viết do một thuyền nhân là CVH, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, cựu Phóng Viên Đài VOA cung cấp sau chuyến đi thăm lại Đảo Pulau Bidong vào tháng 08, năm 2015. Nơi đây hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam đă tạm dừng chân, trước khi được đi định cư ở một nước thứ ba. (tdp)

Cuộc đời chúng ta có những điều trôi qua, rồi tan biến như cơn gió thoảng. Tuy nhiên, có những điều măi măi in đậm trong kư ức, dù có muốn quên cũng không thể nào quên được. Đối với tôi, một trong những điều không thể nào quên và cũng là món nợ không bao giờ trả được, dù bây giờ tôi có tiền rừng, bạc biển chăng nữa!

Câu chuyện xảy ra đă hơn ba mươi mốt năm. Hôm nay tôi xin ghi lại những phép lạ, mà tôi may mắn được chứng nghiệm trong chuyến đi bảy ngày đêm lênh đênh trên biển cả, với nhiều biến cố hăi hùng và kinh dị. Nếu như không có bàn tay nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật cứu vớt th́ 137 người đă cùng chết trong ḷng đại dương trên bước đường đi t́m "Tự Do".

Chuyến đi rất bất ngờ, do hai ân nhân là anh Nguyễn Vinh Tôn và anh ruột là Nguyễn Quốc Trụ, cựu Đại Úy thuộc binh chủng Nhảy Dù Quân Đội VNCH bảo trợ cho tôi mọi chi phí được trả từ Hoa Kỳ.

Có lẽ v́ đột ngột, nên tôi đă khóc suốt đêm và không thể nào ngủ được. Tâm trạng khác hẳn với những lần đi trước. Chưa ra đi mà trong ḷng đă tràn dâng niềm thương nhớ những người thân yêu trong gia đ́nh.

Khoảng 3 giờ sáng, ngày 23-9-1984, tôi đến thắp nhang bàn thờ Phật. Nguyện cầu cho chuyến đi được b́nh an, may mắn, tai qua nạn khỏi, không bị tù đày, nhất là đừng gặp hải tặc. Có như thế tôi mới có thể giúp được gia đ́nh thoát được cuộc sống bế tắc, khó khăn như hiện nay. Tôi cầu nguyện sức khoẻ, b́nh an, may mắn đến cho bố tôi đă già yếu, bệnh tật, cùng các anh chị em và một người tôi gọi là Cô đang sống đơn chiếc (đúng ra là D́ v́ là em ruột của mẹ tôi). Cô đă đùm bọc, giúp đỡ gia đ́nh chúng tôi rất nhiều kể từ khi Mẹ tôi bất ngờ ra đi v́ quá đau khổ và lo sợ cho ngày mai đen tối của một gia đ́nh mà hầu hết là quân nhân, công chức của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, sau biến cố 30-4-1975.

Và trong chuyến đi này, tôi cũng có thêm một lời nguyện cầu:Tôi sẽ tái ngộ một “Thiên Thần” đang chờ đợi tôi với một tấm ḷng trong sáng và cao quư.

Lúc 3giờ 45 sáng.Tôi đánh thức cô tôi dậy. Cô cũng vừa mới chợp mắt được một chút. Tôi cố giữ thật b́nh tĩnh chào từ giă cô để cho cô được yên tâm. Trong gia đ́nh và bà con thân thuộc chỉ có cô lúc nào cũng bên cạnh tôi và là người duy nhất biết tôi sắp đi xa, mà chuyến đi này lành th́ ít, nhưng dữ th́ quá nhiều không thể nào lường được. Ngoài ra, cần phải giữ bí mật v́ sơ xuất sẽ gặp những điều nguy hiểm có thể xảy ra.

Đúng 4:00 giờ sáng, nh́n qua khe cửa sổ, tôi thấy đèn từ một chiếc Honda gắn máy chớp đi, chớp lại bốn lần trước cửa nhà. Đây là tín hiệu mà tôi đă được cho biết trước: Có người trong nhóm tổ chức sẽ đến đón tôi.

Tôi lặng lẽ, nhẹ nhàng mở cửa. Tay ôm một túi xách nhỏ gồm: một ít lương khô, một bộ quần áo cũ, vài tấm ảnh gia đ́nh, một quyển kinh loại bỏ túi “Bạch Y Thần Chú” do bác tôi cho. Bác căn dặn phải thường xuyên khấn niệm để cầu xin b́nh an; và một sợi dây chuyền có h́nh con chim Đại Bàng đang xoè cánh do một người bạn tặng tôi từ lâu. Tôi luôn mang theo trong người v́ biết người ấy luôn luôn cầu nguyện cho tôi được may mắn. Đối với tôi, đó cũng là một biểu tượng "thần thoại. " Tôi sẽ được chim Đại Bàng mang tôi đến vùng trời mơ ước.Tôi cũng bỏ theo một b́nh nước nhỏ, tuy rằng, người của tổ chức dặn đừng mang theo ǵ hết v́ họ đă chuẩn bị tất cả đâu vào đó rồi.

Ngồi sau lưng người lái Honda mà tôi hoàn toàn không hề quen biết, tôi hơi lo sợ. Ngoái cổ nh́n lại con hẻm nhỏ thân yêu của một xóm nghèo gần ngă ba Cao Thắng và Trần Quốc Toản, Sài g̣n. Giờ này hầu như mọi người đang yên giấc. Tôi chào vĩnh biệt trong nước mắt căn nhà mà gia đ́nh tôi nương náu gần mười năm qua. Nơi đây bố tôi đă đưa cả gia đ́nh về sống, sau khi trả lại căn nhà do chính phủ VNCH cấp cho công chức chỉ trước biến cố 30/04/1975 vài tháng. Nếu c̣n tiếp tục ở lại căn nhà đó th́ không biết gia đ́nh tôi sẽ gặp khó khăn biết chừng nào, khi người ta đến tiếp thu và yêu cầu gia đ́nh tôi phải ra khỏi trong ṿng hai mươi bốn giờ.

Tài xế Honda chở tôi ra bến xe miền Tây. Tại đây có một ngựi đàn ông đội nón đen đă đứng chờ sẵn, ông ta trao vé xe đ̣ đă mua từ trước để tôi lên xe đi Mỹ Tho. Khi đến Mỹ Tho, tôi được một người đàn ông khác hướng dẫn chuyển xe đi tiếp Bến Tre. Đến nơi, khoảng giữa trưa, tôi cùng mấy nguời đă tới trước cùng ngồi ăn với nhau. Tôi nghĩ họ là những người sẽ cùng đi chung chuyến vượt biên với tôi.

Sau khi ăn trưa xong, tất cả được mời lên xe Lambretta ba bánh để chở ra bến đ̣ gần đó. Tại đây, người ta chia chúng tôi ra từng nhóm xuống những chiếc ghe nhỏ chở đầy trái cây để ngụy trang mà dân vượt biên c̣n gọi là “Ghe Taxi, hay “Cá Nhỏ”, để tránh những trạm kiểm soát dọc bờ sông, hoặc đột xuất có thể chận lại khám xét bất th́nh ĺnh.

Ghe đi được một lúc th́ nhóm tổ chức phát cho mỗi người một miếng giấy nhỏ, với mật mă do nhóm tổ chức ghi trên đó. Cho đến chiều th́ ghe tấp vào một bụi rậm ven sông để chờ đợi. Khi bóng đêm vừa bao trùm xuống, ghe lại tiếp tục đi thêm một khoảng khá xa. Tại đây đă có một ghe lớn neo sẵn, c̣n gọi là “Cá Lớn.” Đây là ghe sẽ đưa chúng tôi ra đi trên biển cả.

Lúc này đă có nhiều ghe nhỏ đang vây quanh và mọi người cùng một lúc đang t́m mọi cách để leo lên Cá Lớn, nên vô cùng hỗn loạn. Phụ nữ, trẻ em đứng trên vai những người đàn ông hay thân nhân để vịn vào thành ghe, sau đó nhảy lọt được vào cá lớn. Trước cảnh đó, tôi chỉ muốn bỏ cuộc, v́ nghĩ rằng tôi không thể nào đủ sức để có thể tự nhảy lên bám được vào thành ghe, rồi sau đó leo vào bên trong. Thời học sinh, tôi luôn luôn đứng cuối lớp về môn Thể Dục, đặc biệt là hai môn leo dây và nhảy cao th́ yếu nhất. Bây giờ, nếu đứng trên mặt đất bằng phẳng, tôi cũng không thể nào làm nỗi, huống chi là phải bám vào thành ghe đang tṛng trành trên sông nước. Tôi lại nhỏ con, thể lực rất yếu đuối; nếu chẳng may không vào được con cá lớn mà bị rớt xuống sông trong cảnh hỗn loạn và bóng đêm dày đặc này, chắc chắn một trăm phần trăm là chết đuối, v́ tôi không biết bơi và cũng chẳng có ai can đảm cứu tôi trong lúc này. Nhưng nếu bỏ cuộc, có nghĩa là sẽ ở tù, v́ tôi không thể t́m cách trở về nhà được trong lúc này nữa.

Tôi chỉ c̣n biết cầu xin Trời, Phật, Ông Bà khuất mặt hăy cứu vớt: “Con không thể đi tù thêm lần nữa! Con không thể nào chết. Con phải đi thoát được th́ con mới có cơ hội giúp gia đ́nh. Tất cả đang trông vào con. Gia đ́nh con không có điều kiện tiền bạc để cho con vượt biên. Nay có quư nhơn giúp đỡ, con chỉ cần quyết tâm, chấp nhận gian nguy là đạt được. Trời Phật có thương con, phù hộ cho con th́ con sẽ vượt qua.”

Tôi đă có kinh nghiệm trong lần vượt biên ở Cần Giờ bị bắt vào năm 1981 và ở tù trong Chí Hoà, sau đó bị đưa đi lao động ở Sông Bé. Chỉ trong vài phút thôi, Cá Lớn sẽ nhổ neo. Không bao giờ tổ chức vượt biên đợi người lên đầy đủ mới ra đi.

Tôi không thể do dự hay chần chờ ǵ nữa! Phải quyết định tức khắc. Tôi vừa khóc, vừa niệm Phật, vừa cố lấy hết sức nhắm vào thành Cá Lớn, tung hết sức b́nh sinh nhảy thật cao, thật chắc. Ôi! thật là may mắn! Tôi bám được vào thành ghe. Ôi! Tôi đă lọt thỏm vào Cá Lớn. Phải chăng có một sức mạnh vô h́nh nào đă nhấc bổng tôi lên, để tôi được vào khoang ghe, v́ b́nh thường tôi không bao giờ có thể làm nỗi điều này. Chưa kịp đứng lên th́ đă bị một số người nhảy tiếp sau đạp và đè lên khắp người. Tôi lại tiếp tục niệm Phật giúp tôi có đủ sức đứng dậy; nếu không tôi sẽ bị chết bẹp ở đây. May sao!tôi đứng dậy được và nép sát người vào thành ghe.

Chưa kịp hoàn hồn, nghe tiếng hét to: “Không ai được lên nữa! Ghe đă quá trọng tải. Nếu c̣n tiếp tục nhảy lên, ghe sẽ bị lật và ch́m, tất cả mọi người sẽ chết tại gịng sông này.” Ngay sau đó, người của tổ chức bật đèn pin sáng lên để bắt đầu kiểm tra mật mă. Một số người tŕnh mất mă, nhưng họ cho là không đúng và ra lệnh quăng những người này xuống những chiếc “Ta Xi” vẫn c̣n đang bao quanh con"Cá Lớn"chờ đợi.

Khi đến chỗ tôi đứng, tôi rất tự tin trao mảnh giấy ra cho họ xem. Vừa đọc xong, họ nói "Đây là mật mă của Ba Châu (tên người liên lạc dẫn tôi đi.) Chúng tôi không chấp nhận khách của Ba Châu. Vậy xin mời cô trở xuống ghe taxi đi về." Nghe đến đây, tôi tưởng chừng như tiếng sét đánh ngang tai, chân tay rụng rời. Làm sao lại xảy ra như vậy? Khách nào của Ba Châu cũng đều bị tai hoạ bất ngờ v́ sự bất đồng và phản bội trong nội bộ tổ chức với nhau.

Nghĩ lại, nếu không nhờ phép lạ th́ làm sao tôi lọt được vào cá lớn, rồi sau đó đứng dậy an toàn được. Vậy mà bây giờ bị đuổi xuống và chắc chắn sẽ lại bị ở tù.

Không thể được! Tôi bật khóc và năn nỉ "Tôi cũng là khách như những người khác, nhưng chẳng may là khách của Ba Châu. Gia đ́nh tôi đă thoả thuận mọi điều kiện cho chuyến đi qua Ba Châu. Nay xin các bác, các anh cho tôi được tiếp tục đi. Gia đ́nh tôi ở Mỹ sẽ đền ơn theo mọi điều kiện yêu cầu của quí vị." Khóc lóc, van nài, nhưng họ vẫn một mực dứt khoát từ chối. Hai người đàn ông được lệnh khiêng đầu và chân tôi quăng xuống ghe taxi. Tôi coi như chắc chắn vào tù. Trong ḷng quá đau xót và coi như số tôi phải vào tù không thể nào tránh được.

Bỗng nhiên, ánh sáng đèn pin vụt tắt. Hai người đang khiêng tôi bèn bỏ tôi xuống sàn ghe. Cá Lớn được lệnh phải xả hết tốc lực phóng ra biển. Có lẽ thời gian mua băi đă hết, nếu chậm trễ toán công an biên pḥng khác đến đổi phiên trực có thể giữ ghe lại? Tôi bàng hoàng mừng rỡ; chỉ trong tích tắc tôi đă thoát được cảnh ngục tù. Phải chăng cũng là một phép lạ do Ơn Trên đă cứu tôi?

Chiếc ghe nhắm hướng ra biển lao như mũi tên bay trong bóng đêm dày đặc nghe rợn cả người. Chạy khoảng hơn bốn tiếng đồng hồ th́ có những tiếng reo mừng:"Ghe đă ra được Hải Phận Quốc Tế. Chúng ta coi như sắp được tự do rồi.” Vừa nghe xong, tôi oà lên khóc nức nở, dù trong ḷng cũng mừng. V́ từ giờ phút này tôi đă thật sự xa tất cả những người thân yêu. Không biết đến bao giờ mới có thể gặp lại, hoặc xa ĺa vĩnh viễn; nếu như gặp nạn không tới được bến bờ.

Lúc này nhóm tổ chức bắt đầu quay lại hạch sách những hành khách của Ba Châu đang có mặt trên ghe. Họ doạ nạt từng người. Ai có cà rá, đồng hồ hay bất kỳ vật nào có giá trị th́ đưa cho họ ngay. Khi họ hỏi tôi có ǵ đưa cho họ, tôi trả lời không có ǵ hết, ngoài một ít hành lư tôi đang có trên người. Thậ ra, tôi có giấu một chỉ vàng trong áo lót được cô tôi cho để pḥng khi hữu sự. Tôi không thể nào nộp cho họ.Tôi năn nỉ với họ là khi nào được định cư, tôi hứa sẽ xin hoàn lại đầy đủ.

Trời lại dần dần sáng. Một ngày mới bắt đầu trên đại dương bao la. Tất cả đều vui mừng và hy vọng vài ngày nữa sẽ đến được bất cứ trại tị nạn nào và sau đó được đi định cư ở một nước thứ ba; lúc đó coi như đổi đời. Khi mặt trời lên cao, nắng chói chang, có lẽ là giữa trưa, nhóm chủ ghe bắt đầu cho phân phối nước uống. Tiêu chuẩn cho mỗi người là hai muỗng canh, phát vào buổi sáng và vào buổi chiều. Điều này khiến mọi người trên ghe hoang mang. Vậy là sao? Lúc đi đă hứa lương thực, nước uống cung cấp đầy đủ. Bây giờ lại xảy ra t́nh huống kỳ quái này! Có chuyện ǵ đây?

Lúc này, chủ ghe mới cho biết là anh tài công chánh mang theo các phương tiện đi biển đă bị kẹt lại, không hiểu v́ lư do ǵ mà không lên Cá Lớn được? Nên chúng ta khó hy vọng sẽ đi đến được các trại tị nạn như đă dự tính, v́ trên ghe không ai có kinh nghiệm đi biển. Tài công phụ chỉ có kinh nghiệm đi đường sông. Bây giờ chỉ c̣n trông mong vào số mệnh và ơn trên cứu giúp. Phải lênh đênh trên biển không biết bao nhiêu ngày. Cầu xin sóng yên, biển lặng và gặp tàu thuyền nào đi ngang qua xin được cứu vớt, như vài trường hợp các ghe đi trước may mắn đă gặp. Bây giờ, xin các bà con thông cảm về việc cần phải tiết kiệm nước tối đa để có thể cầm cự trong thời gian dài chưa biết đến khi nào.

Khi nghe chủ ghe giải thích xong, mọi người trên ghe cùng nh́n nhau lo lắng. Riêng tôi chết lặng cả người. Bao nhiêu tin tức về chuyện vượt biên lởn vởn trong đầu óc tôi. Có những chuyến, nếu may mắn không có ǵ xảy ra th́ chỉ vài ba ngày là đến được trại tị nạn. Có những chuyến lênh đênh cả tháng trời bị các cơn đói khát, bệnh tật hành hạ. Đôi khi phải ăn thịt lẫn nhau để được sống c̣n; và cũng có những chuyến bị hải tặc tấn công cướp bóc, hảm hiếp và những phụ nữ bị bắt đem theo chúng. Biết bao là những bi kịch thảm khốc về chuyện vượt biên mà các cơ quan truyền thông đă đăng tải.

Tôi nghĩ số phận chíếc ghe của chúng tôi sẽ trôi giạt về đâu? Bến bờ vô định nào? Lương thực, nước uống, xăng nhớt sẽ cạn kiệt trong bao lâu nữa? Và cũng có thể làm mồi cho đại dương. Tôi có đạt được sự đổi đời như mơ ước, được sống và học hỏi ở các nước văn minh, dân chủ, tự do. Lúc đó tôi sẽ có điều kiện để giúp đỡ gia đ́nh đang tin tưởng vào nơi tôi. Hoặc tôi tự trách ḿnh đi t́m một cái chết ngu xuẩn, làm cho gia đ́nh đau khổ hơn và mang tội bất hiếu với bố tôi. Trước mắt, tôi cứ niệm Phật, cầu nguyện cho được may mắn. Mà rơ ràng tôi đă thoát chết từ lúc nhảy vào được cá lớn, và chút xíu nữa đă bị chủ ghe ném xuống "taxi", nếu không có báo động bất ngờ xảy đến.

Bóng đêm lại buông xuống, tôi mệt đừ và khát rát cả cổ họng. Phải chờ đến ngày mai mới được phát nước uống. Tôi nghĩ ḿnh có đem theo b́nh một lít nước. Nếu mỗi ngày uống hai muỗng th́ tôi có thể cầm cự được trên nửa tháng. Thế là tôi lấy ra hớp một hớp. Chưa kịp cất lại th́ vợ chồng trẻ và cô em gái ngồi kế bên thấy tôi cầm b́nh nước th́ van xin cho họ uống bằng giọng nói lễ phép và lịch sự. Tôi nghĩ cho ba người uống th́ nhiều quá, nó sẽ ảnh hưởng đến số nước dự trữ của tôi và cũng là bùa hộ mạng trong lúc này. Nhưng thấy họ nói quá, nên động ḷng trắc ẩn.Tôi trao b́nh nước cho họ và nói "xin mỗi người chỉ được một hớp thôi nhé!" Tuy nhiên, khi cầm được b́nh nước trên tay, sau khi hớp xong, họ ngang ngược không chịu trả lại, mà c̣n giở giọng côn đồ ra thách đố tôi muốn làm ǵ th́ làm! Vô t́nh tôi đă tự đánh mất bùa hộ mệnh v́ ḷng thương không đúng người.

Ngày thứ hai trôi giạt trên biển theo một hướng vô định. Cầu mong sẽ gặp đuợc tàu thuyền đi ngang qua giúp đỡ, hay phi cơ bay trên đầu để ra dấu kêu cứu. Nhưng chỉ có cả một không gian tĩnh mịch, im lặng của đại dương lạnh lùng và ghê sợ. Trên bầu trời không có bóng dáng một loài chim biển nào. Mọi người đoán là ghe đă đi lạc và cách rất xa đất liền. Tôi vừa đói, vừa khát, vừa nhức đầu, chóng mặt v́ các mùi hôi thối của ói mửa, tiêu tiểu của trẻ con bắt đầu xông lên nồng nặc, v́ chỉ có một chỗ đi vệ sinh nằm ở phía cuối ghe, trong khi người nằm, kẻ ngồi la liệt không c̣n chỗ để nhúc nhích.

Sự khủng hoảng bắt đầu khi cô bé khoảng mười lăm tuổi, ngồi đối diện tôi bị ngất xỉu v́ khát. Mẹ của cô khẩn khoản, van xin “Ai có nuớc làm ơn cho con tôi xin một hớp; một hớp nước có thể cứu sống được con tôi”. Không một ai lên tiếng! Có lẽ mọi người nhớ lại lời nhóm chủ tàu căn dặn và đe doạ “Không ai được tự động đi lại, phải tuyệt đối giữ ǵn trật tự tối đa. Không được đ̣i hỏi bất cứ ǵ! Nếu ai không chấp hành và căi lời sẽ bị ném ngay xuống biển.” Nh́n mặt cô bé nhợt nhạt v́ khát, chỉ cần một muỗng nước là có thể đem lại sự sống cho cô ta. Không thể đành ḷng nh́n cô bé đang bất động, dù kiệt lực, tôi cũng cố gắng ḅ lên cầu thang để gặp nhóm chủ tàu xin nước cho cô bé. Họ nh́n tôi bằng cặp mắt giận dữ. Tôi b́nh tĩnh nói với họ là tôi không xin cho tôi mà xin các ông hăy nhỏ ḷng thương cho cô bé kia đang cần vài muỗng nước. Nếu không, cô ta sẽ chết v́ khát! Quả thật, khi được vài muỗng nước th́ cô bé lần hồi tỉnh lại. Gia đ́nh cô rất vui mừng và tôi cũng vui theo.

Ngày thứ ba, biển vẫn yên, sóng vẫn lặng. Đúng là Thái B́nh Dương! Tuy nhiên, trong ḷng mọi người đều bồn chồn, lo lắng. Sự đói khát đă bắt đầu hoành hành. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống, th́ cô bé lại kiệt sức và bất tỉnh lần nữa. Gia đ́nh cô bé không dám gặp chủ tàu xin nước v́ sợ chủ tàu nóng giận th́ sẽ bị phiền phức. Sự việc xảy ra trước mắt tôi, nên tôi cũng không thể làm ngơ. Và tôi cũng cố lết đi gặp chủ tàu xin cho cô bé vài muỗng nước. Sau khi được vài muỗng nước th́ cô bắt đầu tỉnh lại dần như hôm qua.

Ánh nắng càng lúc càng gay gắt. Tôi tưởng chừng như sắp ngất xỉu đến nơi giống như cô bé vừa rồi. May sao, có một cơn mưa trút xuống. Ôi! Tôi quá mừng như vừa được hồi sinh. Những giọt nước mưa như nước cam lồ của Phật Quan Thế Âm làm mát dịu cổ họng đang rát bỏng của tôi. Nhóm chủ tàu chạy đi lấy mấy tấm bạt Nylon để hứng nước mưa, xong đổ vào những thùng nhựa. Kết quả không ai có thể thể nào uống được v́ những thùng chứa nước mưa trước đó dùng đựng nhớt, xăng dầu, làm cho nước mưa có mùi giống như nước cống rảnh, đen ng̣m cho vào miệng bị nôn ra ngoài ngay. Nhờ cơn mưa bất chợt coi như một phép màu đă tiếp sức cho tôi sống c̣n.

Sang đến ngày thứ tư lênh đênh trong vô định. Giấc mơ t́m tự do có dấu hiệu tốt đẹp hơn. Đă thấy những cánh chim biển bay trên bầu trời, thấy những vệt khói dài của vài chiếc phi cơ phản lực để lại. Bóng dáng những chiếc tàu nhấp nhô từ xa đang tiến lại gần hơn. Chủ ghe cho người đốt quần áo để phát tín hiệu xin tiếp cứu. Nhưng tất cả đều vô ích. Không một tàu nào đến gần để giúp đỡ. Có lẽ họ sợ lănh trách nhiệm và gặp nhiều phiền toái?

Thế rồi, thất vọng này, tiếp nối theo thất vọng khác. Những cơn đói khát dày ṿ cơ thể. Tôi bị khát rang cả cổ, nên không thể nào nuốt được bất cứ ǵ. Thức ăn mang theo tôi đều cho hết. Trong lúc này tôi chỉ cần một hớp nước. Nhưng nếu tôi xin chủ tàu, chắc chắn ông ta sẽ cho người quăng tôi xuống biển như lời ông ta đă hăm doạ. Trong lúc đó gia đ́nh chủ tàu có nước, có dừa, có cam quưt tha hồ sung sướng không sợ đói khát. Vài người trên ghe có sáng kiến mưu sinh thoát hiểm. Họ lượm các vỏ dừa ném bừa băi dưới ghe, đem tướt những lớp xơ để ngậm lấy chất đắng, chát và có độ ẩm để giữ cho cổ họng đỡ phần nào cháy bỏng v́ khát. Nhờ vậy mà chúng tôi vẫn tiếp tục cầm cự, chưa bị gục ngă.

Cô bé trước mặt tôi lại ngất xỉu lần thứ ba trong ba ngày liên tiếp. Tôi nhờ cơn mưa hôm qua được hồi sinh, nay nhờ ngậm thêm xơ vỏ dừa, nên cũng có thể ḅ lên cầu thang xin nước cho cô bé. Không may, ngày hôm nay nhóm chủ tàu cương quyết từ chối. Họ lấy cớ là muốn sự công bằng cho mọi người. Trong ṿng 30 phút cô bé cứ lập đi, lập lại: “cho tôi nước, cho tôi xin nước, nước, nước."Tôi thấy tội nghiệp và đau ḷng qua, cầu mong cho mưa xuống ngay bây giờ. Ôi! Tôi không tin vào mắt tôi. Cô bé nấc lên, đảo một ṿng mắt và rồi nhắm nghiền lại và bất động. Ngựi Mẹ hét lên “Cứu con tôi, con tôi chết rồi.” Tất cả mọi người đều sửng sốt. Nghe la, nhóm chủ tàu vội vàng chạy xuống đem theo nước đổ vào miệng cô bé. Nhưng vô ích! Cô bé đă bất động và không bao giờ cần xin nước nữa! Mẹ cô, anh em trong gia đ́nh khóc nức nở. Mọi người, kể cả nhóm chủ tàu cũng đều xúc động. Có lẽ họ đang hối hận về sự sai lầm của họ, khi không cho cô nước như hai ngày vừa qua. Nhất là đă không giữ lời hứa lo cho khách lương thực đầy đủ trong mười ngày.

Mới có ngày thứ năm, đă có người chết v́ không được cung cấp nước. Với t́nh trạng con thuyền trôi vô định không biết đi về đâu? Dù biển yên, sóng lặng cũng sẽ chết dần, chết ṃn, chứ đừng nghĩ chi đến sóng to, gió lớn. Lần đầu tiên, tôi thấy bóng tử thần đang chập chờn. Mọi người vừa xúc động, vừa lo sợ sẽ có thêm nhiều người kiệt sức, trước khi đến được “bến bờ Tự Do”.

Nắng đă bắt đầu tắt, hoàng hôn đang dần xuống. Nhóm chủ tàu quyết định "thủy táng cô bé". Họ kêu gọi bất cứ ai tùy theo tôn giáo của ḿnh cầu nguyện cho cô bé. Không có ai hết! Tôi không hề đi lễ chùa, không biết ǵ về nghi thức tụng niệm. Nhưng từ những năm sau 30/04/1975, tôi đă sống triền miên trong nước mắt, chỉ biết đêm ngày cầu nguyện Trời Phật cứu vớt cho gia đ́nh đang tan nát v́ cha và anh lâm nạn, trong khi Mẹ qua đời và các em c̣n quá nhỏ dại.

Những năm gần đây, có những quư nhân giúp tôi vượt biên. Trong người tôi luôn luôn mang theo quyển kinh “Bạch Y Thần Chú” để cầu nguyện. Biết rằng đây không phải là kinh cầu siêu. Nhưng tôi cảm thấy có thể làm người mất đi được ấm áp, nên tôi t́nh nguyện đứng ra thắp nhang tụng niệm. Mẹ của cô bé cho tôi biết tên em là Tuyết Nhiên (tôi không c̣n nhớ họ). Sau khi thắp nhang do chủ tàu mang theo đưa cho. Tôi lăm răm tụng niệm. Sau đó, hai người đàn ông đến gần xác cô bé, người đỡ đầu, kẻ khiêng chân đẩy xác cô bé xuống biển, trong tiếng khóc nghẹn ngào của người Mẹ và anh em trong gia đ́nh. Tôi cũng không cầm được nước mắt, thương tiếc cho cô bé hồn nhiên ngồi trước mặt tôi năm ngày qua. Hôm nay em đă đi vào ḷng đại dương chỉ v́ nhóm tổ chức đă tàn nhẫn bội ước.

Tôi chợt rùng ḿnh: "Nếu không có cơn mưa nhiệm mầu hôm qua, th́ nguời đầu tiên bị Thủy Táng đă là tôi.” V́ có lẽ không ai dám gặp nhóm tổ chức để xin nước cho tôi được hồi sinh thêm vài ngày như Tuyết Nhiên.

Sự xúc động vẫn chưa nguôi, th́ nghe tiếng xôn xao"Máy ghe bị hư rồi, tự nhiên máy ghe bị tắt, không biết làm cách nào đễ cho ghe di chuyển.Vậy, bà con nào biết ǵ về sửa chữa máy móc làm ơn giúp để cho ghe có thể đi tiếp." Một vài đàn ông, thanh niên đi tới chỗ đầu máy loay hoay sờ tới, sờ lui, nhưng chẳng mang lại kết quả ǵ! Chiếc ghe vẫn không thấy động đậy.

Sau đó một hiện tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy trong đời đă diễn ra trước mắt tôi và mọi người: Tự nhiên, một số người đứng dậy nhốn nháo làm chiếc ghe tṛng trành, nghiêng qua, nghiêng lại. Nhóm tổ chức hét lớn lên:“Xin bà con hăy ngồi yên, nếu c̣n tiếp tục ghe sẽ lật úp và mọi người sẽ chết hết.”Tôi kinh ngạc nh́n thấy vài người lần lượt sắc mặt trở thành đờ đẫn, mắt ngây dại và miệng th́ thào: “Nước, cho tôi xin nước.” Đúng là ánh mắt và câu nói liên tục của Tuyết Nhiên trước khi ra đi. Đang nghĩ như vậy th́ một cô gái trẻ ngồi cạnh tôi mấy hôm nay, cũng từ từ đổi sắc mặt và lập lại đúng câu đó, giống như những người kia.

Tôi vốn dĩ rất nhát. Sau khi Mẹ tôi mất, tôi không dám đi ngang bàn thờ Mẹ một ḿnh. Vậy mà lúc ấy, trước ánh mắt kỳ quái của cô ta, tôi không hốt hoảng chạy đi t́m chỗ khác như người ta. Tôi nghĩ ngay lập tức: "Đúng là hồn của Tuyết Nhiên nhập vào cô này rồi.” Tôi b́nh tĩnh, nghiêm trang nh́n thẳng vào ánh mắt đờ đẫn, kỳ quái của cô ta và nói: “Tuyết Nhiên, em có sống khôn, thác thiêng Xin em hăy tha thứ cho những ai đă sai lầm không cho nước để em được hồi sức. Em hăy phù hộ cho Mẹ, cho anh em của em và bà con trên ghe đuợc an toàn, không bị nguy hiểm đến tính mạng. Nguyện cầu Trời, Phật, Chư Thiên Thánh Thần và Thủy Thần cho hương linh em được siêu thoát về cơi vĩnh hằng.Tôi niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát ba lần.” Thật là quá ngạc nhiên! Chỉ trong vài phút sắc mặt cô ta trở lại b́nh thường và không nhớ ḿnh vừa nói những lời cuối cùng của Tuyết Nhiên như vài người khác mà cô thấy trước đó.

Càng lại ngạc nhiên hơn là vài phút sau đó có nhiều tiếng reo mừng: "Ồ, máy ghe đă nổ lại được rồi, ghe từ từ chuyển động và đi tiếp.” (Hai hiện tượng này không thể giải thích theo khoa học được và coi như hoang tưởng. Nhưng tất cả là sự thật một trăm phần trăm, mà cho đến nay tôi vẫn c̣n thắc mắc về sự kiện này.)

Không khí ảm đạm và đau buồn, kèm theo sự lo lắng, sợ hăi lại tiếp tục phủ trùm những thuyền nhân trên chiếc ghe đang di chuyển trong vô định. Hôm nay đă bước vào ngày thứ năm giữa đại dương bao la. Tôi nhớ là ngày 28 tháng 09, năm1984.

Tất cả mọi người gia tăng sự lo lắng và hoang mang, nôn nóng cầu mong gặp đuợc bất cứ tàu thuyền nào đi ngang qua cứu. Sức chịu đựng càng ngày, càng mỏi ṃn, kiệt quệ, tinh thần suy sụp! Làm sao có thể cầm cự được lâu dài? Tùy theo tôn giáo riêng của ḿnh, mọi người cùng khấn nguyện đấng thiêng liêng, hiển linh phù trợ. Riêng tôi th́ liên tục cầu nguyện Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát gia hộ. Thấp thoáng từ phía xa xa có vài bóng dáng những chiếc tàu đi ngang qua, nhưng sau đó biến dạng.

Th́nh ĺnh, mọi người thấy một chiếc thuyền lớn xuất hiện và đang tiến dần về phía ghe của ḿnh. Tất cả đều mừng rỡ và hy vọng gặp “Thần Hộ Mạng” đến cứu. Họ cho thuyền cặp sát ghe và quăng dây neo lên. Sau đó họ trèo qua ghe. Lúc đó tôi mới định thần và thấy năm người đàn ông đen như cột nhà cháy, râu ria rậm rạp, trên người chỉ mặc một quần xà lơn. Một người cầm súng dài. Tôi đoán có lẽ là tên cầm đầu? Bốn tên c̣n lại th́ kẻ dao, người búa và mă tấu. Có tiếng x́ xào “Chết mẹ rồi, gặp hải tặc là coi như xong đời.”

Tự nhiên, toàn thân thể tôi cảm thấy rụng rời. Ôi! Trời, Phật xin hăy cứu con! Con luôn ngày đêm nguyện cầu: “Đừng cho con gặp hải tặc. Nếu gia đ́nh con đă đến lúc tận cùng, mạt vận. Con thà chết trong ḷng đại dương, c̣n hơn rơi vào tay bọn hải tặc.” Lời nguyện cầu của con không được Trời, Phật chứng giám. Không lẽ con tới số rồi sao? Tim tôi đập vào lồng ngực th́nh thịch y như tiếng trống. Tôi tưởng chừng như trái tim văng ra khỏi lồng ngực và tôi sẽ chết ngay tại chỗ.

Bọn chúng trao đổi với nhau bằng tiếng Thái và ra dấu hiệu cho mọi người. Ai cũng đoán và hiểu là "Không được di chuyển hay động đậy. Nếu căi lời sẽ bị quăng xuống biển ngay lập tức.” Thế là, chúng chia nhau đi lục soát từng người, tịch thu những ǵ quư giá mà chúng bắt gặp. Có cả trăm người bị chúng lục soát.Tôi và vài người khác không có ǵ đáng giá, c̣n đa số không ít th́ nhiều đều bị chúng tước đoạt của cải. Tính ra chúng tịch thu cũng kha khá. Nhóm chủ tàu coi như bị thiệt hại nhiều nhất. Sau đó tên cầm súng mang các “chiến lợi phẩm” cướp được đem trở lại thuyền. Bốn tên hải tặc trên ghe dơi mắt nh́n theo hắn một cách chăm chú, h́nh như muốn xem tên đầu đảng cất giấu chiến lợi phẩm ở đâu?

B́nh thường, tôi được ví yếu như con sên, chậm hơn rùa v́ thể lực tôi rất yếu đuối. Tôi chỉ muốn càng xa bọn chúng càng tốt, dù chiếc ghe dài chỉ khoảng hơn mười thước. Lợi dụng cơ hội này, tôi vụt đứng dậy, lao thật nhanh về phía cuối ghe, rồi ngội thụp xuống giữa tiếng lao xao của vài người “Bà nội này tới số rồi, muốn chết sao? Con nhỏ này chắc muốn bị ném xuống biển!”Ngay tức khắc, anh tài công ném cho tôi một cục nhớt đen thui và nói "Trắng quá, bôi ngay vào mặt đi." Tôi vội vă bôi ngay vào mặt mũi và khắp cả người. Vài cô ngồi bên cạnh nhao nhao kêu:"cho tôi xin cục nhớt với.” Anh tài công lại ném tiếp vài cục nữa về phía các cô gái. Thấy thế bọn cướp giơ cao hung khí la hét, chửi rủa và bắt phải im lặng. May sao, tên đầu đảng vẫn chưa quay lại ghe, nên bốn tên hải tặc tiếp tục đưa mắt nh́n về phía thuyền của chúng. Lúc này, nh́n lại th́ tôi đang ngồi đối diện với Mẹ Tuyết Nhiên, mà trước đó khi hồn Tuyết Nhiên nhập vào vài người th́ họ đă sợ chạy đi t́m chỗ khác, do đó nhiều người không c̣n ngồi vị trí cũ nữa.

Lập tức, bà giao cho tôi đứa con gái út khoảng 2,3 tuổi và nói thật nhanh, giống như ra lệnh:"Cô hăy ôm cháu vào ḷng ngay đi."Mấy cô ngồi bên cạnh tôi định giật đứa bé từ trên tay tôi. Mẹ Tuyết Nhiên nói:"Yên ngay! Cô này là D́ ruột của cháu bé này.” Lúc này, bọn cướp qua tức giận, chúng dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe và xồng xộc tiến về phía cuối ghe đang ồn ào. Tên cầm dao găm, gương mặt đầy thẹo, đen đúa, râu ria lổm chổm dùng cánh tay mặt xốc tôi đứng lên, khiến đứa bé đang được tôi bồng khóc thét lên và đưa hai tay bấu chặt vào người tôi. Tên cướp có vẻ hơi nao núng. Hắn đưa mắt thật nhanh nh́n đứa bé, rồi quay nh́n tôi. Thấy một phụ nữ có con quá dơ dáy, bẩn thỉu, trông thật gớm ghiếc, nên buông tôi ra. Sau đó bọn chúng đi lùng sục khắp ghe. Cuối cùng, bắt được năm cô gái trẻ, sạch sẽ, xinh đẹp. Chúng lôi xềnh xệch về phía thuyền của chúng, mặc kệ các cô vùng vẫy, kêu khóc thảm thiết, cùng với tiếng van xin, gào thét của thân nhân kẻ bị nạn. Trong số các cô bị chúng bắt mang theo có con gái chủ ghe mới 15 tuổi.

Người trên ghe bèn đặt cho tôi một biệt danh là “Người đàn bà bị hải tặc chê.” Trườc khi rút lui, bọn chúng ra lệnh mọi người phải im và dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe làm thủng vài chỗ. Sau này, tôi được biết là nhóm tổ chức có mang theo vài cây súng để pḥng thân, nhưng không dám chống cự, v́ sợ nếu chống cự bọn hải tặc sẽ lên cơn điên và giết hết mọi người trên ghe. Do đó nhóm chủ ghe phải bó tay chịu trận, và đành đau ḷng hy sinh ngay cả con gái của ḿnh cho bọn hải tặc bắt mang đi.

Chiếc thuyền của bọn cướp biển đang xa dần. Mọi người trên ghe vẫn c̣n sững sờ v́ vừa trải qua một biến cố quá kinh hoàng. Những tiếng khóc của thân nhân các cô gái bị bắt đi thật sầu thảm. Tôi không biết ḿnh đang tỉnh hay đang mê? Tôi đă thoát khỏi bàn tay hải tặc dễ dàng vậy sao? Làm sao tôi lại có can đảm đứng dậy chạy về phía cuối ghe, trong khi bọn cướp ra lệnh ở đâu phải ngồi đó, không được nhúc nhích. Trời, Phật, hay hồn thiêng của bé Tuyết Nhiên đă nhấc tôi đứng dậy, đẩy tôi chạy về cuối ghe, để may mắn gặp lại Mẹ Tuyết Nhiên và được bà trao em của Tuyết Nhiên cho tôi bồng, cũng như tại sao anh tài công đă ném cho tôi cục nhớt và nói tôi bôi ngay vào người nhanh lên? Nhờ đó, tôi đă thoát khỏi bàn tay hung ác của hải tặc trong đường tơ, kẻ tóc. Vậy là thêm một phép lạ đă cứu sống tôi. Mới có mấy ngày mà tôi đă suưt chết mấy lần. Liệu tôi c̣n sức và c̣n may mắn thêm lần nào nữa để được bến bờ tự do hay không?

Mọi người bắt đầu lao xao: "Tát nước ngay, tát nước ngay! Nước tràn vào ghe rồi!" Đàn ông, thanh niên cố gắng dùng các vật dụng do chủ ghe đưa, cố ra sức tát nước đang làm ghe bị khẳm v́ những lỗ thủng trên sàn ghe do bọn cướp gây ra. Ôi! Vừa không biết phương hướng, vừa chống chọi với đói khát, vừa lo hết nhiên liệu, vừa lo nguy cơ chiếc ghe sẽ bị ch́m v́ nước biển đang tràn vào. Bây giờ, mọi người thật sự thấy tử thần càng lúc, càng trở nên gần hơn. Sự khủng hoảng càng gia tăng, nhưng vẫn cố hy vọng "c̣n nước, c̣n tát." Chiếc ghe cứ lê lết đi tiếp. Tôi vẫn tiếp tục niệm Phật cầu nguyện và thiếp đi trong sự hăi hùng chưa nguôi. Tôi lập đi, lập lại trong đầu:" Con không thể chết được. Con là niềm hy vọng của gia đ́nh. Con phải sống để cứu vớt gia đ́nh đang trông mong vào con."

Chiếc ghe tiếp tục di chuyển từ từ trong tuyệt vọng. Ánh nắng chiều dịu tắt dần, từ xa bỗng rực rỡ ánh đèn sáng ngời như từ cái tháp khổng lồ trên mặt nước. Vài người mừng rỡ, la lên: "Có giàn khoan dầu ở phía trước. Hăy cố gắng hướng về phía đó. Hy vọng sẽ được vớt." Tôi chợt bừng tỉnh, nh́n những ánh đèn màu rực rỡ ở trên cao, ngày càng gần hơn, tôi tưởng như ḿnh đang mơ khi được thấy cung điện của Thủy Thần trong một truyện thần thoại. Nghe tiếng reo mừng của mọi người trên ghe, tôi biết đây là sự thật! Không phải là ảo tưởng hay trong mơ. Tôi tưởng chừng ngất lịm trong nỗi vui mừng tột độ, và muốn hét to lên: "Vậy là coi như thoát chết, sẽ được giàn khoan cứu vớt, sẽ được đến bến bờ tự do như đă cầu khẩn.Vậy là đă được Trời, Phật chứng giám, độ tŕ.”

Mọi nguời như được uống thuốc hồi sinh. Đàn ông, thanh niên ra cố gắng ra sức tát nước nhiều hơn, chiếc ghe dường như cũng đi nhanh hơn. Một lúc sau chiếc ghe đă đến được gần chiếc tàu khổng lồ treo cờ Anh Quốc với hàng chữ to PANAMA. Dù vô cùng vui mừng, nhưng tôi lại rơi vào t́nh trạng hôn mê v́ đă kiệt sức từ lúc quá hăi hùng khi vừa thoát bọn hải tặc sáng nay. Một lát sau, tôi mơ hồ thấy có người cho nước uống, nên tỉnh dậy, th́ ra đó là vài ba thủy thủ của tàu Panama đang cho chúng tôi nước và một số thức ăn. Tôi nghe thoáng thoáng tiếng người nói “Có một cựu Trung Úy Quân Đội VNCH đă lên gặp Thuyền Trưởng xin được cứu vớt, nhưng ông ta từ chối. Và một cưụ Trung Tá hiện đang tiếp xúc với Thuyền Trưởng cũng để tiếp tục cầu xin cứu vớt." Nhưng vài phút sau, ông Trung Tá trở lại ghe với nỗi buồn tuyệt vọng cho biết: “Thuyền Trưởng không thể nào cứu được, v́ họ đang làm nhiệm vụ khai thác dầu hoả. Ông tặng ghe chúng ta một hải bàn và hướng dẫn đi về hướng trại tị nạn. Ông nói, trên đường đi sẽ gặp tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc và họ sẽ cứu chúng ta.” Ai ai cũng đều thất vọng, nhưng cũng mừng v́ đă có hải bàn và hy vọng sẽ có tàu đến cứu. Hiện giờ đă được cung cấp nước uống, thức ăn, một số quần áo; không như trước đây trong hoàn cảnh đói khát, vô phuơng hướng, vô tin tức và sống trong tuyệt vọng.

Tôi đang hồi tỉnh một chút th́ lại choáng váng khi nghe tin không may này. Bất ngờ, có một thanh niên la to lên:" Trong chuyến đi này có một cô giáo dạy Anh Văn tên Duyên.Vậy cô Duyên có trên ghe không? Nếu có, sao cô không chịu lên gặp Thuyền Trưởng xin cứu giúp đi? "Tôi đoán thanh niên này là Khánh, em vợ của anh Nguyễn Quốc Trụ. Khánh chưa hề gặp tôi, nhưng đă được anh Trụ dặn:" Hăy nhớ t́m cô Duyên, cô giáo dạy tiếng Anh đi trong chuyến này”. Mọi người lao xao la to theo: “Cô Duyên đâu? Cô Duyên đâu?” Tôi chưa kịp trả lời th́ nghe tiếng x́ xào: "Chắc cô ta bị quăng xuống “ghe taxi” hay bị hải tặc bắt đi theo rồi chăng? ”Tôi không c̣n đủ hơi sức để lên tiếng, chỉ đưa tay vẫy vẫy. Có người nói:" Ồ! cái bà tưởng đă chết hồi sáng nay.”

Hai thanh niên c̣n khoẻ mạnh vội tiến về phía tôi, một người khiêng đầu, một người khiêng chân để đưa tôi lên thang dây, sau đó họ đặt tôi nằm trên sàn tàu. Chỉ vài phút sau, có một Bác Sĩ và vài thủy thủ vây chung quanh tôi. Họ cho tôi thở Oxy, tiếp theo cho uống một loại nước hay thuốc ǵ đó. Vị Bác Sĩ tiếp tục đo huyết áp, nghe tim, phổi và theo dơi. Ông nói tôi cứ thở tự nhiên. Được hít thở gió biển trong lành khoảng 15 phút, tôi thật sư tưởng ḿnh đă được uống thuốc tiên “cải tử hoàn sinh” trong các truyện cổ tích. Tôi có thể trả lời các câu hỏi của Bác Sĩ bằng giọng nói rơ ràng, và xin được đứng dậy để được nói chuyện với Thuyền Trưởng cũng đang đứng tại đó.

Lần đầu tiên được đứng trên sàn tàu vững chắc, kiên cố, rộng mênh mông, mà trước đó chỉ được ngồi chen chúc như cá hộp trên chiếc ghe mong manh; rồi đói khát, lo sợ hăi hùng với bao biến cố cận kề cái chết. Nh́n những ánh đèn màu rực rỡ từ trên cao của giàn khoang giữa những màu sắc lung linh của mặt trời như một viên hồng ngọc trên mặt nước biển vào lúc hoàng hôn, khiến tôi tưởng ḿnh đang ở Thiên Đàng. Nếu may mắn được Thuyền Trưởng cứu, cho lên chiếc tàu Panama, th́ đúng như từ âm phủ được lên cơi Tiên.

Sau khi nghe tôi tŕnh bày "Chúng tôi là những người ra đi từ miền Nam Việt Nam, đă bất chấp mạng sống, bất chấp hiểm nguy để đi t́m tự do bằng chiếc ghe bé bỏng, mong manh và hiện đang bị vô nước v́ hải tặc đâm thủng. " Vị Thuyền Trưởng lắc đầu, rồi buồn bă nói: “Tôi rất tiếc không thể cứu quư vị được.Trước đó đă có hai người đàn ông nói chuyện tôi về yên cầu này. Tôi đă giải thích lư do tôi không thể cứu được.

Thứ nhất: Chúng tôi đang khai thác dầu hỏa tại nước Malaysia này, chúng tôi không có đầy đủ phương tiện cứu nạn.

Thứ hai: Số người trên ghe quư vị phải hơn 100 người, chúng tôi lại càng gặp rất nhiều khó khăn để giúp đỡ. Tuy nhiên, xin quư vị đừng nên lo lắng. Hăy an tâm. Tôi đă cung cấp hải bàn để định phương hướng trên biển. Tôi đă hướng dẫn kỹ lưỡng đi về phía có trại tị nạn gần nhất, và tôi sẽ liên lạc với các tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đang di chuyển gần đây đến để cứu quư vị. Các thủy thủ chúng tôi đă làm mọi cách để giúp quư vị rồi. Tôi nghĩ quư vị sẽ lên đường b́nh an.”

Đến đây, tôi lại thấy đầu óc quay cuồng. Từ lúc đầu tiên lọt vào được chiếc ghe Cá Lớn cho đến nay đă 5 ngày lênh đênh giữa đại dương trong tuyệt vọng. Nếu không có những phép lạ xảy ra, làm sao tôi c̣n sống sót đến giờ phút này. Ôi!Tại sao có thể như thế này? Phải cố gắng nài nỉ, van xin Thuyền Trưởng. Tôi cố gắng tŕnh bày với Thuyền Trưởng những biến cố hăi hùng, những nguy hiểm mà chúng tôi đă trải qua mấy ngày hôm nay như: không có người biết lái, nên chiếc ghe trôi vô dịnh, một cô bé đă chết khát và phải bị ném xuống biển, 5 thiếu nữ đă bị hải tặc bắt đem theo sáng nay. Trước khi rút lui bọn hải tặc đă làm thủng ghe, hiện phải tát nước để có thể cầm cự, sống c̣n. May mắn đă gặp giàn khoang của các ông. Bây giờ chờ được tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, có lẽ tất cả chúng tôi sẽ làm mồi cho biển cả không bao lâu nữa.

Thuyền Trưởng lộ vẻ xúc động, nhưng lại trấn an tôi: “Bây giờ đă có phương hướng, và sẽ có tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, quư vị đă có đủ lương thực và nước uống trong vài ngày nữa, xin cứ an tâm”. Chỉ nghĩ khi tôi trở về chiếc ghe mong manh, chật ních, ngột ngạt v́ bao nhiêu mùi hôi hám cũng đủ chết. Trên ghe ai có đủ khả năng biết xử dụng hải bàn để lái cho đúng hướng? "Sai một ly sẽ đi một dặm” giữa đại dương th́ cũng sẽ lạc hướng, tiếp tục trong vô định. Thêm vào đó t́nh trạng chiếc ghe bị đục thủng th́ làm sao cầm cự cho đến khi gặp được tàu của Cao Ủy LHQ?

Đứng trên sàn tàu kiên cố này, tôi thấy rơ rằng. Đây là đất sống. Chiếc ghe mong manh kia là miền đất chết. Tất cả sẽ đi vào cơi chết nếu như không được lên tàu Panama này. Giờ phút này gặp giàn khoang mà không được cứu, th́ đúng là số tôi phải chết dưới ḷng biển rồi. Tôi lặng người khẩn cầu Trời, Phật: “Gia đ́nh con thật sự đă đến lúc tận cùng mạt vận, nên con đă thoát khỏi tay hải tặc, nhưng phải chịu chết dưới ḷng đại dương như đă khấn nguyện chăng? Tại sao Trời, Phật đă ra tay cứu con thoát khỏi bao nguy hiểm từ lúc ban đầu, mà nay phải bắt con chết tức tửi, giữa lúc tưởng rằng thật sự thoát mọi hiểm nguy? Tại sao? Tại sao? Nguời cha già, cả một đời là công chức hiền lương cuối cùng phải lâm nạn; các em thơ dại đă chịu đựng quá nhiều đau khổ trong bao nhiêu năm, nay sẽ càng đau thương hơn?”

Con phải sống. Con chỉ có ước nguyện giúp cha già, các em dại ra khỏi đường hầm, đen tối của đau khổ, và con cầu xin được gặp lại một “thiên thần” đang tha thiết chờ đợi con. Nhưng giờ phút này, tôi thấy thật sự hoàn toàn tuyệt vọng rồi, nên nước mắt đầm đ́a, ngước nh́n Thuyền Trưởng khẩn khoản trong nghẹn ngào. "Nếu ông cương quyết từ chối, tôi xin thay mặt hơn 100 người xin kính chào Vĩnh Biệt. V́ tôi tin chắc rằng giờ phút tôi rời khỏi nơi đây, trở về chiếc ghe bất hạnh, tất cả chúng tôi sẽ chết dưới ḷng biển. Chiếc ghe đă bị đục thủng và đang bị vô nước trầm trọng th́ làm sao chúng tôi có thể có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ cứu như lời Thuyền Trưởng nói. Xin Vĩnh Biệt Thuyền Trưởng!”

Sau lời chào vĩnh biệt đầy nước mắt trong nỗi tuyệt vọng của tôi, Thuyền Trưởng xúc động thật sự. Ông hỏi tôi:“Có tất cả bao nhiêu trẻ con và phụ nữ trên ghe?” Tôi trả lời “Tôi không biết”, nhưng có lẽ ít hơn đàn ông và thanh niên. Ông nói tiếp: “Trong điều kiện của chúng tôi hiện tại, chúng tôi chỉ cố gắng cứu trẻ em, phụ nữ. Đây là những người dễ dàng bị chết trong cơn nguy hiểm. Riêng các đàn ông, thanh niên xin tiếp tục lên đường, sẽ được tàu của Cao Ủy LHQ hay các tàu khác đi ngang qua gặp sẽ cứu.

Ôi! Thuyền Trưởng đă đổi ư! Đă bằng ḷng cứu trẻ con và phụ nữ. Vậy là tôi thật sự thoát chết, và chắc chắn sẽ được đến bến bờ “Tự Do” như hằng ước nguyện. Ôi! Vô vàn cảm tạ Thuyền Trưởng! Ôi! Phải chăng Thượng Đế, Trời, Phật, những người khuất mặt đă làm Thuyền Trưởng đổi ư? Tôi quay qua nói với hai thanh niên khiêng tôi lên đây, và vẫn đang đứng đó, nóng ḷng chờ kết quả:“Thuyền Trưởng chỉ có thể cứu trẻ con, phụ nữ mà thôi!"Hai anh thét to lên: “Thuyền Trưởng đă đồng ư cứu trẻ con và phụ nữ.”

Sau đó, ông ra lệnh cho các Thủy Thủ xuống ghe, bồng bế các trẻ con, phụ giúp các phụ nữ bước lên thang dây của tàu Panama. Tổng cộng đếm được tất cả là 50 người. Mọi người khóc nức nở, đưa tay vẫy chào những người thân: chồng, cha, chú, bác, cậu, anh em…phải ở lại chiếc ghe không lành lặn, trải qua bao biến cố hiểm nguy, đau buồn, biết đến bao giờ có cơ hội đoàn tụ hay sẽ vĩnh viễn chia ĺa? Mặc dù, tôi không có bất cứ người thân nào trên chiếc ghe này, nhưng trước cảnh chia ly năo nề với những người đă chịu cùng chung số phận với ḿnh từ ngày 23 tháng 09. Nay cá nhân tôi sẽ được b́nh yên, đến được bến bờ Tự Do mà ai cũng mơ ước; c̣n họ sẽ đi về đâu, khi tiếp tục lênh đênh trên biển cả, dù được cung cấp đầy dủ phương tiện đi biển? Nhưng chiếc ghe đang bị vô nước và không ai có kinh nghiệm đi biển th́ làm sao đi đúng hướng và biết đến khi nào gặp được tàu của Cao Ủy LHQ hay bất cứ tàu nào khác tiếp cứu. Theo tôi tất cả là vô vọng. Tôi vẫn cảm thấy “Chiếc ghe ấy là cơi chết”, nên tôi rất đau ḷng và suy nghĩ. Hay ḿnh thử cố gắng năn nỉ Thuyền Trưởng cứu họ. Ông đă can đảm không xin lệnh cấp trên để tự quyết định cứu trẻ con, phụ nữ. Bây ǵờ ḿnh yêu sách thêm. Không biết ông sẽ phản ứng ra sao? Ḿnh có quá đáng và không biết sự quảng đại của ông không? Nh́n thấy 50 người đứng chiếm một diện tích bé nhỏ khoảng vài phần trăm trên con tàu khổng lồ, kiên cố chẳng đáng là bao. Dù lo sợ, tôi tiếp tục cố gắng nói với ông: “Thưa Thuyền Trưởng, xin ông tha thứ cho tôi. Tôi rất đội ơn ông đă cứu mạng tôi và những người khác. Nay xin ông hăy cứu tất cả mọi người c̣n lại. Với chiếc ghe như vậy, tôi không tin họ sẽ có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ. Chúng tôi không cần thức ăn, quần áo, chúng tôi chỉ cần một nơi an toàn có hy vọng được sống. Chiếc tàu của ông là đất sống, chiếc ghe kia là cơi chết. Nếu ông nhận thêm những người kia mà tôi nghĩ chỉ chiếm thêm diện tích không đáng là bao của chiếc tàu khổng lồ này, và tất cả cùng chờ đợi gặp tàu của Cao Ủy LHQ đến giúp đưa đi tới trại tị nạn.“ Có lẽ Thuyền Trưởng đă xúc động giữa tiếng khóc nghẹn ngào, những tiếng chào biệt ly, dù bằng tiếng Việt, một ngôn ngữ mà ông hoàn toàn xa lạ và không hiểu:“ Ba ráng bảo trọng, tạm biệt anh; tạm biệt con, tạm biệt cậu, chú vvv…” nên ông lặng yên, trầm ngâm suy nghĩ với ánh mắt đầy xúc động. Sau một, hai phút, ông nh́n tôi nhè nhẹ gật đầu và ra dấu bằng ḷng cứu tất cả mọi người c̣n lại trên ghe. Nhiều tiếng hét to:“ Thuyền Trưởng bằng ḷng cứu tất cả mọi người.“ Ôi! Không c̣n ǵ may mắn và hạnh phúc hơn! Cảnh tượng đau ḷng như một đám tang tập thể trước đó, lập tức trở thành hân hoan, vui sướng với mọi người. Thế là, từng người vội vă cuống quưt leo lên thang dây với sự giúp đỡ của các Thủy Thủ để bước lên sàn tàu. Những khuôn mặt rạng rỡ lẫn ngỡ ngàng, dù nét lo âu, khủng hoảng vẫn c̣n in trên nét mặt.

Khi không c̣n ai lên nữa, vài thủy thủ hỏi to bằng tiếng Anh: “C̣n ai ở dưới ghe không?” Không có tiếng trả lời. Họ hỏi thêm vài lần nữa! và nói chúng tôi xem lại có người nào bị kiệt sức, ngất xỉu chưa lên được chăng? Tất cả gia đ́nh cùng xem lại thân nhân của ḿnh. Thật là một cử chỉ nhân từ và chu đáo! Sau đó các thủy thủ dùng búa chặt đứt sợi dây thừng to dùng để cột chiếc ghe vào tàu Panama trước đó, chiếc ghe tṛng trành, lơ lửng trôi bềnh bồng, trên đó có chiếc túi xách mà lúc hai người khiêng tôi lên tàu Panama tôi làm rớt lại. Biểu tượng thần thoại, cánh chim Đại Bàng mà tôi thường mang theo trong những lần vượt biên từ nay sẽ trôi theo gịng nước, không bao giờ cùng tôi đi tiếp bất cứ nơi đâu!

Tất cả mọi người được yêu cầu đứng xếp hàng để đếm số người. Tất cả 137 người gồm: trẻ em, phụ nữ, thanh niên và đàn ông. Vừa mới đếm xong th́ vài phút sau bỗng nhiên giông tố ầm ầm từ đâu kéo tới, kèm theo những đợt sóng khổng lồ đánh tràn vào cả sàn tàu. Các thủy thủ vội vă dùng những sợi dây thừng thật to, cột mọi người lại với nhau, và sau đó buộc chặt vào các cột tàu để không bị sóng đánh cuốn trôi đi. Một sự kinh hoàng diễn ra trước mắt mọi người đang bị ướt đẫm:
Chiếc ghe mà truớc đó chứa cả trăm người chỉ trong nháy mắt đă bị nhận ch́m theo những đợt sóng khổng lồ, rồi mất hút ngay dưới cơn mưa tầm tă đổ xuống như thác, sấm chớp nổ vang khắp trời.

137 người trong đó có tôi đă chết đi và sống lại trong sự nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật??? Nếu không may mắn gặp vị Thuyền Trưởng đầy ḷng bác ái và nhân từ này th́ chúng tôi đă cùng theo chiếc ghe ch́m sâu vào ḷng đại dương lúc đó. Tôi đi từ bàng hoàng này sang đến bàng hoàng khác. Chỉ trong năm ngày lênh đênh trên biển, tôi đă chứng nghiệm được quá nhiều phép nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật đă cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần, và kể từ giờ phút này đă cùng 136 người được trở về từ cơi chết.

Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ cảm thấy vui mừng đă cứu đuợc 137 người một cách bất ngờ. Chỉ trong ṿng vài phút đă có những tấm bạt khổng lồ được căng lên che chở cho đoàn người chúng tôi đang bị ướt sũng, và lạnh run cầm cập bởi những luồng gió mạnh như vũ băo quất thẳng vào người.

Sau đó mọi người được các Thủy Thủ đưa vào các pḥng cho ấm. Rồi họ phân phát những cục xà bông thơm phức và một số quần áo, yêu cầu mọi người lần lượt, từng nhóm bốn, năm người, chia ra nam theo nam, nữ theo nữ đi tắm, v́ không có đủ pḥng tắm cho từng người tắm riêng. Lúc bấy giờ, tôi đă hoàn hồn, và không c̣n lạnh run nữa, không khỏi bật cười khi nh́n thấy vài cô mặt mũi, ḿnh mẫy vẫn c̣n dính đầy nhớt, lem luốc trông thật gớm ghiếc (giống như tôi).

Sau khi được tắm rửa sạch sẽ, ấm áp, mọi người được mời vào pḥng ăn. Bao nhiêu thức ăn được khui ra từ các hộp thịt, hộp súp đă được bày sẵn trên các bàn trong căn pḥng sáng rực những ánh đèn Néon. Chỉ mới sau mấy ngày đói khát, luôn luôn bị khủng hoảng, lo sợ, và lúc nào cũng kề cận với Tử Thần, chúng tôi cảm thấy như được thưởng thức một bửa yến tiệc linh đ́nh, thịnh soạn do chiếc Đèn Thần của Aladin biến hoá. Tôi nhờ vài thanh niên đi ṿng quanh càc bàn nhắc nhở mọi người dùng súp truớc, cố gắng ăn từ từ và ít thôi để bao tử không bị ảnh hưởng, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng khi chuyển từ t́nh trạng quá đói sang quá no.

Mọi người lại được phân phát mền, dù không đủ cho mọi người, nhưng chúng tôi vui vẻ, chia theo nhóm đắp chung cho càng ấm, và nằm tạm trên sàn tàu dưới những tấm bạt che mưa vẫn đang c̣n rỉ rả. Riêng tôi th́ may mắn được ngủ trong một pḥng riêng nho nhỏ, có lẽ của một Thủy Thủ nhường chỗ cho dùng tạm trong thời gian chờ đợi này?

Cơn giông băo đă ngưng gầm thét để cho mọi người được ngủ yên trong niềm vui sướng và diễm phúc lớn lao nhất: Đă sống lại từ cơi chết và sẽ đến bến bờ Tự Do như ước nguyện. Chưa bao giờ tôi có một giấc ngủ thật say trong tâm trạng b́nh an, và tinh thần phơi phới như đêm hôm đó!

Chúng tôi chỉ van xin Thuyền Trưởng cho chúng tôi một chỗ ngồi trên sàn tàu Panama kiên cố, để được sống sót, và chờ đợi được tàu của Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc đến cứu.

Chúng tôi không dám mong được ăn uống, phân phát chăn mền, quần áo như thế này. Chắc là đoàn người chúng tôi đă tiêu thụ hết thực phẩm, quần áo dự trữ của tất cả Thủy Thủ đoàn? Có thể v́ thế mà Thuyền Trưởng đă cương quyết từ chối lúc ban đầu. Ơn cứu mạng này của Thuyền Trưởng chắc chắn không bao giờ có thể đền trả được.

Mọi người sung sướng, yên tâm chờ đợi trên tàu Panama thêm một ngày và một đêm. Lần thứ hai được nằm trên chiếc giường bé nhỏ có chăn nệm trắng phau giữa tiếng sóng biển ŕ rào và thỉnh thoảng có tiếng ầm ầm của những cơn sóng từ xa vọng lại, không khí mát dịu, trong lành mà chưa bao giờ tôi có trong đời đă đưa tôi ch́m vào giấc ngủ thật dễ dàng và êm ái.

Tiếng gơ cửa của một Thủy Thủ đánh thức tôi dậy giữa lúc tôi c̣n đắm ch́m trong giấc ngủ êm đềm. Anh ta nói khi tôi vừa mở cửa "Tôi xin lỗi đă đánh thức cô. Cô đă có một giấc ngủ ngon không? Thuyền Trưởng muốn gặp cô".

Tôi vội theo anh ta bước lên cầu thang dẫn tới boong tàu trên cao. Dưới ánh b́nh minh giữa đại dương, mặt trời thật rạng rỡ trên mặt nước bao la xanh biếc, cảnh sắc c̣n đẹp hơn cả bức tranh thủy mạc. Vị Thuyền Trưởng cứu tinh của chúng tôi đang đứng chờ và đưa tay ra bắt trong lúc tôi chào ông ta. Sau đó, với khuôn mặt thật nghiêm trang quay về phía mặt Trời đang tiếp tục lên cao trên mặt nước, vị Thuyền Trưởng quỳ xuống, lâm râm vài lời và làm dấu lạy Thượng Đế theo kiểu Thiên Chúa Giáo, tôi cũng vội vă quỳ xuống theo.

Rồi Thuyền Trưởng đứng đậy, nói: "Cảm ơn Thượng Đế đă nhờ Cô cho tôi cơ hội cứu được 137 người. Đúng như lời cô, nếu tôi không thay đổi quyết định kịp thời, 137 người đă thật sự bị chôn vùi dưới ḷng đại dương lúc đó. Và suốt hai ngày nay, tôi không liên lạc được với bất kỳ tàu nào của Cao Ủy, v́ ảnh hưởng của cơn băo, điện thoại cũng hoàn toàn bị tê liệt. Hôm nay, không thể chờ thêm nữa, chúng tôi phải nhổ neo để đưa quư vị đến một trại tị nạn gần đây nhất. "Tôi rưng rưng nước mắt, chỉ biết tận đáy ḷng, vô cùng cảm ơn cứu mạng của Thuyền Trưởng. Tôi xin ông cho tôi cơ hội được liên lạc với ông trong tương lai khi được định cư. Thuyền Trưởng về pḥng, vài phút sau trở ra trao cho mảnh giấy có ghi tên, địa chỉ ở đất liền bằng chữ viết tay:

Captain Brian O' Connell
17 Arundel Close
Bexley
Kent
England
U.K

Các Thủy Thủ được lệnh nhổ neo tiếp tục lên đường, tàu từ từ xa giàn khoan đứng sừng sững như toà lâu đài giữa đại dương vào buổi sáng ngày 30 tháng 09, năm 1984. Buổi chiều cùng ngày th́ đến Đảo Pulau Bidong, một trại tị nạn dành cho các thuyền nhân Việt Nam trên quốc gia Mă Lai Á.

Mọi người coi như đă đạt ước nguyện nhờ ơn cứu mang của vị Thuyền Trưởng có tấm ḷng bác ái bao la, "Thuyền Trưởng O'Connell”. Lần lượt từng người chào từ biệt Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ với tất cả sự biết ơn không có lời nào có thể diễn tả được. Tất cả Thủy Thủ đoàn và Thuyền Trưởng hân hoan chúc chúng tôi may mắn, sớm được định cư ở một nước thứ ba.

V́ tàu được cặp vào đất liền, chúng tôi không phài dùng thang dây để leo xuống như lúc ở giữa biển. Mọi người ung dung bước ra khỏi tàu như bước ra khỏi phi cơ, có lối đi thẳng lên chiếc cầu giữa mặt nước, rồi cao lên dần cho đến khi giáp với đất liền. Sau này tôi được biết tên cây cầu là Jetty.

Thuyền trưởng O’Connell bắt tay từ biệt tôi lần cuối, sau khi giới thiệu tôi với các Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đang đứng chờ đón đoàn người tị nạn được tàu Panama bàn giao.

Một trang sách mới đă được lật qua trong ḍng đời của 137 thuyền nhân sống sót nhờ một phép mầu vào ngày 28 tháng 09, năm 1984 v́ đă may mắn gặp được vị Thuyền Trưởng giàu ḷng nhân ái. Và bắt đầu đoạn đời tị nạn từ đây với mă số do Văn Pḥng Cao Ủy Tị Nạn đăt tên theo thứ tự khi có đoàn người tới đảo: MB 224 Pulau Bidong.

Vẫy tay chào tàu Panama đang xa dần trên mặt nước mênh mông, tôi vẫn c̣n ngẩn ngơ như đang mê ngủ. Đứng trên nền cát trắng, dưới những hàng dừa xanh cao vút dọc theo băi biển, tôi hướng về phía mặt trời rực rỡ đang dần dần đi xuống gần mặt nước xanh trong vắt, thành tâm khấn nguyện lời cảm tạ Thượng Đế,Trời, Phật, những hương linh đă cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần đầy nhiệm mầu qua bao biến cố kinh hoàng suốt mấy ngày qua.

Từ đây, bắt đầu một khúc rẽ cuộc đời như một hành khất đi chân đất, với hai bàn tay không; cái túi xách nhỏ có vài kỷ niệm và đôi dép đă bị rớt lại trên chiếc ghe trong lúc được khiêng lên tàu Panama. Tôi đă không dám xin đôi giầy hoặc dép trong thời gian chờ đợi, v́ đă nói với Thuyền Trưởng: Chỉ xin một chỗ đứng trên “vùng đất sống”.

Hành trang tôi mang đến Pulau Bidong chỉ có một trái tim tràn ngập ḷng biết ơn Thượng Đế, Trời, Phật và những ân nhân đă cứu giúp tôi trên từng bước đường đời, sự thương nhớ những người thân yêu c̣n lại đang vất vả nơi quê nhà, và đang ấp ủ những ước mơ cho ngày mai tươi sáng. Bên cạnh đó là một linh hồn nặng trĩu với những h́nh ảnh hăi hùng, tuyệt vọng trong cuộc hành tŕnh đi t́m "Tự Do", với bao kư ức đau buồn của những năm tháng" đại bác đêm đêm vọng về thành phố" trên quê hương. Một linh hồn quằn quại v́ sự tan nát của gia đ́nh khi chiến tranh chấm dứt trong cảnh nước mất, nhà tan, đau thương, thống khổ chất chồng.

Thấm thoát đă hơn ba mươi mốt năm trôi qua. Tôi đă bước qua bao nhiêu ngă rẽ cuộc đời như chiếc thuyền trôi theo gịng nước. Có những lúc rẽ qua gịng suối nên thơ, có đôi khi rẽ vào gịng sông êm ả và cũng có lúc di vào ḷng biển khơi đang trong cơn giông tố. Ở bất kỳ ngă rẽ nào, không có một khoảnh khắc nào trong đời, tôi có thể quên được những phép lạ đă cứu vớt tôi trong chuyến đi nhiệm màu ấy.

Những lời cuối cho ḍng hồi ức về những phép lạ tôi đang kể lại, xin thay mặt 137 người cùng thoát chết dưới ḷng đại dương trong cơn giông băo vào buổi chiều ngày 28 tháng 09, năm 1984, và bây giờ không biết đang tản mạn ở các phương trời nào, ai c̣n, ai mất, thành tâm gửi đến Thuyền Trưởng Brian O' Connell (cũng không biết ông đang phiêu du ở chân trời, góc bể nào), ḷng biết ơn vô bờ bến và không bao giờ đền trả được ơn cứu mạng ngày ấy.

Ước nguyện tha thiết nhất của tôi trong những năm tháng cuối cuộc đời là được Ơn Trên ban phép lạ cho tôi t́m được tin tức vị Thuyền Trưởng có tấm ḷng bác ái bao la đă cứu 137 người tưởng chừng như chắc chắn là chết được trở về đất sống.

Sự liên lạc của tôi với Thuyền Trưởng đă bị cắt đứt, sau bức thư gửi đến ông năm 1988 đă bị trả về với hàng chữ: "Moved to unknown address". Nhiều năm nay, các con tôi đă cố truy t́m trên nhiều trang mạng từ Internet, nhưng tảt cả đều vô vọng.

Cũng xin thay mặt 137 thuyền nhân, gửi đến tảt cả Thủy Thủ đoàn của tàu Panama ngày ấy sự biết ơn sâu xa trước sự giúp đỡ nhiệt t́nh đầy ḷng bác ái của quư vị.

Từ đáy ḷng , xin gửi đến cô Minh, mẹ của Tuyết Nhiên, và anh tài công sự biết ơn vô bờ đă giúp tôi thoát khỏi bọn hải tặc một cách nhiệm mầu, khi giao cháu bé và liệng cục nhớt cho tôi kịp thời trong tích tắc.

Và cũng tận đáy ḷng, xin chân thành đặc biệt gửi đến ân nhân Nguyễn Vinh Tôn sự biết ơn vô bờ đă giúp tôi bước lên chiếc thuyền định mạng ngày 23 tháng 09, năm 1984. NVT măi măi là một Thiên Thần của sự trong sáng và cao quư trong hồn tôi.

Giờ đây, tôi xin thắp một nén hương dâng lên hương linh của anh Nguyễn Quốc Trụ với tất cả sự biết ơn chân thành nhất của một người hân hạnh và may mắn đă được anh giúp trong chuyến vượt biên này.

Và cùng hàng triệu Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, xin tưởng nhớ, ghi ơn những anh hùng đă hy sinh bảo vệ VNCH, trong đó có người anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Quốc Trụ, SVSQ/ Khoá 20 Vơ Bị Đà Lạt, Đại Úy thuộc Binh Chủng Nhảy Dù, người đă tham dự trận chiến khốc liệt nhất trong quân sử VNCH, trận Đồi 31, Lam Sơn 719, Hạ Lào 1971, nơi anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đương đă nằm xuống, và đi vào huyền thoại qua nhạc phẩm bất hủ "Anh không Chết Đâu Anh" của Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh, c̣n anh Nguyễn Quốc Trụ và nhiều Sĩ Quan, binh sĩ đă bị bắt làm tù binh trong những trại tù nghiệt ngă ở Bắc Việt cho đến năm 1979.

Xin thắp một nén hương dâng lên người Cô (D́) yêu dấu Hồng Hoàng Lan, với tất cả sự biết ơn của người cháu được Cô thay Mẹ, an ủi, đùm bọc trong giai đoạn gia đ́nh tan nát, đau thương sau biến cố lịch sử 30 tháng 04, năm 1975. Cô là người duy nhất trong gia đ́nh Mẹ tôi c̣n ở lại Hà Nội sau năm 1954 v́ đă không thể bỏ lại những cây đàn yêu quư để ra đi. Là một nhạc sĩ xử dụng đàn Violoncelle trong Dàn Nhạc Giao Hưởng Hà Nội, cô đă kịp thời vào Sàig̣n để đưa tiễn Mẹ tôi về cơi vĩnh hằng ngay sau 30-4-1975. Cô cũng là người đă khuyến khích, giúp tôi t́m đường vượt biên, và bắt nhịp cầu cho tôi được bước vào chuyến đi hăi hùng, nhưng mầu nhiệm này.

Và xin thắp một nén hương nguyện cầu cho hương linh emTuyết Nhiên cùng tất cả những thuyền nhân đă nằm xuống ḷng đại dương trong những cuộc hành tŕnh đi t́m Tự Do đưọc an nghỉ nơi vùng trời miên viễn.

Nếu không có những phép lạ nhiệm mầu cứu vớt, 137 người trong đó có tôi cũng đă chung số phận âm thầm nằm trong ḷng biển cả ngày 28 tháng 09, năm 1984. Và những biến cố dồn dập xảy ra trong suốt cuộc hành tŕnh không bao giờ thân nhân được biết.

Cuối cùng, xin chân thành gửi đến anh Trần Đ́nh Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đă khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt t́nh giúp tôi hoàn tất viết lại những ḍng hồi kư đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này.

Toronto, Giáng Sinh 2015
Phạm T. Duyên

*Kính dâng lên hương hồn những thuyền nhân đă bỏ ḿnh trên biển cả v́ lư tưởng tự do. Xin Quư vị nào biết tin tức về Thuyền Trưởng người Anh tên là Brian O’ Connell và Thủy Thủ Đoàn của tàu Panama khoan dầu trên Biển Đông cách đây hơn 31 năm. Xin làm ơn giúp, để tôi có thể liên lạc, dù là muộn màng. Đây cũng là ước nguyện cuối đời của tôi. (PTD)

Phạm T. Duyên












hoanglan22 04-03-2019 13:38

Trên những vết thương c̣n chảy máu
 
Qua cầu Phú Mỹ, chạy một lúc là tới Cát Lái rồi lên Thủ Đức. Vậy mà lần lửa từ trước tết đến hôm nay tôi mới đi được. Để tránh thay đổi ư định giờ chót, tôi gọi cho Hùng từ hôm qua.

Tháng sáu trời hay mưa vào buổi chiều, quá 12 giờ th́ đă mịt mù mây đen, tôi vẫn cứ phải đi.

Con sông Sài G̣n ngày nước lên mênh mông, đám ghe buôn, ghe hàng trôi theo nước chen kín một khúc phía xa chân cầu Phú Mỹ, cây cầu dây giăng mới xử dụng vài năm đă có dấu hiệu xuống cấp, mặt nhựa trên lớp bê tông đă nhăn nhúm và phía đông cây cầu, người ta đang hối hả đổ đá phủ lên, lấp bồi đồng hoang cỏ dại của bao năm rừng nước mặn. Đám gốc rễ tràm, rễ đước phơi khô bên đường là dấu hiệu của những đợt tàn phá thẳng tay. Cái khu “Nhà bè nước chảy chia hai, ai về Gia Định Đồng Nai th́ về” bây giờ nó chỉ là đất đá ngổn ngang dưới chân những tháp cẩu cao ṿi vọi.

Chưa tới ngả tư B́nh Thái, Hùng đă réo vang trên điện thoại:

– Ông nhớ ṃ vô đường số 3, tụi tui đang ngồi ở cuối đường, mà cha nội biết ngơ vô chỗ này không đă?

– Trời! lên Thủ Đức tui c̣n muốn lạc huống chi đường mới, tên mới thôi tui gọi ông khi tới gần đó.

Vậy đó, Sài G̣n bây giờ lạ lẫm như vậy, tôi là thứ Mán lạc rừng ở đất địa này, sau mấy chục năm ít có cơ hội ra khỏi nhà.

Đón tôi là 5 gă thương tật từ đầu tới chân, 5 con người ngồi lọt thỏn trong góc quán dưới tàng cây sân thả những sợi rễ dài chấm dất, trông có vẻ t́nh tự văn nghệ, văn gừng không chịu được. Chào nhau chưa kịp đă nghe tiếng Hùng với khuôn mặt biến dạng sau ngày bị thương ở Lai Khê, khi theo tiểu đoàn vào Tống Lê Chân, ào ào trách cứ:

– Nửa năm rồi nghen cha nội, hứa bao lần ông mới ṃ tới tụi tôi.

– Có trời làm chứng, tui ráng hết gân mới tới được, tuổi già bệnh hoạn mà cha.

Quanh bàn là 3 ông Biệt Động.

Người lớn tuổi nhất cựu binh Mai Vinh của sư đoàn 5, người ở lính khi tôi mới một tuổi, ông về sư đoàn này khi ông Thiệu c̣n là đại tá tư lệnh, qua bao chiến trường, bao trận mạc. Cuối cùng, ông lănh một trái phá khi sư đoàn dưới quyền tướng Lê Văn Hưng, với một khuôn mặt méo mó, mất luôn con mắt trái, hàng tá mảnh đạn găm vào người. Ông về vườn và sống tất bật theo cái tuổi về chiều cùng với mớ sắt thép đạn bom vẫn tồn tại trên thân thể đă già nua.

Hai mai Huỳnh Thanh Tâm của Biệt động quân vẫn ngồi yên lặng nh́n tôi năy giờ:

– Từ sau cái G̣ Công Tây, anh mới chịu ló cái mặt ra.

– Anh khoẻ không? Cha! râu dài gần tới rốn, bộ anh muốn lên núi hả?

Người phế binh một chân c̣n lại đó là đàn anh quá tầm so với thời tôi, anh chiến đấu ở An lộc từ cái năm 1970, khi tôi chưa ăn cơm nhà bàn. Anh đi nát chiến trường miền đông, rồi bỏ lại cái chân ở Chơn Thành, có lẽ chính v́ thế anh cũng thân t́nh với hạ sĩ Dương, anh chàng Vơ Phùng Dương này của 4/52 BĐQ quá thân với tôi trong những ngày lặn lội lên đồi Gió, đồi 169 vào những năm 2011 thăm lom những mả mồ hoang lạnh c̣n sót lại sau chiến tranh, và hắn “thằng một chân về chôn bạn” mà tôi rất quí.

Anh Tâm rất hiền, nhưng là dân học trường “Tây uưnh Pháp” nên thường, anh hay rớt lại mấy câu tiếng Tây quen thuộc trong câu chuyện và là dân khoá 23 TĐ, nên dĩ nhiên, một ông ĐĐT trinh sát của lính rằn ri vẫn “you and me”quen thuộc, như thời anh đấu hót với cái máy truyền tin trên tần số của lính Mỹ, khi gọi pháo yểm.

Kéo cái chân giả lên anh Tâm nói với tôi:

– Nó xưa và cũ như cuộc đời tui vậy đó, thấy chưa? Nhưng tui khoái nó, như khóai cái “cây mùa xuân vừa héo ở G̣ Công Tây” của ông vậy.

– Cha nội chuyện đó xưa như trái đất rồi anh nhắc chi?

– Nhắc chớ, những lời nói thật dù dễ phật ḷng nhưng… tui khoái.

Anh cho tôi xem cái chân giả của anh, nó được làm từ thời của thập niên 60, 70 ǵ đó trông thật thô và kỳ cục.

– Trời sao anh không làm cái mới dễ đi hơn.

– Kệ, tui quen nó rồi, dấu chiến chinh giữ măi trong ḷng…


Trương Văn Vân, ngồi đối diện tôi, kế anh là Bùi Văn Ấn của SĐ 25BB. Vân gơ ngón tay lên cái chân nhựa kéo cao ống quần lộ ra cái chân cụt gần sát gối


– Tui bỏ cái chân thiệt ở Hậu Nghĩa, may mà ngày đứt phim có nó chứ không cũng mệt lắm.

Tôi lấy máy ảnh chụp một phát, 3 con người một thời xương máu, c̣n lại chỉ có 3 cái cẳng chân, và cố lấy h́nh ba cái chân giả, mỗi cái có một niên đại chế tác khác nhau, màu sắc khác nhau, dù cùng một chiến trường Miền Nam Việt Nam, nó đánh dấu bao thế hệ nối nhau đi chiến đấu.


Chợt nhớ tới Hoàng Thế Minh:

– Sao tui không thấy Thế Minh vậy? tôi hỏi Hùng.

– Nó chờ ông từ sáng, nên mới về nhà, để tui gọi nó qua, ở gần đây mà. Nghiêng cái mặt dị dạng Hùng ngó tôi trả lời từng tiếng.

Chiều đă xuống và cơn mưa sẽ đến, cái nóng hầm hập của thời tiết Nam bộ cho tôi cái “ngửi” được hơi gió lạnh và mưa đang tới. Hoàng Thế Minh đến, khó nhọc với cặp nạng, nhưng thao tác quen thuộc, anh chống nó xuống mặt đường, quăng người rời khỏi yên xe gắn máy, thằng con trai lớn của anh giúp ông bố tật nguyền đi vào, trên hai cái nạng. Tôi và Hùng đứng dậy đón anh.

Trong bàn chỉ có tôi, Hùng và cựu binh Mai Vinh c̣n nguyên hai chân, nhưng anh Vinh già và hom hem tới độ tôi có cảm giác anh khó ḷng đứng lên được.

– Sao rồi ? Tôi vỗ vai Thế Minh.

– Cũng vậy thôi, chờ anh hoài mà tới nay mới có dịp ngồi lại với nhau.

Câu nói rất b́nh thường của Thế Minh làm tôi khựng lại. Tôi đă từng hứa với anh sẽ lên Thủ Đức thăm anh và hứa từ hai năm rồi vậy mà cho tới hôm nay mới ṃ lên được, dù Thủ Đức chỉ cách nơi tôi ở không quá 45 phút chạy xe gắn máy.

Hùng bảo tôi uống bia, café th́ lúc này toàn ba cái café dỏm, không bắp rang th́ cũng sái nh́ sái ba pha thêm hương liệu, nước ngọt th́ là hoá chất trộn đường hoá học, chẳng c̣n lựa chọn nào khác, dù ba cái bia bọt quả t́nh tôi không thích, Thế Minh cầm càng với chai trà không độ.

Chúng tôi tha hồ đấu hót, chuyện trên trời, dưới nước, chuyện thượng vàng hạ cám.

Hùng nhắc lại với Thế Minh:

– Mày biết hôn, tao ném cái combine, đỡ ông thiếu úy Tuân, bị chơi một phát ở vai phải khi ông ta rút colt 45 hô anh em xung phong, cho đến khi hai thầy tṛ d́u nhau ngả xuống, ông Tuân dính thêm phát nữa và tử trận ở Tàu Ô, trên đường 13 nhuộm máu…

– Mày biết không ổng chết trên tay tao, trước khi phi cơ xuống tải thương. Và hănh diện:

– Tao mang máy cho ổng mà… Tao lại không dính ở trận Tàu Ô này mà rớt tại Lai Khê lúc chuẩn bị lên Tống lê Chân.


Thế Minh thở dài nói với Hùng:

– Vào An Lộc tao cũng te tua nhưng tao ra quân khu I.. và rớt ở khu Trà Bồng, Quảng Ngăi. Tao bị ở đồi Hoàng Oanh.

Hai người chiến binh cùng mũ nâu ngồi nhắc nhau thuở chiến trường, bây giờ họ đang sống chật vật với thương tật trong cái tuổi về chiều, cùng nhau hồi tưởng những mặt trận họ từng qua. Trong mắt họ tôi nh́n thấy một chút nuối tiếc phảng phất trong từng câu, từng chữ, thời lẫm liệt của một đời trai trẻ đă qua.

Cho đến khi Hùng nhắc cái vụ nhận quà từ một tổ chức thiện nguyện mang tên VHF, anh càm ràm về những vấn đề tệ hại xảy ra từ những cá nhân liên quan đại diện cho tổ chức này, th́ câu chuyện bắt đầu ́ xèo lên.

Một cái tên “Chín Cùi” nào đó, đă nhiều lần lạm dụng danh nghĩa đại diện cho tổ chức VHF lừa lọc anh em TPB đang sống tại VN, cướp đi những trợ giúp từ tổ chức này gởi cho các anh TPB mà anh ta làm đại diện.

– Trời có vụ này nữa sao?

Trời đổ mưa, mưa như trút xuống, chúng tôi vịn níu nhau chạy vào bên trong quán, cô chủ quán, một thiếu phụ trung niên, có vẻ rất quen với những tay tàn tật này, chạy ra thu dọn ly tách.

Bên trong quán đă có một bàn với ba người khách đang đánh đàn guitar cùng hát ḥ những ca khúc thời xưa cũ, cái quán rất văn nghệ, tính cách của nó bộc lộ qua những khách gần như quen thuộc với quán, bởi cô chủ cũng là một trong những “ca sĩ” của buổi tŕnh diễn bỏ túi mà không có khán thính giả này.

Vào bàn mới, câu chuyện lại xoay quanh vụ VHF.

Tôi nói với anh Tâm:

– Tổ chức này là VietNam Healing Foundation hả đại ca? Tui có lần vào trang này trên net.

– Ừ, tui cũng bị nó chơi mấy phát, từ 3 năm nay, chỉ vỏn vẹn 600 ngàn một lần, mà hỏi ra th́ VHF vẫn thường chuyển về tôi theo qui định mỗi năm hai lần và mỗi lần là 1 triệu 500 ngàn.

Tôi lẩm bẩm tính toán mỗi năm hai lần:

– Mỗi năm 150 đô la cho mỗi TPB, như vậy cũng tốt quá rồi.

Hùng cau mặt:

– Tốt con khỉ, thằng Thế Minh nè, nhận chiếc xe lăn trị giá hơn triệu tám, tới tay th́ trớt quớt.

Tôi quay sang hỏi Hoàng Thế Minh:

– Sao trớt quớt vậy Minh?

– À, tui mất hai chân, tổ chức này cho một chiếc xe lăn. Tay “Chín Cùi” gọi tôi lên nhận và hỏi tui: “Mày muốn nhận xe hay nhận tiền?”

Anh biết không, cái xe lăn rất quí, nhưng tui không dùng được v́ nhà chật chội, xê dịch khó khăn, nó cồng kềnh so với cái chỗ tui ở, tui nghĩ măi và cuối cùng nói với Chín Cùi “Thôi anh cho tui nhận bằng tiền cũng được”. Chín “Cùi” bảo tui:

“Mày muốn nhận th́ nè, ở đây 600 ngàn tao đưa trước, mày kiếm ra chiếc xe lăn ngồi trên đó chụp h́nh rồi đưa tao, tao sẽ đưa phần c̣n lại 1 triệu 200 ngàn cho mày sau”. Tui về, chạy vắt đầu tóc kiếm cho ra cái xe, chụp h́nh rồi đưa anh ta. Mấy ngày sau Chín “Cùi” gặp tui, bảo tui cà phê cà pháo với hắn cái đă. Bất đắc dĩ tui phải mời anh ta vào quán, ngồi xuống bàn là Chín “Cùi” điện thoại rủ một lô bạn của hắn tới. Kết quả là tui trả hết 700 ngàn tiền nhậu cho họ, rồi ṭ te về với cái xe lăn bằng 500 ngàn đồng trong túi.

Huỳnh Thanh Tâm, gục gặt đầu, mấy sợi râu bạc bay phất phơ trông như một ông thiền sư đă ngộ đạo đang tung tăng trên đỉnh núi.

– Chưa hết đâu, nó c̣n chơi cái màn, cứ mỗi một triệu mà nó đi giao tới là phải 100 ngàn tiền xăng nhớt, chưa nói đến cái khoản café.

Nghe đến đây tôi thực sự lạnh toát người. Trời, anh em bè bạn tôi, những TPB một thời xương máu đă đổ xuống cho biết bao thằng c̣n nguyên vẹn bị cư xử như thế này sao?

– Nhưng mà Chín “Cùi” là ai vậy? tôi hỏi trống không.


Trương Văn Vân, im lặng năy giờ, xắn tay áo góp chuyện:

– Chín “Cùi” hả? Hắn là Nguyễn Hồng Minh h́nh như cũng là TPB của TĐ 3 TQLC. Thằng này xui mà gặp tui là tới số…

Anh Tâm xen vào:

– Tui nghe nói, hắn lấy giấy tờ của anh ruột hắn, chứ hắn không phải là TPB.

Hoàng Thế Minh thêm một câu làm tôi ngẩn người:

– Khi VHF mới tổ chức, có 24 TPB đầu tiên. Tui ghi danh và nhận trợ giúp từ đầu, chính v́ vậy sau một lần duy nhất nhận th́ không có nữa tôi mới hỏi Chín “Cùi”. Anh ta nói là “Mày chưa gởi hồ sơ làm sao có” tui kể cho anh ta là ḿnh chính là những TPB trong danh sách đầu tiên, anh ta nói “Tao không biết, mày hỏi lại đi”. Chuyện này xảy ra trước khi có cái vụ xe lăn.

Đến đây th́ tôi hiểu ra một điều, rất nhiều tổ chức thiện nguyện từ các nơi, cố tâm giúp đỡ những TPB của QLVNCH c̣n ở lại VN nhưng do chính những người đại diện của họ, nên có khi v́ một lư do nào đó, số quà hay sự hỗ trợ của họ không đến được tận tay người nhận.

Cái lư do quả thật nghiệt ngă, cái lư do chết tiệt chẳng có một chút t́nh người, cái lư do nói như kiểu nhà binh, mà Trương Văn Vân trong một phút bất măn đă thốt ra “cái lư do tào lao”.

Lăo tướng Mai Vinh từ đầu không bàn vào câu chuyện trần ai này, anh thở dài:

– Nói cho cùng ngay cả sinh mệnh của ḿnh, ḿnh cũng không biết hà huống chi những cái từ trên trời, từ xa lắc, qua biết bao ṿng, biết bao chặng mới tới tay ḿnh…

Trời đă xuống thẫm một màu, màu mưa lớn, chúng tôi tan hàng. Trương Văn Vân bận chuyện nhà nên về trước, nhưng vẫn rời bàn sau cựu binh Bùi văn Ấn, lăo này phải về rước cháu ngoại tan học nên chào chia tay từ trước cơn mưa. Tôi chở Thế Minh về Thủ Đức, Hùng đưa anh Thanh Tâm về nhà, lăo tướng Mai Vinh lên yên ngựa một ḿnh dù chỉ một nút nữa là tới 80, cái tuổi hiếm hoi trong số cựu binh tôi từng gặp.

Không quen với hai cái nạng xếp dọc sườn xe, nhưng tôi vẫn cố chạy cẩn thận giữa ḍng xe đông như kiến dọc xa lộ với một con người thiếu thăng bằng ngồi phía sau, Thế Minh ṿng tay ngang người tôi giữ cho khỏi ngă trong những cú lạng tránh những gă thanh niên mặt non choẹt đang hùng hổ rú ga chạy ào ào trên con đường chật chội.

– Thời đại của tụi ḿnh hết rồi. Tôi nói với Thế Minh.

– Anh tới ngă tư Kha Vạn Cân th́ quẹo trái nghen.

Đó là con đường tử thần của xe tải một thời vang danh, bởi những chuyến đất đá chở về từ hướng Biên Hoà, con đường bây giờ trở nên chật chội hơn, hàng quán đông hơn, tới nhà Thế Minh phải quẹo trái, phải thêm vài cái nữa, tôi thật chẳng thể nào nhớ nỗi đường xá ở cái xứ người đông như kiến này.

Thế Minh cởi trần kéo tôi ngồi xuống ngay cái chỗ anh ngủ, một cái nhà bếp nhỏ và cái kệ bếp dùng chứa đồ, anh đă nằm ngủ trên cái sàn chật chội nhiều chục năm qua. Nh́n cái khó, cái nghèo xơ xác, bộc lộ qua mái tôn lót một lớp xốp chống nóng, lu bu, ngổn ngang đồ đạc là biết anh khốn khó tới cỡ nào.


Tôi mở máy cho Minh coi những tấm h́nh đă chụp hồi chiều, hai đứa cùng nghe lại mấy lời bực dọc của Vân cùng sự giận dữ của Hùng khi nhắc đến câu chuyện về VHF.

Theo thói quen, để tránh những dấu hỏi khó chịu nếu có sau này, tôi ghi vội trên điện thoại. Hai đứa ngồi với nhau một lúc lâu, rất là lâu.

Chia tay với Hoàng Thế Minh tôi chạy xe dưới màn mưa bụi suốt từ Thủ Đức về đến đầu cầu Phú Mỹ, cả người lem luốc và ướt nhẹp.

Thắng xe dừng ở giữa cầu, chỗ có thể tránh đường xe chạy qua, đứng trên hành lang dành cho người đi bộ, tôi nh́n xuống sông Sài g̣n, thấp thoáng phía xa thành phố mới lên đèn.



Câu nói của lăo tướng Mai Vinh cứ lởn vởn trong đầu tôi “…ngay cả cái sinh mệnh của ḿnh, ḿnh c̣n không biết…”. Cay đắng làm sao! Những con người có một thời chinh chiến, bản thân họ là TPB, mà là TPB của một chính quyền bị tước trên tay từ một chính quyền khác, sự sống c̣n như một tṛ chơi không hơn, tương trợ nhau được biểu diễn qua một đường cong ma mănh.

Bầm dập gần 40 năm tính từ ngày mà cái quân đội họ đă phục vụ không c̣n nữa. Nhưng, suy cho cùng sự chiến đấu lẫm liệt đó chính là chiến đấu cho tự do, cho sinh tồn của dân tộc, của đất nước. Chiến tranh qua đi, sao nó không giống những quốc gia khác, cũng có những cuộc nội chiến, cũng có thương binh. Sao người ta cư xử trong tinh thần thượng tôn của vơ nghiệp, trong cái trân trọng một con người, mà ở đây, trên đất nước này lại khác. Nhớ anh Nguyễn Đ́nh Toàn từng hát cho tôi nghe một ca khúc sau ngày tan trận, lúc hai anh em bị nhốt chung ở nhà giam T20 thành Gia Định từ những năm 1977, trong đó có một câu thật đau đớn “…người với người, đă trở thành thiên tai…”.

Không phải cái đau xuất phát từ những người đối lập, mà nó lại khởi nguồn từ những người cùng một hoàn cảnh, tồi tệ nhất trong các thứ hoàn cảnh tồi tệ khác. Cướp nhau tận cùng, tước đoạt tận mạng những thứ có thể tước đoạt được, trong cái tranh giành sống c̣n hôm nay. V́ cái ǵ? Đói khổ làm người ta mụ mẫm cả lương tri.

Trách sao những món tiền khổng lồ mà các tổ chức quốc tế, của Liên Hiệp Quốc với những kế hoạch đă có vài mươi năm, hỗ trợ cho những kẻ bị nạn sau chiến tranh, những con số hàng chục, hàng trăm triệu đô la, không bao giờ, không thể nào đến tay những thương binh của một quân đội đă bị lăng quên. Những món tiền cỏn con như chút quà mọn như vậy c̣n bị cắt xén tan nát nói chi là cái khác to, lớn hơn nhiều rất nhiều. Chiến tranh để lại quá nhiều tai ương.

Dẫu sao tôi cũng đă thực hiện được cái mong muốn gặp Minh, gặp Hùng và những TPB mà tôi từng biết đến, có người chỉ biết qua một cái tên, có người đôi lần cùng nhau chia xẻ trong những khi tôi có cơ hội và có khả năng chạy vạy từ anh em bè bạn của ḿnh.

Nhắc đến điều này tôi như một con nợ, gánh một gánh với nhiều anh em quen biết, cũng có kẻ chưa từng gặp mặt nhau. Từ những nhà hảo tâm có khi biết, có khi không, giúp tôi có thêm cơ hội sống gần, kề cận với những anh em TPB và biết được những thứ trời ơi đất hỡi chung quanh chuyện trao nhận quà cáp từ xa chuyển về, biết cái sống như chết rồi của anh em, biết cái oai hùng trong đoạn đời chiến đấu của từng người và chính v́ thế mới biết những “cái lư do tào lao” và câu chuyện chết tiệt mà trong đời có lẽ sẽ không sao hiểu nỗi.

nguyễn thanh khiết

wonderful 04-05-2019 02:37

6 Attachment(s)
Thêm chuyện Paris: Tháo dỡ 65 tấn ổ khóa t́nh yêu ở Paris … đem bán

Cầu Pont Neuf vốn được xem là điểm hẹn của hàng ngàn cặp đôi trên toàn thế giới nay sắp bị tháo dỡ toàn bộ ổ khóa t́nh yêu.

Bắc ngang ḍng sông Seine chảy trong ḷng thành phố Paris – Pháp có hết thảy 37 chiếc cầu bắc ngang, nhưng nổi tiếng và được nhiều người biết đến nhất chính là chiếc cầu nhỏ Pont Neuf dành riêng cho những người bộ hành. Từ lâu, nơi đây đă trở thành điểm đến cho t́nh nhân khắp nơi trên thế giới. Họ “thề non hẹn biển” bằng đủ các loại ổ khóa, gắn vào hàng rào dọc theo thành cầu để cầu mong t́nh yêu bền chặt, gắn bó.
Việc dùng ổ khóa để “trói buộc” nhau là một quan niệm được các cặp t́nh nhân phương Tây khá tin tưởng. Các đôi thường khắc tên ḿnh hay lời nhắn nhủ trên ổ khóa rồi gắn vào thành cầu sau đó vứt ch́a khóa xuống sông gần như trở thành “đặc sản” mà nhiều du khách đến đây đều không thể bỏ qua.

Tuy nhiên, khi mật độ ổ khóa ở đây ngày càng tăng đă vô t́nh tạo nên sức nặng khủng khiếp khiến chiếc cầu có nguy cơ hư hỏng trầm trọng. Trước thực trạng đáng buồn này, chính quyền Paris đă tuyên bố bắt đầu loại bỏ các ổ khoá t́nh yêu gắn trên những cây cầu từ năm 2014 đến nay, đồng thời kết thúc trào lưu khóa t́nh yêu. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để xử lí tốt nhất 65 tấn kim loại từ hàng ngàn ổ khóa này trở thành vấn đề được mọi người quan tâm.

Vừa qua, phó thị trưởng Paris Bruno Julliard đă đề xuất ư kiến: thành phố sẽ bán các ổ khoá và khoản tiền thu về đem quyên góp cho những người tị nạn. “Người dân có thể mua lại từ 5-10 ổ khóa hoặc thậm chí là nhiều hơn, xem như lưu giữ một phần lịch sử và kỉ niệm với Paris. Và tất cả lợi nhuận thu về chúng tôi sẽ chuyển hết cho nhóm người tị nạn đang sinh sống tại thành phố”– ông Julliard chia sẻ.
Đợt mở bán đầu tiên sẽ diễn ra vào đầu năm 2017 và hứa hẹn sẽ thu về khoảng 100.000 euro (tương đương 2,4 tỉ đồng). Song song với quyết định này là chiến dịch No Love Locks được phát động mạnh mẽ nhằm kêu gọi du khách ngưng gắn ổ khóa trên các “cây cầu t́nh yêu” ở Paris.







hoanglan22 04-06-2019 14:48

Ra tù
 
1 Attachment(s)


C̣n mấy ngày nữa là đúng thời khắc bốn mươi năm trước, cầm giấy ra trại trên tay và mười mấy đồng tiền xe tàu làm lộ phí. Ḷng nhẹ nhơm. Thế là ước mơ được trở về nhà sau mấy chục tháng “tu tiên “ đă trở thành hiện thực. Dù biết rằng chưa thành người công dân nhưng khi bước ra cổng trại, ngoái nh́n lại những dăy nhà tranh đơn sơ đă một thời là mái ấm, ḷng vẫn thấy vừa vui, vừa bùi ngùi. Một thời gian dài bắt tay viết lại lịch sử đời ḿnh, có những góc kư ức không cố nhớ mà sao khó quên.

Buổi sáng, đứng chờ xe lửa trên ga nhỏ Trản Táo trở về thành phố, ḷng rộn ràng khó tả. Nh́n mười mấy người cải tạo gầy g̣, thuộc nhiều lứa tuổi, mặt mày ai cũng rạng rỡ, măc bồ đồ tươm tất nhất có được, sao thấy đứa nào cũng ngố. Bộ đồ trên người cũng vậy. Hồi đi tŕnh diện mặc một bộ, hai bộ c̣n lại nhét ở túi xách; theo thời gian hai bộ kia đă rách bươn. Bộ đồ sạch sẽ nhất được giặt và cất kỹ ở đáy túi xách, chỉ mặc vào dịp lễ tết và chờ ngày hôm nay. May mà ngày ấy, cũng kịp đến, bộ đồ có cũ đi nhưng vẫn c̣n nguyên.

Ba mươi hai tháng trong trại, ngày ngày lao động, có khi lên rừng đốn cây, thường mặc bộ đồ lính cũ, nay đă rách bươn, vá chằng chịt, hôm qua tặng lại cho thằng “sún“, trẻ nhất trong 6 đứa c̣n lại ở trại như một kỷ niệm để nó có thêm áo quần thay khi tắm giặt, bởi v́ mỗi lần giặt, ai cũng phải phơi nắng ở b́a rừng hai ngày mới khô. Tội nghiệp thằng nhỏ mới khoảng hơn hai mươi tuổi, hồi nhỏ chạy giấy tờ làm lính kiểng ở đơn vị nào đó và ăn rồi cà nhỏng đi chơi, đi học ở saigon. Rồi phải ḷng một cô gái trong xóm lao động gần nhà, cô này lại mê sĩ quan nên anh chàng mỗi lần đến nhà cô gái lại mang bộ đồ lính rằn ri “giật le”, trên vai đeo hai bông mai vàng chói (trung úy) mua ngoài tiệm. Sau ngày 30 tháng tư, đi tŕnh diện như lính ”đơ dèm cùi bắp” bị mấy ông “nằm vùng” tố cáo “khai man lư lịch nên bắt đi cải tạo 10 ngày, chung chỗ với sĩ quan. Không biết chừng nào mới được về với cha mẹ .

Nó nằm gần, trên cái giường tre tập thể, (quên mất tên ǵ rồi, xin lỗi em), đêm nào cũng khóc hu hu v́ nhớ nhà làm nhiều đứa cũng khó ngủ theo. Đưa cho em, hết đồ cá nhân c̣n lại trong trại, tôi chỉ cầm cái xắc nhỏ đeo vai trên người y như ngày đi tŕnh diện 3 năm trước. Khi chiếc tàu lửa đổ xịch trên sân ga, mười mấy đứa lên tàu, cái căm giác nhẹ nhơm lộ hẳn ra trên nét mặt. Vậy là được tự do thật rồi, sắp về nhà rồi. Là tàu chợ Nha Trang-Saigon nên trên tàu chật nêm, đầy những bao bố, thúng gánh hầm bà lằng trên sàn. Tôi chen được một chỗ trước mặt nhờ có bà già đang ngồi thấy người dáo dác t́m chỗ nên co ro, rút một chân lên ghế.

- Tụi bây là cải tạo phải không?
- Dạ, thưa bác, đúng rồi. Mà tại sao, bác biết. Tôi ngạc nhiên hỏi bà cụ.

Bà cười hiền hậu, cái miệng móm mém, chỉ c̣n lưa thưa một hai cái ở trong miệng:
- Tổ cha mày, má nh́n mấy cái mặt tụi bây, ngơ ngơ ngáo ngáo là biết không giống mấy người trên tàu này, thấy không con?

Mà bà già nói đúng thiệt. Xung quanh,phần lớn là đàn bà, phụ nữ, ai nấy, tiều tụy, căng thẳng, nhiều âu lo, nét mặt phong trần , đầy vẻ láu lỉnh; c̣n, nh́n kỷ lại tụi này, thằng nào cũng ngơ ngơ, mắt mở to, thấy cái ǵ cũng nh́n v́ lạ quá. Chiếc tàu mệt mỏi, x́nh x́nh leo qua đồi tre. Nhiều đứa cố nhón gót, nh́n lại lần cuối, nơi quen thuộc bao nhiêu tháng miệt mài với rừng núi.

Vài ba đứa mặc quần áo lao động cải tạo vẫy vẫy tay. Tôi cố nh́n kỷ ,Ơ ḱa, có thằng nhỏ sún răng , chung tổ. Nó nhón gót vẫy tay lần cuối. Khuôn mặt nó nhỏ dần, xa dần rồi mờ hẳn. Mắt tôi mờ đi. Chắc thế nào nó cũng khóc , khóc v́ mừng cho mấy anh và cũng khóc v́ nhớ nhà. Tối nào nó cũng khóc rấm rức mà. Thôi, ráng lên em. Tội nghiệp.

Bà má Nam Bộ, hỏi tôi:
- Ủa sao mày khóc, hả con?
- Tại con mới thấy thằng em c̣n lại trong trại nó mới vẫy tay chào, tôi nghiệp nó. Tôi ngượng nghịu trả lời
- Nó là em mày hả con?
- Dạ, không phải. Nhưng nó hiền lắm nhỏ tuổi hơn đứa em ở nhà, nên tụi con, ai cũng coi nó như em. Thấy nó vẫy tay, tự nhiên chảy nước mắt.

Rồi bà bước xuống đứng cạnh tôi, bà hỏi
- Hồi trước, mày làm lính, nghề ǵ?
- Dạ, con là trung úy, làm bác sĩ.
- Má cũng có con, cũng làm lính đánh giặc nhưng chết lâu rồi, nên má bỏ Saigon, về làm ruộng trong vùng sâu Long Khánh, má sắp xuống ga tới rồi. Nh́n tụi mày, má nhớ con má. Hồi xưa, có lần má đi khám bệnh “quan đốc tây”, gọi bằng Ngài không hà. Sợ lắm, không dám nh́n mặt quan “đốc”. Ở đây, lâu rồi chưa gặp thằng bác sĩ nào trẻ như mầy. Giống con tao. Ráng giữ sức khỏe nghe con, rồi làm ăn nghe. Mà mày có vợ con ǵ chưa con?

- Dạ chưa má ơi. Tôi gọi “má” tự nhiên, ngọt xớt.
- Thôi ráng chịu cực khổ, làm ăn , rồi có vợ con như người ta đi.

Má lần tay vào lưng quần, rồi nắm lấy tay tôi, nói nhỏ:
- Má cho mày cái này.

Rồi bà giúi vào tay tôi mấy đồng bạc nhàu nát moi từ lưng quần. “Xuống ga mà uống nước mía rồi ăn hủ tíu”. Tôi gạt tay bà, định từ chối.

- “Mày đừng làm má khóc, nghe con. Bỏ túi đi. Cho má rờ cái mặt của bác sĩ một chút nghe con. Mắt má nh́n không rơ.

Không đợi trả lời, bàn tay sần sùi, nhăn nheo của bà rờ, mân mê trên mặt tôi từ trán xuống cằm. Tới chỗ c̣n ướt nước mắt, bàn tay bỗng dứng lại, ngập ngừng mân mê như có chút bâng khuâng. Má tôi chết v́ bệnh lâu rồi, chắc cũng gần hai mươi năm. Ngày xưa, má tôi cũng hay mân mê trên mặt con ḿnh, rồi vuốt tóc. Tôi bỗng ôm chầm lấy bà rồi thảng thốt” Con cám ơn má”.

Tàu rúc lên hồi c̣i dài, báo hiệu sắp dừng, bà buông tay tôi, chuẩn bị xuống ga. Mấy đứa đở má xuống ga. “Thôi má về nghe con. Giọng bà buồn, ướt đẫm. Đôi mắt bà bỗng sáng lên, rồi mờ đi. Tôi nắm chặt lấy tay người má Nam Bộ mới gặp, bóp chặt như một lời chia tay. “Thôi má về b́nh an”.

Nh́n ra cửa sổ con tàu trên đường từ ga Trản táo về hướng Saigon, cố nhớ địa điểm ga xép này. Sau này, nhiều lần tôi đă có dịp ngồi trên xe lửa Nha Trang –Saigon, đă nhiều lần lóng ngóng nh́n ra cửa sổ để t́m lại h́nh ảnh người phụ nữ năm xưa nhưng sao hoài vẫn chưa thấy. Cũng đă gần 40 năm rồi, ngồi viết lại mấy ḍng này, mới sực nhớ chưa biết má tên ǵ, nhà ở vùng nào để biết đâu c̣n có dịp gặp lại. Nhưng mà, nếu quả thật, có duyên và Trời Phật thương, chắc thế nào cũng có ngày má con ḿnh gặp lại, nếu má c̣n sống. Lúc đó, tôi tin rằng, sẽ nhận ra ngay v́ h́nh ảnh của má vẫn c̣n nguyên trong trí nhớ, dù rằng, giờ này, tuổi con cũng gần như tuổi má hôm ấy.

Làm sao quên được đôi mắt nhân từ của má hôm ấy, đôi mắt ướt trên da mặt nhăn nheo và cái miệng móm mém. Khuôn mặt buồn thiên thu. Khoan chết nghe má, để c̣n có ngày gặp lại.

Người Đăng: buithiengiao

hoanglan22 04-08-2019 02:55

Trại 5 - Mùa Cùm!
 
2 Attachment(s)


Chú thích của TV PVT: Trại 5 Lam Sơn ngày nay (sau 2010 ....) cũng c̣n gọi là Trại 5 Thanh Hóa tức trại giam số 5 của Bộ Công an cộng sản tại Thanh Hóa, nơi đây sau 2005 đă giam giữ Phạm Thanh Nghiên, Trần Ngọc Anh, Lê Thị Công Nhân, Lê thị Kim Thu, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ, Trần Khải Thanh Thủy … và mới đây giam những người bị tước đoạt điền sản tại Dương Nội với người nữ dân oan tiêu biểu là chị Cấn thị Thêu. Nơi đây cũng c̣n đang giam giữ người con gái đất Trà Vinh, Nguyễn Đặng Minh Mẫn... - Nguồn ảnh: VOA tiếng Việt (http://www.voatiengviet.com/)

******

1. 1995
Sau Tết chừng hai tháng th́ 10 người tù A 20 ra Bắc hồi đợt tháng 11.1994 được chuyển sang nhà 4, đoàn tụ với anh em A 20 ra Bắc đợt cận Tết 1995. Anh em mừng tủi ôm nhau nước mắt lưng tṛng. Tội tu sĩ Nguyễn hữu Tín, ông gầy đét, trơ hai hàm răng trắng đứng đợi tôi cạnh cổng ra vào, nắm lấy lấy tay tôi ông hỏi « …sao gầy vậy Thành! »

Nh́n ông, nh́n anh em, vui mà muốn khóc. Tôi nói.
- Bộ thầy mập lắm hay sao mà biểu con sao gầy thế?

Ông cười, mặt gần như chỉ c̣n thấy hàm răng trắng và hai con mắt đă nhiều lớp nhăn, xúng xính trong bộ áo quần màu nâu đă bạc thếch, nổi đậm lên hai chữ cải tạo màu đen đă đổi thành xám xịt, đóng to đùng giữa lưng và hai đùi.

Anh Nguyễn Kim Long đứng trên bực thềm, gầy không thể tả! Hai con mắt đă thành sâu hoắm, đôi tay ḷng kḥng đưa ra ôm lấy tôi. Bên cạnh là giáo sư Nguyễn văn Bảo và vơ sư Lê Ngọc Vàng.

Đỗ bạch Thố vẫn như ngày nào ở A 20, rất nhanh gỡ ba lô và cái ḥm gỗ (chính Thố đóng bằng gỗ mít ở A 20) trên tay tôi xuống rồi đem thẳng vào chỗ nằm đă qui định sẵn.



Những người tù từ A20 Xuân Phước, bị cộng sản đày ra Trại 5 Thanh Hoá 1995 và ngày 29.12.1999 chuyển về trại Nam Hà. Trong h́nh này, hầu hết là án từ 16 năm đến chung thân. Hàng đầu từ trái: Trần Đế (Cần Thơ 18 năm); Chí sĩ Cao Đài Hồ Vũ Khanh; Đỗ Minh Tuấn - tổ chức Hoàng văn Hoan- Hải Pḥng); và Trần Nam Phương (Quảng Nam chung thân). Hàng sau từ trái: Nguyễn duy Cường (Vũng Tàu, áo choàng xanh đen, 14 năm); Dương văn Sĩ (Sóc Trăng chung thân); Lê Thiện Quang (Huế 15 năm); Lương quang Ḥa (Thanh Hóa); Vũ đ́nh Thụy tức Vơ Lâm Tể (Phú Yên chung thân); Phan Văn Bàn (Quảng Nam /Long Thành, tổng án 32 năm) (1); Bùi Thúc Nhu (Phú Yên, chung thân) - ảnh tư liệu của Phạm văn Thành

Gặp lại nhau, dù mới cách xa có 5 tháng, nhưng t́nh cảm thật dạt dào! Thứ t́nh cảm mà suốt 16 năm tiếp theo đằng đẵng trong đời tôi - sau tù - không thể t́m có được, dù đă đi cùng trời cuối đất khắp Âu Á Mỹ Úc xa xôi…

Khu cách ly A4 là một nhà bê tông mái bằng, xây dựng lại trên nền đất của bệnh xá trại tù trung ương số 5 Lam Sơn, một nhà tù hơn 50 năm liền đoạt danh hiệu tiến tiến tiêu biểu của ngành công an quản lư tù!

Dăy nhà ngăn làm đôi. Tôi và toàn nhóm 10 người bị xếp vào phần nhà phiá ngoài gần cổng A4a. Nhà có bốn thường phạm sống chung với chính trị phạm chúng tôi. Vơ sư Lê ngọc Vàng, giáo sư Bảo, bác sĩ Kim Long, thày Tín, Biệt kích Nguyễn văn Trung, B́nh định Trần Minh Tuấn, nhà giáo Hoàng xuân Chinh …. đều bị xé khỏi tôi và Phạm anh Dũng, Nguyễn ngọc Đăng, Lê Thiên Quang và Trần văn Lương.
Lược qua nhân sự phân bổ hai nhà, tôi hiểu là cách phân bổ này được chỉ định từ trung ương, nằm ngoài hoàn toàn quyền hành của giám thị trại 5, v́ phải là đă theo dơi hồ sơ cùng hành vi của từng người nhiều tháng nhiều năm mới có thể phân định được chính xác sự …gai góc của từng người mà xếp chỗ nằm như vậy.

Pḥng tôi có hai sự lạ là sự có mặt của Phượng Hoàng Phan văn Bàn. Như vậy là anh Bàn đă dấu được độ gai góc của ḿnh. Có anh Bàn trong buồng, tôi vững tâm rất nhiều. Chỗ nằm của anh bị xếp vào góc trong cùng sát tường, đối diện chỗ nằm của Thày Mai Đắc Chương. Bên cạnh thày Chương là Trần Nam Phương rồi đến tôi, đến h́nh sự (thường phạm) Sáng và tới Lê thiện Quang, Đỗ Bạch Thố, Phạm anh Dũng, Trần văn Lương, Nguyễn đ́nh văn Long, Nguyễn hữu Thiết (vụ Linh Mục Nguyễn Văn Vàng (2)). Sau anh Thiết là hai người tù thường phạm khác. Dăy bê tông đối diện là h́nh sự Quân, rồi tới chính trị phạm Michel Nguyễn Muôn, Moris Đỗ Hườn, rồi Kiên h́nh sự, rồi chính trị phạm cựu Đại úy Đỗ Hồng Vân (cùng vụ tôi), nhà giáo Phan văn Lợi (anh Bảy Lợi) và một anh quê ở Huế tôi đă quên tên rồi đến anh Phan văn Bàn. Dương văn Sĩ sau khi từ Thanh Cẩm chuyển về (4 tháng sau khi tôi chuyển sang nhà A4) được xếp sát chỗ nằm anh Bàn. Vũ đ́nh Thụy cũng nằm gần anh Bàn.

Sinh hoạt chính của khu cách ly được biểu lộ rơ nét ở buổi trưa. Đây là giờ chuẩn bị ăn trưa và nghỉ trưa. Muốn biết quan điểm và thái độ của từng người tù, cứ điểm danh các nhóm ăn cơm chung là có đáp số rạch ṛi.

Khi tôi sang nhà 4A, các nhóm quan điểm tự nhiên h́nh thành công khai. Góc đầu hồi trên bệ hành lang phiá sau nhà A4a được anh Bàn quét dọn sạch sẽ và trở thành chiếu sinh hoạt của nhóm chúng tôi. Chủ lực từ giấc sáng tan giờ đập đá là anh Kim Long, giáo sư Bảo, Lê Ngọc Vàng, Hoàng xuân Chinh … từ buồng A4b sang. Cơm trưa chủ yếu là anh Bàn và anh Trương văn Sương quán xuyến. Nơi chiếc chiếu này, lư thuyết Nhân Bản Việt được giáo sư Nguyễn văn Bảo đặc biệt chú trọng giải bày. Bác sĩ Nguyễn Kim Long phân tích chi tiết về các vấn đề của Hiệp định Geneve và Hiệp định Paris 1973. Anh Phan văn Bàn nói về các chiến dịch Phượng Hoàng và các kinh nghiệm. Trương văn Sương được hỏi kỹ về giai đoạn hoạt động ở Hoàng Sa và biên giới Thái Việt với tổ chức anh Trần văn Bá. Vụ án và tổ chức của ông Hoàng cơ Minh cũng được đặc biệt mổ xẻ tại không gian này một cách hết sức nghiêm khắc.

Lê thiện Quang (3) chủ yếu nói về yêu cầu hài ḥa tôn giáo và yêu cầu chuyên nghiệp hoá các phản ứng mang tính cách chính trị, đây là người rất cứng rắn yêu cầu anh em lột bỏ những quán tính quá khứ quân đội của những người như anh Trương văn Sương, Vũ đ́nh Thụy:

« …Chúng ta 20 năm trước là những Thiếu úy, Trung úy, Đại úy. Nếu không mất nước mà c̣n sống, giờ này chúng ta đă phải mang trách nhiệm của những Đại tá, Thiếu tướng, Trung tướng … cầm vận mạng của hàng chục ngàn chiến binh và gia đ́nh họ. 20 năm đă trôi qua, đừng ám ảnh cái dĩ văng Thiếu úy Trung úy nữa! Quân đội đă mất, vũ khí đă mất, nước cũng không c̣n … việc hôm nay của chúng ta là việc của những bậc đại sĩ làm chính trị hưng quốc. Tầm vóc ấy hàng ngàn thằng Thiếu úy Trung úy không so sánh được! Phải nhận ra trách nhiệm lớn lao của từng người … »

Quang là người Công Giáo Phú Cam, truyền thống giữ đạo của người vùng đất thánh địa La Vang là một truyền thống hết sức đặc biệt. Vụ án của tôi bị kích lên hàng tối nguy hiểm để xử ṭa đại h́nh đồng lúc sơ chung thẩm cũng là v́ những nghi ngại liên quan đến lực lượng công giáo Phủ Cam, bởi Trần Tư đầu vụ có xuất thân từ Phủ Cam, Văn đ́nh Nhật cũng có những dấu chỉ liên quan mật thiết với Phủ Cam, Phạm đức Hậu từ Mỹ về trước khi bị bắt hầu hết quan hệ đều dính dáng tơí các họ đạo Công giáo và Đỗ hồng Vân lại liên quan chặt chẽ với các nhóm lực vũ trang Cao đài và Phật Giáo Ḥa Hảo! Vụ án tiềm tàng một nỗi ám ảnh mà cơ quan an ninh đầu năo cộng sản luôn luôn sợ hăi, đó là thế lực hành động của các lực lượng tôn giáo.

Trong bối cảnh ấy, Quang là người khả dĩ có thể nói rất cứng với những anh cựu sĩ quan VNCH khác, bởi bản tánh cũng như tầm hiểu biết của Quang là rất vững vàng. Xuất thân sĩ quan Nha Kỹ Thuật cũng tự nhiên làm thành tường lũy để anh có thể phát biểu những ư tưởng vơ tuyên với tất cả những anh em tù A 20 mà ít ai là không phải suy nghĩ sau khi nghe những điều anh nói. Một người hiểu biết nhiều nhưng không phải bạ chỗ nào cũng phát biểu những suy nghĩ của ḿnh.

Chiếu ăn nhóm chúng tôi khoảng 12 người sau khi tôi tách nhóm sinh hoat của Đỗ bạch Thố và anh Phạm anh Dũng. Mục đích là tránh sự chú ư của phiá giám thị vào những nhân lực chủ yếu luôn muốn hành động chống lại chủ nghĩa cộng sản bằng bất kỳ giá nào hoặc kiểu cách nào.

Hoàng xuân Chinh sống một ḿnh vơí sự kham khổ đến mức tối đa. Nguyễn văn Trung cũng vậy, Trần Minh Tuấn cũng vậy. Đây là ba con ngướ đăc biệt vơí những cá tánh cực kỳ đặc biệt, không chịu mang ơn bất kỳ ai, dù đời sống chỉ có cơm trại và rau muối. Trần minh Tuấn suốt ngày giang nắng ngoài trời, những vồng đất cằn phèn thế nào đi nữa, với bàn tay của Tuấn, chỉ hai ba tháng sau là khổ qua, đậu bắp, cà chua, cải, mướp, bạc hà mọc lên la liệt…anh em cũng nhờ vậy mà có thêm thứ để nhét vào bụng và cũng là cơ hội để nhét vào túi cói của Tuấn lúc th́ chai nước tương khi th́ vài lát đậu phụ, coi như có qua có lại v́ ông thần nước mặn này vô cùng khái tính. Tính cách này 20 năm ṛng, Tuấn mang theo nguyên vẹn qua tất cả các nhà tù khắc nghiệt nhất nh́ Nam Bắc. Giờ đây, 16 năm sau khi bị tống xuất khỏi nhà tù và quê hương, nhắc đến anh, ḷng tôi không khỏi mênh mang cảm giác luyến thương và kính phục, một mẫu người trai đất vơ đặc thù của sông núi miền trung (B́nh Định).

Khu cách ly A4 là nằm trên phần đất rộng nhất của các khu trong phân trại A (giờ họ gọi là Phân trại 1, theo như cựu tù chính trị đang c̣n trong nước, cô Phạm Thanh Nghiên (4) xác định). Khu này giếng không có nhiều nước nên anh em quyết định đào sâu thêm. Tôi vô cùng ái ngại khi biết rằng trước đây, thời c̣n các anh tù cải tạo 1978/1988, khu này là bệnh xá và nhà cầu bệnh xá cũ không xa nơi đang đào sâu thêm cái giếng định mệnh là bao! Giếng sau khi cố đào hàng tuần, nước cũng chỉ đủ ½ cho gần trăm con người nên giám thị buộc phải để đội phân bổ người xuống nhà bếp để gánh nước về dùng. Anh em rất nhanh đề cử tôi đi lấy nước cho nhà buồng, v́ trong nhà hầu hết đều đă già yếu hoăc bệnh tật.

Mấy tháng đầu phiá trực trại không đồng ư cho tôi ra khỏi khu cách ly để đi xuống khu nhà bếp kéo nước giếng về nhà buồng … nhưng sau đợt cùm kiên giam 7 tháng, họ nhắm mắt khi thấy tôi cứ xồng xộc gánh đôi thùng đi kéo nước, phần v́ thời gian cũng đă hai năm, t́nh cảm nơi mỗi con người chân chính khó có thể ghét nhau măi được. Trên có hét ḥ th́ hét ḥ, c̣n họ là ngướ dưới, miễn sao giữ không để chúng tôi làm loạn là được … nên mỗi khi tôi xồng xộc đi kéo nước, lại có hai ba cậu h́nh sự xách thùng chạy theo và ông quản giáo đội bếp phải canh chừng, đội trưởng đội bếp cũng lảng vảng suốt "hành tŕnh" từ bếp đi qua nhà căng tin, qua cổng bệnh xá và vào khu cách ly. Tất cả các thường phạm đều được lệnh cấm triệt để không được chào hỏi hay dạ thưa ǵ vơí chúng tôi nếu như «vô phúc » phải đụng đầu. Nhớ có lần tôi bắt chuyện vơí một ngướ mẹ c̣n rất trẻ, chị đang địu đứa con chừng 5 tháng, vừa địu con vừa rửa rau, cả một xe ḅ rau muống …
- Tôi giúp cô được ǵ không?
- Bác cho cháu cái …sịp!

Người mẹ trẻ trả lời rất nhanh, mắt vẫn không rời những thúng rau bự chảng.Tôi sững người mất vài giây mới hiểu ra …

Cả tháng sau đó vô t́nh cũng một lần rửa rau ở bờ giếng. Cô bé than “Các ông ấy vặn hỏi cháu đến chết khiếp. Giờ bác có cho cháu cái ǵ cháu cũng không dám nhận! Hăi lắm”!

Đó là người thiếu phụ sanh con trong nhà tù, bị bắt án 12 năm v́ tội “gánh Thánh Kinh vượt biên giới”! Lần ấy, qua một đứa em h́nh sự tôi nhờ bàn tay nữ giang hồ khét tiếng đất cảng là cô Dung Hà để lo chút đỉnh cho cô gái bé nhỏ ấy. Được biết là Dung Hà có lo lắng cho mẹ con cô này, trước khi được trả tự do và sau đó chết thảm trong một vụ thanh toán giang hồ với tổ chức xă hội đen Năm Cam ở Sài G̣n.

Giàn phong lan được các tù h́nh sự cắt gọt từ vách Núi Mành vốn treo la liệt khi chuẩn bị đón đoàn tù thứ hai ở A 20 ra trại 5 này, các đoàn “tham quan” cũng đă hai ba lần vào ra xem xét. Tôi ngứa mắt bèn đào hố và xuống khu chăn nuôi heo gánh phân chuồng (đă rất hoai / phân hủy). Mấy tay an ninh trại cũng đành chịu vơí quyết định ương bướng của tôi. Tay quản giáo tên Nghị phàn nàn vơí tôi “Anh thật quá quắt! Giàn phong lan như thế anh cho mướp đắng vơí bầu leo lên th́ c̣n ǵ là phong lan?”. Tôi trả lời nhă nhặng nhưng không kém cứng rắn:
- Chúng tôi cần sống! Tất cả những thứ anh em tôi trồng ngoài đội đều bị ăn cắp hết! Giờ tôi làm thế này, lan sống đươc th́ càng đẹp, không sống được th́ để chúng tôi sống!

Quản giáo Nghị ừ hử một vài câu rồi bỏ đi.

Giàn phong lan hai tháng sau thành giàn bầu bí và khổ qua dày đăc, trái ra cơ man nào là trái. Nhóm chúng tôi kéo chiếu xuống giàn mướp đắng. Không gian này vơí tôi thành chồng chất biết bao kỷ niệm.

Một lần Đỗ Bạch Thố tỏ ư muốn làm lễ giỗ cho ông Hoàng cơ Minh và anh em đă chết trong cuộc xâm nhập từ Thái năm 1987 (“Đông Tiến” 2). Đó là tuần lễ cuối cùng của tháng 8 năm 1996. Tôi nh́n Thố, nhẹ giọng.
- Cùm đấy bồ tèo!

Thố cười khoe đôi hàm răng đă bị đánh gẫy hơn nửa.
- Cùm th́ cùm chớ ngại ǵ! Anh em họ cũng cần chút hương khói…

Mâm cơm cúng có một con gà luộc vàng lườm, có xôi trắng của Quang cho gạo, hai đĩa muối. Thố kêu tôi chủ lễ nhưng tôi từ chối.
- Ở đây chỉ ông có đủ tư cách chủ lễ!

Anh em về từ Thái có B́nh là nhóm Đông Tiến 1 nhưng v́ khi ở A 20 B́nh có thời gian làm đội trưởng mội đội làm gạch, lại có một số vấn đề lớn c̣n khúc mắc trong giai đoạn xâm nhập cùng đoàn ông đại tá Dương văn Tư … nên chỉ có Vơ Kỳ Phát và Đỗ bạch Thố là hai người của đoàn xâm nhập 1987 đang có mặt tại khu cách ly chính trị trại 5.

Nhóm Đông Tiến 3 ở khu nhà 1A (nhóm Trần quang Đô tức Đào bá Kế), mấy đứa em làm cách nào đó tôi không biết, chuyển được cho Thố chừng gần một xị rượu đế (cỡ 200ml).

Các đầu vụ đang có mặt tại khu cách ly đều biết giờ làm giỗ, hầu hết đều có mặt, chiếc cốc nhựa đựng cát sạch dùng để cặm chân nhang (do h́nh sự Nguyễn văn Linh t́m nhang bên khu nữ) khi tàn, tôi đếm là 22 gốc nhang.

Anh em từng người bái nhang, lâm râm khấn vái, ḷng biết chắc là hôm sau sẽ to chuyện.

Ngày hôm sau Thiếu tá Lâm an ninh trại ra lệnh tập trung toàn bộ tù ra từ A 20, lên hội trường họp.

Buổi họp được gọi là buổi kiểm xét đột xuất và sự việc cúng giỗ ông Hoàng cơ Minh và đoàn quân xâm nhập từ Thái Lan 1987 đươc ông Lâm lên lớp tuyên giáo. Tôi yên lặng quan sát thái độ từng người v́ biết chắc ông ta sẽ gọi một số người tiêu biểu (đă có ư quy thuận quyền lực nhà tù). Trù liệu của tôi xảy ra đúng y x́. Ông Phạm đức Khâm, ông Michel Nguyễn Muôn bị mời đích danh phát biểu. Khá bất ngờ là cả hai ông đều nói rằng việc đó là việc đạo nghĩa cá nhân của mỗi người, các ông không ư kiến. Tất cả những người cứng rắn đều ở tư thế chuẩn bị phát biểu, không khí bắt đầu căng thẳng...

Có lẽ chỉ muốn cho xong việc v́ đây là thừa lệnh của cấp trên, nên thiếu tá Lâm sớm nói lời kết thúc. Khi nói lời kết thúc, miệng ông có khuynh hướng ḍm vào chiếc túi áo ông ta… và tôi hiểu là ông ta nói cốt cho cái micro đang ẩn trong ấy nghe rơ.

Tôi nh́n anh Bàn. Anh Bàn chớp mắt nhẹ lắc đầu. Nh́n qua Trung, Trung đưa mắt sang anh Bàn. Tôi hiểu là không nên dồn Lâm vào đường bí nên im lặng không phát biểu.

Buổi họp kiểm xét xong, về buồng, hai sĩ quan cai tù vào tận chỗ Thố đề nghị Thố đi làm việc. Buổi chiều, mấy người h́nh sự được lệnh gói hết đồ đạc của Thố niêm phong lại và cho đem vào khu cùm duy nhất một chiếc chiếu đơn đă rách tơi hẳn một góc.

Đợt cùm này khởi đầu cho nguyên một mùa cùm của chúng tôi, Đỗ Bạch Thố, Nguyễn văn Trung lai, Trương văn Sương, Phạm văn Thành, Phạm Anh Dũng, Nguyễn Ngọc Đăng, Vũ Đ́nh Thụy, Hoàng Xuân Chinh và người tù Fulro luôn có ánh nh́n căm thù tất cả mọi dạng người Kinh. Mùa gặt cùm này tôi bị kéo dài 7 tháng cùng với cái chết cô độc của Kstum!

* * *

V́ sự nhạy cảm của đội tù chính trị miền Nam đang có măt tại trại Lam Sơn, nhà tù phải cho các đội h́nh sự đánh xe ḅ để chở đá lớn từ ngoài trại, đem vào tận khu cách ly để tù chính trị lao động đập thành đá rải đường cung cấp cho bên công lộ.

Các anh tù miền Nam ra từ A 20 chuẩn bị chỗ ngồi đập đá của mỗi người thành như những bộ ghế dành cho các sơn vương xa xưa thường ngồi ngự. Thái độ bất cần quyền lực của kẻ cầm quyền thể hiện rất rơ ràng. Phiá giám thị cũng chỉ coi việc đập đá của nhóm tù miền nam là việc h́nh thức để giữ thể diện nên không có chuyện gay gắt bắt phải chỉ tiêu này chỉ tiêu kia...

Thời gian này có một sự lạ, đó là sự xuất hiện của một ông quản giáo đă đứng tuổi thay cho Nghị. Nghi là thiếu tá, tuổi ngang với tuổi tôi (sanh khoảng 1960). Người quản giáo đứng tuổi cư xử rất nhẹ nhàng với nhóm tù miền Nam. Điều lạ là ông ta gọi khoảng một nửa số tù từ miền Nam đang có măt tại trại 5 Lam Sơn. Từng người một để “làm việc”. Ông ta kê hai cái ghế ở góc một khoảng đất mà anh em đang trồng rau. Nội dung các câu hỏi xoáy quanh lư do “phạm tộ” của người được hỏi. Thời gian xảy ra vụ án và số người bị lĩnh án. Các anh đa phần sau khi “làm việc” đều thông báo chi tiết các nội dung cho tôi qua hai cầu nối là anh Bùi thúc Nhu và anh Trần Nam Phương. Nhóm tham mưu gồm Hoàng xuân Chinh, Trần minh Tuấn,Trần nam Phương, Nguyễn văn Trung, Nguyễn văn Bảo, Phan văn Bàn, Dương văn Sĩ, Lê thiện Quang, Lê ngọc Vàng, Phạm anh Dũng và tôi mỗi 4 ngày đều có một buổi trưa bàn thảo từng câu hỏi đă được đặt ra. Sau hai tuần, chúng tôi đều chung một nhận định rằng sự kiện tù A 20 là một sự kiện đă gây sự ngạc nhiên lớn lao cho tầng lớp quân cán chính tại toàn vùng Thanh Hoá. Ông Nguyễn văn Bảo nói.

- Ngựa đă sang sông! Ít nhất chúng ta đă làm được một nhiệm vụ. Đó là đánh tiếng cồng tranh đấu vang vọng vào tâm trí đồng bào của chúng ta ngay nơi vùng đất đă đẻ ra chế độ! Người có ư thức của miền bắc sẽ được hiểu là cuộc tranh đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản chưa bao giờ dừng lại tại miền nam, dù đă phải trả những cái giá cực kỳ thảm khốc!

Ông Bảo là người nhỏ con nhất trong đoàn tù từ nam ra bắc năm 1995. Thân ḿnh nhỏ nhưng cái đầu của vị giáo sư trung học VNCH này là cực kỳ cứng rắn và sắc bén.

Người quản giáo đứng tuổi đến với đội tù A 20 được chừng hơn một tháng th́ xảy ra chuyện.

Hôm ấy tôi và Nguyễn văn Trung đi cùng người quản giáo này để mượn hai tấm ky khênh đá (bện bằng tre nứa đă đập dập luồn vào hai đ̣n cáng, dùng để hai người khênh đất hoặc đá cho xây dựng hoăc đào ao). Ky là mượn của đội “quá đà” - tức đội của Đào bá Kế. Không biết Trung đi lấy ky thế nào mà tên quản giáo của đội Đào bá Kế văng tục gián tiếp với Trung. Y đối đáp với viên quản giáo của đội chúng tôi đại khái là “ĐM, giă nhừ chúng nó ra, viêc đ... ǵ phải nhân nhượng”! Trung vác tấm ky lên chỗ tôi và mấy anh em đứng đợi, mặt tái đi. Trung là người mang hai ḍng máu Pháp Việt, cao mét tám da trắng mũi cao đặc thù. Làn da trắng này khi giận là biến thành như xanh tái. Tôi đến gần ư muốn hỏi chuyện ǵ. Anh nói ngay.
- Không xong rồi! Thà là nó nói hẳn sau lưng ḿnh! Chứ nó nói cố ư cho ḿnh nghe … th́ không xong!

Tôi đỡ một đầu tấm ky, nói với Trung.
- Ra đội đă anh Trung! Ǵ cũng phải bàn bạc nhau cái đă …

Từ b́a trại ra đến khu vực đội làm rau tự túc của nhóm tù từ nam ra trại 5 chỉ chừng 15 phút. Đội nằm bên một cái ao rộng, có ba bốn cây mít cổ thụ gốc hàng hai người ôm. Bờ giếng sạch và nước rất trong mát. Một hàng dừa khoảng 30 cây chạy chung quanh bờ ao sát vời cánh đồng cấy lúa quanh năm, được dẫn nước từ con đập mà tù đă đắp suốt nhiều năm để ngăn chuyển ḍng nước sông Cầu Chày.

Bên những gốc dừa vừa được kê đá thành các chỗ ngồi để đập đá lớn thành đá dăm nhỏ. Quyết định đ̣i phải có sự đối mặt vơí quản giáo đội “quá đà” để hỏi rơ nội dung câu nói “gĩa nhừ” là nhắm vào ai? Nếu là nhắm vào đội tù từ A 20 th́ nguyên cớ từ đâu?
- Nó là đ̣n nắn gân! Ta không phản ứng th́ trưóc sau chúng cũng sẽ xếp ta ngang hàng với bên đội “quá đà”, tức là chúng mặc nhiên coi chúng ta là “phỉ”. Hoạt động phỉ!

Chinh nói dơng dạc và Tuấn đóng đinh đề tài bàn luận.
- Ngay sau đây, anh Vàng đại diện đội nói rơ ràng ư kiến của anh em với quản giáo, rằng chúng ta không chấp nhận câu nói ấy của một quản giáo nhà trại. Chúng ta cần sự minh bạch của câu nói đó! Để tỏ thái độ, bắt đầu từ chiều nay chúng ta sẽ phản đối việc lao động cưỡng bức. Đồng loạt không đi làm!

Vàng nh́n một lượt, thấy sắc mặt mọi người đều đanh lại hoăc cười nửa miệng, anh biết là không thể bàn lùi được. Vàng xoay người, đập đập chiếc mũ vải trên tay bước đi về phiá nhà lô (tức là nhà trực của quản giáo và bảo vệ vũ trang của mỗi đội tù).

Chừng 10 phút sau, người quản giáo đứng tuổi xuống tận gốc dừa nơi anh em đang ngồi uông trà. Ông muốn câu chuyện được chấm hết ở đây và ông nhấn mạnh rằng câu nói đó chỉ là một sự ngộ nhận. Nửa giờ đồng hồ nói chuyện qua lại, hai bên không có được điểm đồng thuận. Đội giữ nguyên quyết định chiều sẽ không xuất trại lao động.

Buổi trưa, một cuộc bàn thảo diễn ra dưới giàn khổ qua, quyết định sẽ xếp hàng trong sân khu cách ly. Đúng khi quản giáo và trực trại mở cổng để xuất khu, một ngướ sẽ đứng ra xác định thái độ bất tuân quyền lực nhà trại về việc lao động để bày tỏ sự phản đối thái độ của quản giáo đội “quá đà”. Yêu cầu tiến hành cuộc đối mặt công khai giữa đội tù từ A 20 và quản giáo đội quá đà! Người đứng ra xác định quan điểm ấy là tôi.

13 giờ, dưới cái nắng gay gắt. Khi quản giáo và quản chế vũ trang mở cổng, không khí khác thường thấy rơ. Bên cạnh viên quản giáo là hai người thượng tá phó giám thị. Quản chế súng dài bốn hay năm người đứng chắn ngang ngoài cổng khu. Đội đứng im sau khi anh Vàng báo danh số người hiện diện. Tôi tách hàng hai mét. Nói đủ lớn để tất cả mọi người đủ nghe từng câu từng chữ. Nội dung xác định việc bất đồng quan điểm đối vơí thái độ phát ngôn của viên đại úy quản giáo đội quá đà, đồng thời yêu cầu phải trực tiếp đối mặt với viên đại úy đó để làm rơ ràng về nội dung lời đă phát biểu!

Dứt lời, tôi bước ngang hẳn bốn mét rời khỏi hàng chính thức của đội và yêu cầu những anh em nào đồng ư vơí sự phát biểu phản đối lao động mà tôi vừa đại diện tŕnh bày, th́ bước hẳn sang hàng phiá trái (tức hàng tôi đang đứng), anh em nào không đồng ư vơí sự phát biểu của tôi th́ đứng nguyên hàng và xuất trại đi lao động b́nh thường.

Không khí đấu tranh quyết liệt hiện lên rất rơ ràng. Ba phần tư tách hàng đứng về phía bên trái. Viên phó giám thị mặt lạnh như tiền, bảo những anh em đồng ư xuất trại lao động xuất cổng. Cổng đóng lại sau khi các anh em đồng ư xuất trại bước hết ra sân ngoài.

Những người giám thị và quản giáo, trực trại, an ninh, giáo dục … không ai nói ǵ, quay đấu hướng về lầu giám thị. Anh em vừa tách hàng đứng ra bên trái tách nhanh, ai về tụm ấy. Ai cũng hiểu cái giá sẽ giáng xuống anh em sẽ xảy ra trong vài giờ tới.

15 h Hoàng xuân Chinh bị mời ra lầu giám thị làm việc.
16 h Vũ đ́nh Thụy được mời đi.
17h30 Nhóm tù h́nh sự được lệnh gói tư trang của anh Thụy và anh Chinh niêm phong.
18h30 BÁO ĐIỂM DANH NHẬP BUỒNG. THỤY VÀ CHINH KHÔNG THẤY ÁP GIẢI VÀO KHU CÙM. Nghĩa là đi đâu không biết!

Không khí có vẻ khó thở, v́ bản thân chúng tôi không có ai biết rành rẽ từng phân trại ở đây, chỉ mơ hồ nghe về Khu C, được gọi là K Chết, tức là khu trại gốc của thời Lư Bá Sơ, nằm hẳn sát vào b́a núi phía sau hẳn hai cánh đồng mà đội chúng tôi hằng ngày đập đá bên cạnh.

Buổi tổi tôi trao đồi với anh Dũng.
- Trận này sẽ rất căng. Ta cần người không bị dính ǵ đến qui chế kỷ luật để thông tin ra bên ngoài nên anh cần phải đối lập vơí em …

Dũng gật đầu, bảo anh biết rồi!
Quay sang Thố, tôi định nhờ Thố chuẩn bị một túi cói cho tôi, trong đó có những thứ thiết thân là bàn chải đánh răng và thuốc phong thấp. Tôi chưa nói th́ Thố đă bảo “xong hết rồi”. Thố vừa ra buồng cùm sau 2 lệnh, người như một con cá cơm khô đét!

2. Tháng 11 trời đất Bắc đă rét ngọt, tôi bước ra sân điểm danh với hai bộ quần áo trại mặc chồng lên nhau, dự pḥng khi họ đưa vào buồng cùm th́ với hai lớp quần áo, dù là áo trại mỏng lét, vẫn c̣n hơn là một bộ sơ sài.

Giờ điểm danh 6h sáng không khí trĩu nặng. Màn sương mù làm mọi thứ như càng trĩu nặng hơn. Việc hôm qua họ đưa Chinh và Thụy đi biệt tích là một sự việc nằm ngoài trù liệu của tất cả chúng tôi. Với suy nghĩ rằng họ rất ngại phân tán chúng tôi ra các trại hoặc phân trại khác, v́ sợ dân chúng chung quanh sẽ ngày càng biết về sự hiện diện của đoàn tù miền Nam chúng tôi, vốn dĩ chính là h́nh ảnh phản kháng quyết liệt của miền nam đối vơí điều mà họ thường rêu rao là thống nhất bắc nam trong hạnh phúc và mơ ước của dân chúng miền nam. Điều này, trong tất cả những cuộc thăm gặp thân nhân, những buổi áp giải ra đội lao động và qua sự nghiêm ngặt cấm triệt để mọi h́nh thức tiếp xúc của các tù nhân h́nh sự khác… cho chúng tôi hiểu rơ sự sợ hăi này của họ.

Việc « ông » quản giáo đứng tuổi được đưa vào quản đội, mà qua chỉ một vài câu hỏi với quản giáo Nghị cùng sĩ quan an ninh, giáo dục … chúng tôi hiểu ngay được là một sự việc bất thường. Thứ nhất là vị ấy đă cao tuổi. Thứ hai là thái độ nhă nhặn đăc biệt và thứ ba la thái độ khoảng cách đăc biệt của những sĩ quan cấp tá vừa lên bậc (tuổi ngang ngửa với tôi đang nắm an ninh, giáo dục, trực trại, quản giáo … của trại này). Khoảng cách ấy cho chúng tôi hiểu là người quản giáo già KHÔNG PHẢI NGƯỜI CỦA TRẠI NÀY.

Thái độ hỏi han, t́nh tiết hỏi han của ông ta lại càng chứng tỏ không phải là của công an quản giáo chuyên nghiệp. Quản giáo chuyên nghiệp họ biết rơ họ được hỏi người tù chính trị về những điều ǵ và những phạm trù nào họ không được đụng đến hoặc tránh hẳn không muốn đụng đến.

Bằng cách dọ hỏi gián tiếp thêm qua 8 đưá h́nh sự ở chung (đều là nhân lực được gởi gấm của đội ngũ giám thị) chúng tôi lại được biết vị quản giáo này MÀY TAO với giám thị trưởng Phạm Ninh. Với tôi thế là đáp án đă được mở, khi liên hệ lại hành trạng khác thường của giám thị Ninh lúc tôi mới đến trại.

Lần gặp gỡ bất thường ấy chỉ có tôi và ông ta trong khu cách ly (điều này hoàn toàn không b́nh thường và trái nguyên tắc, v́ theo thông lệ, luôn luôn có hai sĩ quan bảo vệ đi kèm giám thị trưởng khi giám thị trưởng bước vào không gian sinh hoạt của phạm nhân, nhất là là những phạm nhân được đánh giá là đăc biệt nguy hiểm).

Lần ấy sau khi ông nhắc đến việc ông từng có mặt tại chiến trường Khe Sanh và An Lộc thời 1967 / 75 ông trầm giọng nói vơí tôi câu nói đặc biệt « Tôi xuất thân là một người lính và đến chết vẫn là một người lính. Hăy nh́n tôi là một người lính ». Lần ấy ông kín đáo ghi âm trọn vẹn buổi nói chuyện đă diễn ra. Tại sao ông đă phải gặp tôi như vậy thay v́ gặp ngoài nhà làm việc (mà các pḥng đều có hệ thống ghi âm)?

Những câu trao đổi qua lại cũng nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của một giám thị trưởng. Những câu hỏi đều dẫn đến mục đích để biết tận tường rằng tôi có thật sự là Phạm văn Thành hay không, với những t́nh tiết nhân thân đăc biệt mà nếu không đúng là tôi (với giai đoạn tuổi thơ đăc biệt), sẽ không ai trả lời được.

Qua những câu hỏi đó, tôi hiểu được là phiá giám thị Ninh đă có những thông tin riêng về hoàn cảnh gia đ́nh của tôi mà chắc chắn đă phải có người tiếp xúc đến tận làng quê của tôi, với những thân nhân c̣n sót lại và với cả những đứa bạn thân tôi thủa niên thiếu. Những đứa bạn tôi đă bằng mọi cách dấu biệt các sự liên hệ khi quyết định lao vào cuộc chơi sinh tử với nhà cầm quyền cộng sản. Những sự điều tra về nhân thân, chắc chắn phiá an ninh chính trị điều tra bên A15, A16 và A24 đă làm chi tiết, nhưng phiá V26 th́ chắc chắn không thể có được những t́nh tiết ấy nếu không có một « đường chuyển » đặc biệt.

Những điều vị quản giáo già quan tâm ḍ hỏi các anh của những vụ trọng án đang sống trong khu cách ly đều xoáy vào một chủ đích: T́m ra nguyên nhân, thời gian và nhân lực đă tiến hành các vụ bạo kháng. Điều này nằm ngoài hẳn chức năng và quyền hạn của một quản giáo trại tù. Tất cả các câu hỏi đều được hỏi giữa … vườn rau, nơi không thể có một thiết bị nghe nh́n nào có thể cài cắm!

Điểm danh được chừng 30 phút, Trần minh Tuấn marathon đụng đầu tôi ṿng thứ nhất, nói vừa đủ tôi nghe: « Đợt này anh đi một ḿnh, tôi ở ngoài … ». Lời nói ngắn cụt ngủn nhưng đủ để tôi hiểu rằng Tuấn e ngại việc thông tin không ra khỏi trại được nên quyết định ở ṿng ngoài cốt để t́m cách chẻ thông tin về cho gia đ́nh, thân nhân. Một cảm giác ngậm ngùi lan tỏa trong tôi, v́ tôi biết, sở trường này không phải của các anh, nơi xứ sở hoàn toàn lạ lẫm và cô độc này. Chọn lựa của Tuấn chắc chắn phải là một chọn lựa không hề dễ dàng, khi hầu hết những người đứng tách hàng hôm qua đều là những người đă từng sát cánh với anh trong tất cả những cuộc « hành tŕnh cùm kẹp », từ ngày có vụ làm tờ báo Hợp Đoàn của A20 do ông Vũ Ánh khởi xướng thời thập niên 1980. Sáng hôm qua, khi anh đứng nguyên bên “hàng thuần phục” chờ xuất trại, tinh mắt sẽ nhận thấy hai đầu gối của anh có những lúc như run rẩy. Trạng thái này không qua mắt được Hoàng xuân Chinh, vốn xuất thân từ một gia đ́nh chuyên bắt mạch, bốc và sắc thuốc Nam.

Tôi bước Marathon ṿng thứ ba th́ ông Sơn chặn tôi lại. Ông Lê văn Sơn đă gần 70, là một nhân sĩ Phật Giáo Ḥa Hảo. Ông hỏi ngay.
- Liệu chịu được không Thành? Chắc chắn sẽ rất lâu đấy!

Tôi đáp là tôi nghĩ đủ sức chịu đựng. Ông cầm lấy bàn tay tôi bảo x̣e ra rồi đặt vào vỉ thuốc Bi Profenid. Vỉ thuốc tôi mới chia ra đưa cho ông hai tuần trước, khi thấy đầu gối của ông sưng to không đi được. Vỉ thuốc c̣n 8 viên, nghĩa là ông uống thấy bớt đau nên giữ lại để dành. Tôi cau mày nói với ông là uống thuốc như vậy không hạ đau được bao lâu. Thuốc tôi đưa là để ông uống 7 ngày liên tiếp. Đây là thuốc tôi phải nhịn nhục nài nỉ họ (giám thị trại tù) mới chịu đưa. Họ cũng biết là tôi lấy để chia cho anh em chứ chẳng phải giữ cho riêng ḿnh làm ǵ. Tôi nói ông Sơn nhận lại mà ông nhất định không nhận. Tôi đổ quạu sau khi nói rằng tôi vẫn c̣n đủ cho tôi. Tôi nói.
- Họ không thể để em chết! Anh phải biết là như vậy! Các anh có thể chết nhưng em họ không thể để cho em chết!

Thấy tôi quạu, ông Sơn băn lẽn cầm vỉ thuốc nhét vào túi chiếc áo nâu đà đă bạc phếch. Đôi mắt già nua chớp chớp nh́n lên trời …
7h đội xếp hàng chờ xuất cổng. Vẫn hai hàng cách biệt. 2 phía 2 thái độ chống đối và an phận đă hiển lộ tỏ tường.

Cổng khu cách ly mở. Tiếng sợi dây xích vừa được bổ xung thêm đêm qua được cố ư kéo qua các thanh sắt nghe rất khó chịu. Khoảng 6 người bước ra cổng, trong đó có Lê ngọc Vàng là đội trưởng và sát ngay Vàng là Trần minh Tuấn. Mặt Tuấn lạnh lùng không cảm xúc.
Cổng đóng lại với những ṿng xích sáng loáng.

Khoảng 9h Trương văn Sương được gọi đi làm việc. Anh đi ra khỏi cổng, giọng cười ặc ặc cố hữu khi bước ngang cửa buồng tôi. Anh đi chân đất, tướng pháp lềnh khênh với mái tóc muối tiêu hớt carré cứng cỏi.

Khoảng 10 h, tư trang của anh Sương được niêm phong. An ninh và hai người thi đua (5) áp giải anh vào khu cùm cuối trại, sát phần chuồng heo và nhà bếp, ngăn cách với nhà 4 nữ, kế cận « giếng tiên » (6) .

Khoảng hơn 10 h, Nguyễn văn Trung (Trung lai) được mời đi ra lầu giám thị. Trung đi rồi tôi nói với cư sĩ Trần nam Phương: "Ta tiến hành chuyện bộ ḷng thôi!". Phương thảng thốt nh́n tôi, ư như không muốn nghe rơ. Tôi lập lại lần thứ hai: "Ta chuẩn bị thôi anh!". Phương ngần ngừ, hai tay xoắn xoắn vào nhau. Tôi cứng giọng, từng tiếng một "Em có làm sao sẽ đều là do khâu sát trùng…". Phương ù ừ rồi đi nhanh ra phiá sau, nơi gốc mướp có anh Phan văn Bàn đang quạt bếp than nấu trà.

Việc này chúng tôi đă bàn rất kỹ. Anh Kim Long đă chỉ dẫn tôi rất chi tiết thủ thuật rạch bụng moi ruột ra mà không chết. Con dao làm từ chiếc liềm cụt nhặt ngoài đội đă đưọc anh Bàn đàn qua lửa than đá thành một ngọn dao lá cực sắc và cất dấu ở đâu đó. Nơi tôi mổ bụng sẽ là chỗ nằm của tôi, sát bên chỗ nằm của tu sĩ Mai đắc Chương và Trần nam Phương. Điều kiện thiết yếu là nền đá phải cực sạch. Đ́ều này Phương phải chịu trách nhiệm. Lần thử sau cùng bằng mực hạt mồng tơi, tôi đă làm rất nhanh và chính xác. Lần ấy anh Long nói.

- Đây là việc đối đế mà chỉ có Thành làm được. Anh em nội địa mà làm th́ chúng sẽ để cho chết luôn. Chúng sẽ không tận lực đưa đi bệnh viện khẩn cấp. Từ đây ra bệnh xá Sao Vàng chừng nửa tiếng. Đến đó được là sống. Từ đó chúng sẽ đưa ra bệnh viện huyện Thiệu Yên rồi sau đó ra Thanh Hoá. Điều cần yếu là phải giữ thật sạch bộ ḷng của Thành!

Lần thực tập « giả đ̣» đó, anh Bảo là người phản đối. Anh vốn người hiền lành nhân đức, từ bé đến già chưa từng chặt chân hay cắt tiết một con gà. Anh nói.
- Mấy cha bạo lực quá! Anh không đồng ư đâu!..

Anh Long nói rất cứng: « Tôi bảo đảm hắn không chết! Một là hắn rất tỉnh táo, không run tay. Hai là …tử vi hắn c̣n sống lâu »!
- Chuyện tử vi th́ anh không bàn. Nhưng chuyện máu me th́ anh không muốn! Rồi c̣n thày Chương nữa. Máu me lênh láng ra chỗ ổng nằm, ám ảnh người ta suốt đời…
- Tôi là tôi không chịu! Nhất lại là máu anh em ḿnh!

Anh Bảo kết câu chuyện bằng thái độ vùng vằng rồi bỏ đi, ra tận góc thật khuất của mấy luống khoai môn Tuấn trồng, ngồi một ḿnh.

Anh em ba người tiếp tục bàn thực hiện ư định c̣n Trần nam Phương, anh Long và tôi. Phương nhặt được một chiếc liềm cụt -dấu trong háng- mang được vào buồng đưa anh Bàn, bảo anh Bàn lấy nó làm con dao thật bén v́ Thành nó cần. Việc này anh Bàn chỉ biết đến vậy. Con dao cũng được dấu riêng biệt và hàng tuần được Phương nhắc để anh Bàn kín đáo đem ra nướng than lại. Một cái chậu nhôm cũ đă được Phương mua lại của ai đó rồi đánh cát đánh tro cực kỳ cẩn thận treo trên giàn mướp. Có mấy lần anh Sương lấy chậu ấy đựng rau, bị anh Phương la như tát nước! Chả ai hiểu cái chậu ấy có điều ǵ quái gở mà Phương không cho bất kỳ ai đụng đến, thậm chí cả anh Bàn. Chỗ nằm của tôi bên thày Chương và anh Phương được Phương nhúng nước sạch lau bóng mỗi buổi trưa. Thày Chương thấy lạ mấy ngày đầu nhưng rồi cũng quen đi …

Giờ là lúc thực hiện. Phương bần thần xách nước vào chỗ nằm của tôi, lau rửa cực kỳ cẩn thận. Cái chậu nhôm được mang vào. Thày Chương ngồi trên vơng, tay cầm cỗ tràng hạt …

Có tiếng gơ cổng sắt khá lớn, tôi nh́n ra không thấy cán bộ nào cả. Chỉ thấy ông Quư với Kiên h́nh sự đang đứng sát cổng. Ông Qúy ngoài 70, người Cao Đài, nguyên vơ sư, hay cầm đá đứng gần cổng sắt, gặp cán bộ đi ngang ông ném thẳng cánh. Đá chưa bao giờ trúng đích v́ các chấn song của sắt thường làm lệch mục tiêu.

Chừng 10 phút sau cổng khu cách ly mở. Kiên thoát ra ngoài. Cũng chừng 10 phút sau Huy giáo dục đi vào buồng tôi hai ba ṿng rồi đi ra. Huy ra rồi trực trại vào hỏi tôi ở đâu. Tôi đang ngồi chiếu sau hè với anh Long.

Huy yêu cầu tôi ra ngoài nhà cơ quan làm việc. Lúc này đă gần trưa. Việc này bất thường. Khi tôi ra khỏi cổng khu cũng là lúc Trung được dẫn vào sân trại, men theo tường bên khu nữ để vào nhà cùm. H́nh như họ cố ư cho tôi nh́n thấy Trung bước hẳn vào nhà cùm.

Tôi được dẫn lên lầu trực trại thay v́ ra ngoài khu nhà cơ quan. Thiếu tá Hùng ngồi chờ tôi sẵn. Đây là trưởng giáo dục toàn phân trại, đồng cấp với một người cũng tên Hùng nhưng mang họ Lê Khả. Lê Khả Hùng cao ráo trắng trẻo mặt sáng, khác với ông Hùng này, xạm đen và lời nói thoát ra từ hai hàm răng lúc nào cũng như muốn khít chặt.

Hùng kêu tôi ngồi ghế đối diện. Mặt Hùng như phảng phất một làn sát khí. Tôi ngồi xuống ghế, ḷng nghĩ thầm "rơ thật là dở hơi ".

Hùng chằc hơn tôi một hai tuổi, thái độ của người lúc nào cũng thấy ḿnh là quan trọng. Kiểu cách nói luôn như muốn lên gân để chứng tỏ quan điểm và vị trí. Ông hỏi ngay khi tôi đă ngồi hẳn xuống ghế.
- Nghe chừng như là anh lại muốn làm loạn?

Tôi khá ngạc nhiên, không nghĩ là ḿnh sẽ phải nghe câu hỏi này với thái độ này. Với tôi, Hùng không là ǵ cả. Ở trại này tôi chỉ nể giám thị trưởng Phạm Ninh. Nể không phải v́ tài cán hay quyền lực mà nể v́ cái tính lính tráng của ông ta. Từ ngày vào trại, tôi biết rất rơ ngay đến giám thị cũng không có quyền hạch sách điều tra tôi, v́ tất cả các cuộc "làm việc" từ ngày tôi ra đây, toàn do từ “trung uơng” về làm, và người khét lẹt nhất là đại tá mật vụ La văn Tiếp, khi làm việc cùng tôi cũng không dấu được nét e ngại. Vậy hà cớ ǵ ông thiếu tá này xử dụng thái độ quyền lực với tôi, một thái độ mà cánh trung ương đă có kinh nghiệm và hiểu rất rơ sẽ là vô giá trị đối với tôi, từ ngày c̣n ở A20 Xuân Phước!

Tôi b́nh tĩnh nh́n thẳng vào mắt Hùng. Ông ta cường liệt đối mắt lại. Trong vài giây như vậy, tôi hiểu được là ông ta thực sự đang nghĩ ḿnh là người mang chính nghĩa. Đây là đởm lược chỉ những người đang nghĩ ḿnh đích thực là chính nghĩa mới mang được tia mắt ấy. Tôi nhẹ giọng.
- Ông nghĩ thế nào là làm loạn?

- Chúng tôi nuôi các anh không thiếu thứ ǵ. Ở đây các anh có tất cả. Các anh c̣n đ̣i ǵ nữa?

- Danh dự! Các ông có thể tước đoạt quyền tự do của chúng tôi nhưng các ông không tước đoạt danh dự chúng tôi được nếu chúng tôi cương quyết ǵn giữ! Chúng tôi cũng không cần các ông nuôi. Các ông không hiểu ǵ về công pháp quốc tế về quyền dân chủ chính trị nên các ông bắt bừa chúng tôi vào tù …

- Anh biết thế nào là dân chủ? - Hùng ngắt lời tôi, sẵng giọng, lưng hơi dựng thẳng lên thoát khỏi lưng ghế.

Tôi cố giữ giọng nhẹ nhàng.
- Dân chủ là người dân có quyền nói lên tiếng nói của họ. Người làm chính quyền nếu không được ḷng dân, phải bị băi nhiệm …
- Các anh nói các anh có thể băi nhiệm được chúng tôi à? Anh điên khùng hay ảo tưởng? Dân ở Việt Nam đều là của chúng tôi. Tất cả đều cần chúng tôi... Các anh là một lũ ất ơ, tháo chạy ra khỏi nước rồi giờ về đ̣i chúng tôi chia quyền. Đừng mơ! Hiaz! Đừng mơ mộng hăo huyền …

Tôi thấy không thể nói chuyện tiếp tục với tay Thiếu tá này. Cái đầu này đă đóng đinh vào những giáo điều và càng nói, sẽ chỉ càng gây tức giận thêm cho cả hai người. Tôi quyết định chọn thái độ im lặng.

Ông Hùng nói khá nhiều về dân chủ và hai ba lần hỏi hằn học lại tôi rằng "…các anh nghĩ chúng tôi sẽ cho các anh chia quyền à …". Thấy tôi không phản ứng ǵ, cũng không lên tiếng phản bác, ông chuyển sang một câu hỏi khá « ngoài luồng ».
- Anh nghĩ thế nào về bác Hồ?

Tôi khá bất ngờ v́ câu chuyện bị quẹo cua quá gấp.

Dựa hẳn lưng vào ghế, tôi từ tốn đáp.
- Ông chắc có đọc Ngục Trung Nhật Kư?
- Đọc chứ sao lại không?
- Ông chắc hẳn có đọc Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện?
- Đọc! – Hùng có vẻ khó chịu khi tôi hỏi thay v́ trả lời. Ông dằn cốc nước trà trên mặt bàn gỗ lim bóng loáng. Tôi nh́n theo cái đà dằn của đáy cốc để t́m xem nội lực hàm chứa của Hùng đến đâu. Thấy cũng tầm thường nên tôi hỏi tiếp.

- Chắc cán bộ biết nhà văn Trần Dân Tiên?
- Biết!
- Chắc cụ Trần Dân Tiên có nhiều tác phẩm giá trị?
- Ừ, tôi nghĩ vậy!
- Cán bộ có biết bác Hồ có người con gái ở Pháp không?
- … Anh định láo toét với tôi đấy à?

Tôi vẫn b́nh tĩnh hỏi tiếp, chậm răi.
- Cán bộ có biết ông Hồ Học Lăm không?
- Không! Chỉ nghe qua thôi!
- Bác Hồ là một nhân vật lịch sử c̣n bị bao trùm bởi nhiều điều huyển bí …
- Các anh chỉ là những người ăn càn nói bậy! Các anh xúm nhau đi bôi bác bác Hồ, lại c̣n nhận ḿnh là người yêu nước. Nói tóm lại cho các anh hiểu nhá. Chỉ có bác Hồ là người yêu nước! Chỉ có bác Hồ mới có thẩm quyền nói đến bốn chữ “danh dự dân tộc”! C̣n th́ các anh nhá... Quên đi!

Tôi lại ngồi thinh lặng, mắt thỉnh thoảng nh́n thẳng vào mắt Hùng. Hùng không bao giờ né tránh ánh mắt tôi nên có thể nói hai người những năm sáu lần “đấu vơ mắt” với nhau. Lần nào tôi cũng là người làm hoà trước, nghĩa là hướng tia nh́n ra khỏi tầm sát phạt trực tiếp. Tôi không sợ, nhưng biết là thắng thua không ích ǵ, chỉ thử lửa với nhau để hiểu nhiệt tâm của của nhau đến đâu mà thôi.

Có tiếng mở cửa. Tôi không quay lại. Hùng đứng lên, khom người chào người mới vào. Tên ông là Vân. Hùng gọi là Ban Vân. Ông Vân mang hàm Thượng tá, người cao ngang ngửa tôi, tướng pháp sang cả, trắng hồng, không có bụng như đa phần đám thượng tá đại tá từ trung ương vào. Ông chào tôi rồi kéo ghế ngồi.

Ông Hùng hỏi lại câu nói ban năy.
- Anh định làm loạn nữa phải không?

Tôi đă thấy cần phải cứng rắn, nên nh́n trực diện vào con ngươi Hùng.
- Loạn hay không, tùy các ông thôi!

- Anh nghĩ là ở đây, trại 5 này … mà anh có thể đứng giữa sân quát tháo đ̣i tự do đ̣i nhân quyền cho các anh như ở Xuân Phước được à! Gô cổ anh lại ngay chứ lỵ …!

Tôi không nói ǵ, vẫn điềm nhiên bám sát con ngươi của Hùng, Hùng đứng lên, vung tay áo như làm cho dăn xương cốt. Ông Vân vẫn không nói ǵ.

Khoảng ba bốn phút sau lại có tiếng gơ cửa rồi tiếng Lâm an ninh bảo “đă xong rồi “!. Ông Vân đứng lên bước ra ngoài pḥng.

Lâm cầm tờ giấy có dấu đỏ nói với tôi.
- Anh Thành. Ban giám thị quyết định kỷ luật anh v́ lư do anh có ư đồ tổ chức gây rối loạn sinh hoạt trại. Giờ mời anh theo chúng tôi!

Tôi b́nh thản đứng lên, đẩy ghế lại dưới bàn và nh́n Hùng.
- Chào cán bộ!

Hùng chắc có phần ngạc nhiên v́ thái độ nhẹ nhàng của tôi, lại thấy tôi không hề có phản ứng ǵ khi biết ḿnh bị kỷ luật (nghĩa là bị cùm chân như giam một con mănh thú). Ông bật ra một câu gần như vô nghĩa “… con gái tôi nó học tiếng Pháp, năm nay là đầu trường đấy …”. Tôi bất chợt nghe chùng ḷng xuống. À th́ ra, đám đàn ông chúng ta đều có chung một cảm xúc, đó là đều rất thương yêu con gái ḿnh, thường là thương hơn những thằng con trai, lo lắng hơn, hănh diện cũng hơn … Ở Thiệu Yên Thanh hoá mà học tiếng Pháp, gần như là một điều ǵ đó có thể được hiểu là văn hoá văn minh, hơi khác với chỉ học Anh ngữ hoăc Hoa ngữ. Tôi nhẹ giọng.
- Vâng, con cái, nhất là con gái … chúng là cả cuộc đời của chúng ta!

Giọng tôi có lẽ có một thang âm bất thường nào đó nên trên khuôn mạnh luôn cố làm ra lạnh lùng quyền lực của người sĩ quan giáo dục bỗng thoáng hiện một nụ cười chất phác. Trong câu nói như khoe ban năy, có lẽ ông cũng hiểu là gần như sẽ không có cơ hội gặp và trao đổi đối thoại với tôi lần nữa, mà tôi lại là người ở xứ Pháp xa xôi lần về. Ông khoe con gái học tiếng Pháp, gần như là một sự vô t́nh, đối với một người từng ở Pháp nhiều năm... phản ứng như vậy là phản ứng của một con người rất người, c̣n cái gốc nhân bản từ trong vô thức …
Tại sao chúng ta lại là kẻ thù của nhau nhỉ?!

Tôi đi theo Lâm, ḷng miên man nghĩ về người nào đó là con gái của Hùng. Chắc phải là một thiếu nữ sang và đẹp. Bởi không, chắc sẽ không chọn ngôn ngữ Pháp làm hành tŕnh sự nghiệp ở cái xứ sở cực nhọc vốn đang bật dậy t́m cách thoát nghèo này …

Hai người tù thi đua và sĩ quan trực trại đi bên tôi qua hết chiều dài sân trung tâm (cỡ bằng một sân bóng) rồi vào khu cùm. Từ cổng của nhà cách ly, anh em lố nhố đứng đầy chiếc cổng hẹp, đưa tay vẫy vẫy. Tôi nhướng mắt nh́n vào trong nhà, các ô cửa sổ gần phía sân trung tâm dầy đặc những cái đầu của anh em ra từ A20 Xuân Phước. Tôi nắm hai tay kiểu chào của Việt Vơ Đạo lạy chào lại anh em. Cảm giác của tôi là sẽ phải xa các anh măi.

Khu cùm xây cao hẳn lên trên một bệ bê tông cao gần đầu người. Khoảng 10 buồng đều quay hướng bắc, nghĩa là nh́n cḥng chọc vào khu nhà 4 B Nữ. Bờ giếng rất rộng của khu nữ nằm chỉ cách “lầu cùm” khoảng 8 thước. Đám tù lưu cữu gọi cái giếng này là giếng tiên. V́ trại này, 1995 đổ về về trước, nam nữ hầu như tắm đều cởi truồng, v́ đa phần đều nghèo khó.

Bước vào hẳn khu cùm, Thiếu tá Lâm yêu cầu tôi đứng nghiêm để nghe đọc lệnh kỷ luật. Người kư lệnh kỷ luật là Thượng tá Vân (họ ǵ tôi đă quên rồi).

Lệnh đọc xong Lâm lùi ra ngoài khu cùm. Sĩ quan trực trại cùng hai tù thi đua kè tôi lên những bậc thang. Khi đă đứng hẳn trên thềm hành lang tôi đưa mắt nh́n toàn cảnh để nhận rơ vị trí của ḿnh. Mắt tôi đụng phải khoảng 10 tấm lưng trần đang ngồi xúm vào nhau quay lưng về phía tôi và người cán bộ. Họ đều không mặc quần áo và đang xối nước tắm, có những tấm lưng trắng hồng.

Trực trại dẫn tôi vào buồng số 5. Cánh cửa gỗ lim dày làm tôi có cảm giác dễ chịu khi liên tưởng lại tất cả các buồng cùm ở B34 và A20, vốn đều làm bằng sắt và gờ tường cũng là sắt thép. Âm thanh của sắt thép va đập mạnh gây rất khó chịu cho người cùm ở bên trong, vốn chỉ có một lỗ thông hơi chừng 15, 20 phân vuông.

Vào hẳn buồng, tù thi đua yêu cầu tôi lột hết quần áo. Hai ngướ nặn kỹ cả chim c̣ và nắn cả vào hạ môn. Tôi nói nhỏ "không có ǵ đâu mấy anh, bất ngờ thế sao mà chuẩn bị ǵ được…". Hai người, người nhỏ con tính t́nh láu cá rất liếng thoắng nhưng người to lớn th́ cư xử rất chừng mực với tôi.

Cuối cùng tôi được mang một bộ quần áo trại. Sàn bê tông không có chiếu. Một người tù thi đua chạy ṿng ra phiá sau tường hậu của khu cùm để đút đầu cây suốt dài khoảng 3 mét rưỡi chọc ngang qua bệ cùm bên trái để xuyên qua bệ cùm bên phải là chỗ tôi nằm. Người tù thi đua lớn con nâng tầm móng cùm cho chính xác với đầu cây suốt thép tṛn to khoảng gần nửa cổ tay rồi hô lớn “đóng vào “. Đầu cây suốt phi qua lỗ sắt của bệ cùm, xuyên qua được một cái cùm bên chân trái của tôi. Đầu suốt được rút lại một chút rồi bất ngờ thục mạnh lần thứ hai, lần này đầu suốt đâm qua khoen cùm chân thứ hai, chui tọt qua lỗ thép xuyên tường để tḥi đầu khoá ra bên ngoài hành lang. Tiêng suốt cùm xuyên qua các lỗ thép nghe gai người, tiện thể lấy mất của tôi một mảng da trắng ởn ở cổ chân phải. Tiếng người tù bự con la rất lớn “ĐM mày làm ăn kiểu ǵ thế …”. Phiá sau tường hậu không thấy đáp lại … tôi bảo không việc ǵ, dù rằng cú trượt cùm ấy làm tôi đau đớn muốn tái dại người đi.

Cùm được chốt lại. Khoá cùm được đóng bập từ bên ngoài. Cánh cửa gỗ lim ầm một tiếng mạnh sau khi người sĩ quan đại úy trực trại bước chân hẳn vào buồng cầm chiếc dùi cui điện gơ gơ vào cây suốt cùm vừa được thọc chui qua hai bức tường.

Bóng tối trần ngập, một mùi khai ùa vào khứu giác và tiếng muỗi bay hỗn độn. Phiá ngoài cửa, nối tiếp với âm thanh những đế giày và ch́a khoá của ba người đàn ông đi khuất là những tiếng í éo của bầy phụ nữ, những tiếng càu nhàu bảo kỳ cọ chỗ này găi chà chỗ kia, cả tiếng những bàn tay vỗ bèn bẹt trên da thịt và những tiếng cười ngặt nghẽo. Tôi ngồi cúi áp sát mặt vào thanh cùm, ánh sáng luồn từ đáy khe cửa hắt le lói vào nền buồng, mang theo cả những âm thanh của tiếng vỗ nước đặc thù chỉ phát ra từ một số điểm đặc thù của cơ thể người nữ. Những âm thanh mà chỉ có những người quen tắm sông tắm suối mới nghe nhận ra được! Tôi lẩm bẩm “ Bỏ mẹ con rồi “!

Khoảng 4 chiều tiếng cổng sắt khu cùm loảng xoảng mở rồi tiếng người trực trại tra ch́a khoá vào từng buồng cùm. Trong mấy giờ vừa qua tôi đă biết được Trung nhốt ở buồng số 1 đầu tiên, rồi đến một ngướ tù về từ Thái Lan trong nhóm ông Hoàng cơ Minh đợt xâm nhập thứ ba -Đông Tiến 3 - đợt xâm nhập mà tôi đặt vô vàn nghi vấn từ khi biết sự có mặt của họ tại trại này và trại Thanh Liệt Hà Nội. Buồng thứ ba là Trương văn Sương, buồng bốn trống và đến buống tôi, buồng 6 trống, buồng 7 có một h́nh sự nữ không cùm. Các buồng nói với nhau vô cùng khó nghe v́ trần cao kín mít chỉ có một lỗ gió rộng chừng 10 cm dài chừng 30 cm lấy gió vào từ phiá … chuồng heo sát khu bếp.

Các cửa buồng mở, mỗi buồng được tù thi đua đặt vào sàn cùm một nắm cơm và một chén nước (bằng nhựa). Khoảng 10 phút là xong công việc phát cơm như vậy cho tất cả các buồng. Tôi yên lặng không nói ǵ.

Đêm chập xuống, muỗi vô vàn là muỗi. Muỗi ở đây không hề hiền, chúng như những mũi tên, bay veo véo từ trên cao phóng phập xuống da thịt và cắm ngay đầu kim hút máu liền. Rất côn đồ thảo khấu. Tôi luôn tay đập muỗi mà chúng th́ như bọn thiêu thân, không buồn né khi bị đập. Đâu ra thứ muỗi lạ lùng! Chừng 1 giờ đồng hồ như vậy th́ chúng biến đi đâu mất hầu hết, chỉ c̣n lại mấy con vo ve như loại muỗi thường thấy. Nghĩ đến chiều chập tối ngày mai tôi rùng ḿnh ớn lạnh. Đèn vàng vọt đă sáng lên trong buồng mờ nhạt, bàn tay tôi hiện rơ đỏ loe màu máu!

5h30 sáng kẻng báo thức, cổng khu cùm mở, tất cả các cửa buồng lần lượt được mở ra, trực trại tḥ đầu vào sau khi tù nhân lên tiếng báo cáo hiện diện. Tôi im lặng ngồi (đương nhiên là duỗi thẳng chân) không lên tiếng. Trực trại hỏi tôi.
- Khoẻ chứ anh Thành?

Tôi đáp “cám ơn các ông “, không thêm tiếng nào nữa. Có lẽ người tù thi đua hiểu thâm ư của tôi nên nói giả lả ngay “Sao lại là các ông, anh Thành?“.

Thâm ư của tôi quả đúng là đă bị ngướ tù thi đua nhận sớm ra. Nguyên v́ các trại phiá bắc, tù nhân bất kỳ già trẻ lớn bé đều phải gọi cán bộ bằng ÔNG và xưng CON hoặc Cháu. Riêng với giám thị th́ phải gọi bằng BAN xưng con hoạc cháu. Tù ở Nam ra tuyệt đối không ai xưng hô kiểu này và việc tôi đáp bốn chữ “ cám ơn các ông “ là hành vi cố ư coi người sĩ quan trực trại cũng ngang hàng bằng vai với hai người tù thi đua đang đi mở các cửa buồng điểm danh.

Khoảng 10 sáng cổng khu cùm lại mở. Lách cách tiếng những bát cơm bằng nhựa va vào nhau. Các cửa buồng được mở, tù thi đua đưa chén nước và nắm cơm vào rồi khoá cửa lại, từng buồng luôn có sự giám sát của sĩ quan trực trại. Bàn tay người tù thi đua to con ngần ngừ khi đặt nắm cơm lên bệ xi măng sát ụ cùm của tôi. Nắm cơm mới đặt cạnh nắm cơm cũ. Bát nước th́ đă hết nước nên người tù thi đua đưa chén nước mới vào. Viên sĩ quan trực theo sát mọi hành vi của người tù tự giác mắt như tránh nh́n vào chố tôi đang ngồi duỗi thẳng đôi chân gắn với hai cổ cùm. Cửa đóng lại.

Buổi chiếu khoảng 4 giờ thủ tục đưa cơm lấy bát lại bắt đầu được lập lại. Bên gờ bệ cùm của tôi ba nắm cơm đă xếp bằng nhau. Chiều hôm nay tôi được đi đổ bô. Bô chẳng có phân nhưng tôi vẫn cầm đi ra. Chân đă có phần tê dại nên bước đi đă có vẻ chập choạng. Một tay lần theo tường để đi về phiá sau buồng cùm số 8 để đổ. Tôi đi chậm, tay cầm bô giơ ra bên phần đùi phải, cố ư cho mấy ô cửa sổ bên khu nữ nh́n rơ cảnh trạng “không mấy ǵ là đẹp đẽ“ này.

Đến sáng ngày cùm thứ ba th́ sĩ quan y sĩ vào buồng tôi, sau khi nắm cơm thứ 4 đă xếp ngay ngắn trước bệ cùm. Chiều qua tôi nghe loáng thoáng tiếng ngướ tù thi đua nói với ai đó, giọng rất khúm núm “ dạ … anh ấy không hề sờ vào. Cháu để sao th́ lần sau vẫn y như vậy …”.

Viên y sĩ đứng ngay đầu bệ cùm, hỏi tôi sao không ăn cơm. Tôi nói đă quen ăn cơm có mâm có bàn tử tế. Việc cho tù ăn như thế này là xúc phạm người tù. Dù là tù tội, chúng tôi vẫn là những con người VÀ LÀ NHỮNG CON NGƯỜI CHƯA MẤT NHÂN TÍNH. Tôi nói vừa đủ nghe, nhưng nói chậm từng câu từng chữ …

Cửa đóng lại. Chừng 15 phút sau có tiếng bàn gỗ được đem vào khu cùm. Tiếng ghế gỗ va chạm với thành tường xi măng. Tôi được sĩ quan trực mở cửa và người tù thi đua mở cùm, nhă nhặn nói với tôi rằng, bàn ăn của tôi đă có ở đầu tường khu cùm. Tôi chậm răi bước ra. Ngồi vào bàn. Trên bàn là một chén cơm (bằng nhựa dĩ nhiên) và một chén rau muống. Tôi ngồi ngay ngắn, đưa tay làm tín dấu công giáo rồi cầm đũa ăn ngon lành. Tôi đă rất đói. Viên sĩ quan trực trại gọi đội trưởng đội bếp đem ra hai cái ghế dựa, một cho ông ta ngồi ngoài sân chung hướng mặt vào cổng khu cùm, một cho người tù thi đua ngồi cạnh tôi chừng 4 mét, trong khu cùm cổng khoá.

Chừng 15 phút, không ai giục giă, nhưng tôi biết giấc này là giấc rất bộn bề của sĩ quan trực trại. Tôi đứng lên chậm răi đi về buồng cùm. Khi người sĩ quan vào kiểm tra chế độ cùm, tôi nói với ông ta rằng “ở đây tất cả chúng tôi đều là con người như mọi con người khác. Ngày mai tôi sẽ tiếp tục không ăn nếu anh em của tôi vẫn bị đối xử như những con mănh thú …”.

Bắt đầu từ ngày cùm thứ tư, họ dọn cho anh Trung ăn trước, đến anh Sương rồi đến tôi, mỗi người từ 15 đến 20 phút. Người anh em bên nhóm Đông Tiến 3 đă ra cùm, ngướ tù nữ cũng hưởng qui chế kiên giam.

T́nh trạng sinh hoạt khu cùm trại A của tôi kéo sang lệnh thứ hai. Ngày thứ 7 của lệnh 1 giám thị mời tôi ra ngoài nhà cơ quan. Người làm việc từ Hà nội vào, không xưng tên, tuổi hơn tôi cỡ ba bốn tuổi. Nội dung tổng quát họ muốn biết tôi muốn điều ǵ.

Tôi xác định 3 điêù.
- Thứ nhất là chúng tôi không chấp nhận hành vi “địt mẹ địt cha” chúng tôi một cách bừa băi.
- Thứ hai, chúng tôi sẵn sàng đương đầu với bất kỳ ai công khai phát biểu muốn “gĩa nhừ“ đoàn tù A20 chúng tôi.
- Thứ ba, bản thân tôi không chấp nhận việc đưa anh Hoàng xuân Chinh và anh Vũ đ́nh Thụy đi mất tích.

Họ ghi nhận và nói chuyện đưa anh Hoàng xuân Chinh đi đâu anh Vũ đ́nh Thụy đi đâu … là thuộc thẩm quyền nhà trại. Tôi đặt vấn đề như vậy là vượt giới hạn. Tôi xác định là tôi sẽ chống đối đến cùng nếu như tôi không biết anh Hoàng xuân Chinh và anh Vũ đ́nh Thụy ở đâu!
Buổi làm việc coi như không giải quyết được ǵ cụ thể.

Tôi về buồng cùm, nhận lệnh cùm thứ 2 th́ anh Trung đă rời nhà cùm, không biết đi đâu. Anh Trương văn Sương cũng đă bị đưa đi ra khỏi buồng cùm. Rất hoang mang, tôi quyết định không ăn, tuy nhiên, rút kinh nghiệm vụ tuyệt thực ở A20, tôi không tuyên bố ǵ hết, cứ lẳng lặng thực hiện việc không ăn.

Ngày thứ ba của lệnh 2, ông Phạm Ninh vào tận buồng, khuyên tôi nên ăn cơm, chuyện đâu c̣n có đó. Tôi nói lời cám ơn, không hứa ǵ cả. Sang ngày thứ 5 th́ vấn đề xảy ra.

Qua ngày thứ 5 của lệnh cùm 2, đêm lạnh đă bắt đầu thấm vào hai đầu vai và vùng xương chậu. Những cơn đau thấp khớp tôi cố vượt qua v́ biết chắc họ không chuyển thuốc để tôi xử dụng. Những giờ tập khí công đă bị nhập nhoạng nửa mê nửa tỉnh v́ không có tư thế ngồi hoàn chỉnh, nằm th́ khí lạnh của đá ngấm buốt vào nội phủ. Tôi không ăn 3 ngày của lệnh 1 và 5 ngày của lệnh 2. V́ không tuyên bố tuyên bọ ǵ sất nên họ vẫn cấp nước ngày một bát nên chuyện hụt nước không đến nỗi trầm trọng lắm tuy vẫn bị thiếu nước uống. Vấn đề trầm trọng ở đây là muỗi ban đêm, và ban ngày th́ những tiếng éo nhéo của đàn phụ nữ hơi quá đa t́nh. Họ không hề biết là tôi không ăn, đang phải tranh đấu cật lực vơí cái sự đói … nên có ư trêu rất dai. Những sự trêu đùa ấy vô t́nh phá nát vấn đề gắng tĩnh thần tịnh khí của tôi. Đêm thứ 4 của lệnh 2, khoảng giấc gần sáng tôi ch́m vào mê man không cưỡng lại được …

3. Đến khi TÔI THẤY TÔI ĐƯỢC D̀U TỪ TRONG BUỒNG CÙM ĐI RA, đầu gục xuống ngực, hai bên là hai ngướ tù thi đua, phía trước phiá sau năm bảy người sĩ quan lúp xúp trong áo mưa. Trời chưa sáng. TÔI THẤY HỌ ĐƯA TÔI VÀO KHU BỆNH XÁ. Ở đó ông Ninh đứng chờ sẵn, nghe được ông ta hỏi “kim tiêm của nó đâu“. Viên sĩ quan y sĩ ú ớ nói là hết rồi. Tiếng ông Ninh quát “ … khi nó ra trại này hang 4, 5 trăm mũi kim riêng “. “ Dạ! đă hết rồi, anh ấy cho hết rồi … “. Có tiếng đàn bà, là bà bác sĩ của trại, nghe đồn là bồ nhí của cục trưởng V.26 -đại tá Đỗ Năm. Tiếng bà giục đem nhanh kim tiêm ra. Viên Trung úy y sĩ nói chỉ c̣n kim trại. “ Mài kim!! Nấu nước! “ tiếng giám thị Phạm Ninh như gào lên. Căn pḥng cấp cứu trạm xá người chạy ra kẻ chạy vào lốn nhốn, đồ tù lẫn đồ công an trộn lẫn vào nhau. Tiếng ông Ninh “ĐM, nó mà làm sao, tao rút chúng mày hai bậc…"

Tôi mơ màng nhận diện được sự vật, chẳng biết đă bao nhiêu giờ trôi qua, chỉ biết là đèn điện sáng chung quanh. Linh Nghệ An đỡ tôi ngồi lên nhưng tôi không cách chi ngồi được, tất cả đều nghiêng hẳn về một phiá như chuẩn bị đổ ập. Nhà nghiêng, giường nghiêng làm tay tôi bấu chặt với bất kỳ thứ ǵ có thể bấu được!

Họ đưa tôi sang trạm xá, nằm chung với khoảng bốn năm chục người bệnh lao đợi chết. Chỗ nằm của tôi là trong góc trong cùng, có Linh đặc cách từ khu cách ly sang nằm cạnh, hai người nằm trên ba chiếc chiếu. Linh nấu cháo đậu xanh đút cho tôi từng th́a.

Mấy người tù h́nh sự bệnh nặng có người nói “ … ông này tù ǵ mà lạ thế này …”.

Tiếng Linh đối đáp “ĐM! Làm ơn yên ắng, ngậm cái mồm bớt lại! Ban Ninh c̣n phải sợ ông này …”.

Thằng bé không hiểu sự t́nh nên phun bừa ra câu ông Ninh cũng phải sợ tôi! Biết là nó nói trật lất nhưng lưỡi tôi đơ đơ, không lên tiếng được …

Linh người Công Giáo Nghệ An. Tôi không như những anh em A20 khác, thường hay coi Linh như kẻ nguy hiểm. Chỉ bảo được Linh điều ǵ là tôi chỉ bảo tận t́nh. Trong hoàn cảnh nhiễu nhương tù tội, từ vô thức, nó coi tôi như một người anh lớn lúc nào không hay. Cách mớm cháo của nó, tôi hiểu nó thương tôi thật ḷng. Chứ tù với tù, lại là những thứ đàn ông ngang bướng vốn đời nhiều lần vào sinh ra tử…không dễ ǵ mà ân cần cho nhau từng th́a cháo như thế. Nó biết tôi hận nhiều thứ nhưng cố ḱm nén nên đă nói với tôi những câu mà người ta thường nói khi nghĩ rằng người thân yêu của ḿnh đang có thể sắp sửa chết “ Anh cố nuốt!..C̣n mẹ anh! C̣n con anh nữa …”.

Nó vụng về, nói lắp ba lắp bắp, nhưng tôi biết là nó nói với tâm thành, dù là tôi không ngồi dậy được, dù là mọi thứ nghiêng và xoay liên hồi … tôi vẫn loé lên được ư chí là ḿnh phải sống, từ những lời sách tấn tinh thần vụng về nhưng chân thành của một đứa tù h́nh sự bị bắt buộc phải theo dơi tôi từng li từng tí!

… Ngày thứ tư từ ngày sang bệnh xá, tôi lẫm chẫm đi được. Luống hoa thược dược nở đầy những bông tím xanh trắng vàng, tôi cố định thần nh́n theo những cành hoa ấy mà đi. Ngă xuống lại lồm cồm ḅ lên. Linh lúc nào cũng bên tôi, d́u từng bước, đỡ từng cái té sấp vô vô phương hướng của tôi…

Ngày thứ sáu, tôi đă đi được một ḿnh. Lâm vào gọi tôi ra khu cấp cứu. Đọc lệnh kiên giam. Tôi không nói ǵ. Nh́n Linh lần cuối rồi đi theo Lâm. Lâm thấy tôi muốn ngă nên đứng lại, bước đến sát bên tôi, cầm tay phải của tôi khoác lên vai Lâm. Rất chậm, hai chúng tôi đi như thế ra lầu trung tâm. Dù đoạn đường đi chỉ có chừng 250 mét, nhưng đă vô t́nh hằn sâu vào tâm hồn tôi một ư thức khó tả. Tôi là đứa ương bướng, chưa từng bao giờ nghĩ ḿnh phải bấu bám vai một người công an mật vụ hay quản tù … để bước đi những bước chân chập chững.

Lâm có thể không biết, nhưng trong khoảng khắc ấy, tôi đă là một con người với rất nhiều thay đổi.

Sau này, tôi biết là từ những giờ phút ấy, tôi đă trở thành NGƯỜ ĐẤU TRANH KHÔNG THÙ HẬN.

Chiếc xe U Oát đậu sát thềm lầu hội trường. Tư trang của tôi đă xếp gọn gàng trong xe. Người tài xế nổ máy chờ sẵn. Lâm d́u tôi ngồi xuống ghế bên cạnh tài xế. mở hộp c̣ng số 8 loại mi ni bập vào hai ngón tay cái của tôi. Bộ c̣ng lớn bập vào gọng sắt ghế ngồi và cổ tay trái. Tôi chầm chậm đưa mắt nh́n một lượt bốn chung quanh, nghĩ rằng ḿnh sẽ không c̣n có dịp quay về nơi đây. Cổng khu tù chính trị khuất hẳn tầm nh́n của tôi. Tôi b́nh thản thả trôi mạng sống cho số phận. Giờ này chẳng c̣n phản ứng ǵ được nữa, đứng c̣n không vững lấy ǵ lư luận với phản kháng.

Xe qua cổng chính. Bốn người trên xe gồm tài xế, Lâm an ninh và một bảo vệ súng dài. Tôi cảm giác rằng sẽ đi không xa nơi đây, v́ chỉ có một bảo vệ và Lâm không mặc đồ lễ mũ vành.

Xe chạy qua đội tù chính trị miền Nam, dáng Nguyễn đ́nh Oai gánh đôi thùng tưới đi thoăn thoắt trên những luốn rau cải xanh ngắt. Dáng TRung cao ḷng kḥng và Trần Minh Tuấn giữa vườn rau. Bóng anh Vàng tất tưởi chạy ra ven lộ đưa tay vẫy vẫy rồi bóng cả đội đập đá đứng nhốn nháo hết cả lên khi xe bất ngờ chạy ngang, rơ nhất là Đỗ bạch Thố đứng bên ông Bùi Gia Liêm với mái tóc bạc trắng và hàm râu nghệ sĩ. Tôi muốn đưa tay vẫy chào anh em thân yêu mà không được, v́ tay tôi dính với thành ghế rồi!

Mới gặp lại nhau chưa đầy 10 tháng, giờ lại chia tay. Lần này đường đi chỉ ḿnh tôi! Nỗi luyến lưu bất chợt dâng lên đong đầy hai con mắt. Tôi để mặc những giọt nước mắt ưá ra lăn qua má rớt tuỉ nhục lên đôi c̣ng thép bạc.

4. Biệt giam K.C!
Xe chạy ngang qua cánh đồng trại 5. Phân trại A nh́n từ con đường xuyên ngang cánh đồng trông thật thâm u v́ không thấy được các mái nhà tầng ở bên trong. Tường đá ong xây cao như một cổ thành thời Trung Cổ. Ba cḥi canh nghễu nghện với những hàng dây điện trông như một gă phù thủy đứng bất động tụng kinh. Các thửa ruộng hai bên lổ chỗ thửa đang gặt thửa vừa mới cấy. Rải rác khắp cánh đồng là những bóng người cúi lưng vục mặt xuống các mặt ruộng. Chân núi uốn lượn ṿng vèo.

Xe qua một cổng trại, tôi biết đó là phân trại B. Tường phân trại B không nghễu nghện đá ong như phân trại A, không có nhà cao tầng, trông rơ là kém bề thế rất nhiều so vơí phân trại A.

Qua cổng phân trại B, xe ôm cua tay mặt, đường đi bây giờ là sạn đạo, một bên là vách núi một bên là cánh đồng nước bạc nhấp nhô xen lẫn những thảm lúa xanh. Giữa khoảng nước bạc nhấp nhô là một sân đất nện nổi lên trông thật lạ lùng.

Tôi hỏi ông Lâm:
- Sân ǵ vậy cán bộ?
- Sân phơi thóc, cộ thóc? Lâm đáp, có vẻ tự hào.
- Sao mà lớn vậy!
- Sông c̣n chặn được th́ cái sân có nghĩa lư ǵ …

Bất giác tôi rùng ḿnh, liên tưởng lại những điều mô tả trong cuốn tự truyện Trại Đầm Đùn (7). Đầu tôi lùng nhùng âm thanh bốn chữ “nước sông công tù”! Bao nhiêu người đă nằm xuống cho cái sân phơi hoành tráng giữa đồng kia? Bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu đ̣n roi, bao nhiêu nước mắt của thân nhân họ khi biền biệt năm tháng không thấy người thân trở về …

Tôi bỗng bật ra câu hỏi với Lâm, gần như từ vô thức:
- Cán bộ có bao giờ nghe bài hát Ông Lái Đ̣ (8) không?

Lâm đáp nhanh, gật gù, tự nhiên, thanh thản
- ”Có chứ! Bài ấy hay …”

Tôi kín đáo nghiêng người nh́n về tay mặt bên sườn núi, nhưng là để thẩm định lại cho rơ thái độ của Lâm. Lâm vô tư nh́n theo hướng nh́n của tôi. Tôi biết là Lâm không biết lịch sử của ca khúc đau đớn ấy nên mới trả lời tôi như vậy. Đó là ca khúc đă ra đời từ những gịng sông dẫn vào trại ngày nay, xưa gọi là các trại Lư Bá Sơ. Thời 1950 đă bao người Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt đă bị bắt đưa vào các trại Lư Bá Sơ, người đưa đ̣ chuyển họ qua sông với dây thừng cột dính thành từng chùm nhóm. Những chuyến đ̣ không bao giờ được trả tiền công và cũng không bao giờ thấy ”khách” quay về, đến cả khi người chèo đ̣ già yếu và chết đi, vẫn không thấy ai quay về …Giờ đây, tôi đang cận mặt với những ǵ họ đă trút máu xương xây thành. Đầm Đùn, Lư Bá Sơ năm xưa, giờ là trại 5 công nghiệp tù!

Xe gật gù men theo đường sạn đạo, mắt tôi đụng phải một mái ngói xám chênh vênh giữa chân núi, đầu đao cong lên như thế nhảy của một con nghê bị trói bụng. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng! Xe chạy gần hơn cho tôi nhận ra đó là một ngôi miếu loại hoành tráng, nửa miếu nửa đền! Tôi bật miệng hỏi:
- Miếu ai đây?
- Đền chứ miếu ǵ? Đền Lê Lai đấy! Ông ấy chết ngay tại đây! Trên kia là hang Lê Lợi …

Viên sĩ quan tài xế vừa nói vừa chỉ tay lên phiá núi. Tai tôi cơ hồ như ù đi. Lê Lai! Người anh hùng lịch sử mà tôi kính trọng nhất, hơn tất cả những vua chúa của các dân tộc Kinh Mường Nùng Chàm Thái, Hoa, Miên. Ở ông, từ thủa thiếu thời, tôi đă ám ảnh cách chọn cái chết vô cầu phi thường của ông, ḷng đă từng nghĩ có ngày phải t́m đến đền ông mà bái lạy. Giờ là đền ông ngay bên cạnh tôi, và tôi chân tay cùm xích…

Xe chạy qua đền, chắc chắn cả Lâm lẫn người tài xế và tay súng bảo vệ đều chẳng biết ḷng tôi vừa đụng phải một tia chớp giật cực mạnh.

Xe vào hẳn trong cổng. Cánh cổng sắt đồ sộ. Đây chính là phân trại C. Hướng núi và ṿng xe di chuyển cho tôi biết chắc đây là phân trại C. Trại gốc của một vùng huyền ảo Lư Bá Sơ năm nào. Sân trại phẳng tắp không cây cối, nền sân đất đá nện rất chắc chắn. Xe de đít vào ngay góc cổng trại. Một khu vực tường xây cao 2 mét biết lập hẳn vơí khu tù chung. Như vậy, khu kỷ luật của phân trại C là ngay đầu trại. “Ngay đầu trại th́ sinh khí hơn”! Tôi lẩm bẩm và bước xuống xe theo đà của cánh cửa, sau khi c̣ng được mở.

Đồ đạc tư trang của tôi được mang ngay vào buồng đầu tiên của khu cùm. Khu cùm từ tường vây đến tường nhà tường sân …đều xây bằng đá nâu. Tất cả đều cao nghễu nghện! Dao cạo râu, thuốc uống (tất cả các loại thuốc –dược phẩm) đều bị lưu kư. Quyển tự điển Hán Việt và quyển Pháp Việt, Anh Việt được lật kiểm từng trang. Bất kỳ bút ch́ bút bi hay thỏi ch́ … đều bị thu giữ. Thư gia đ́nh th́ tù được quyền giữ, nhưng giấy trắng th́ bị thu sạch.

Về đồ ăn, tôi là đứa vô sản nên không có ǵ, viên trực trại khu C hỏi tôi có đồ ăn khô ǵ không? Tôi bảo không. Ông ta chỉ vào một gói giấy hỏi cái ǵ đây rồi mở ra. Đó là bọc gói bên trong có xếp 10 gói ḿ Miliket loại có bao b́ bằng giấy cũ vàng y như là giấy bao xi măng, tức là loại ḿ ăn liền rẻ tiền nhất ở Việt Nam thời bấy giờ. Tôi cố dấu sự mừng rỡ, v́ biết đây là thủ thuật do Thố đă lo lắng cho tôi.

Thố bị cùm đă nhiều trận, kiên giam cũng đă nhiều lần kinh qua nên biết cái ǵ cần thiết cho người cùm kiên giam. 10 gói ḿ này tôi có thể ăn được 30 ngày. Tôi tính toán và h́nh dung ngay tức khắc sẽ bẻ làm ba mỗi gói và sẽ là ba ngày cho một gói ḿ. Một hạnh phúc tầm thường đối với những người thường bên ngoài xă hội, nhưng với người kiên giam là cả một sự rất qúi báu. Thố đă khôn ngoan gói lại và đặt trong thùng gỗ đựng sách vở và thuốc của tôi cốt để phiá cán bộ sẽ phải mở ra khi đă lỡ làng đặt trước mặt tôi khi khám tư trang tù như thủ tục. Với tôi, việc lấy lại 10 gói ḿ sẽ là việc gây khó khăn cho hầu hết cán bộ của các phân trại này. V́ thùng thuốc tây của tôi, tôi không từ chối chia sớt với ai bao giờ. Các thuốc tây ấy là do các anh chị của nhóm ông bà Nguyễn quốc Nam từ Pháp gởi cho gia đ́nh tôi (sau khi ra tù hàng chục năm sau tôi mới biết chi tiết này!) và gia đ́nh hàng tháng gởi vào cho tôi. Khi nh́n thấy số thuốc và kim tiêm cá nhân của tôi khi tôi bị chuyển từ A20 ra Trại 5, chính bà Đại úy bác sĩ trại tù này c̣n phải thốt lên ”cơ số thuốc của anh c̣n hơn cơ số thuốc của bệnh xá trại 5 …”

Giúp ai được điều ǵ th́ tôi chân thành giúp, anh em tù cũng vậy, phiá cán bộ cũng vậy. Với tôi, con bệnh không phân biệt quan điểm chính trị!

Giờ đây số thuốc của tôi chỉ c̣n lèo tèo mấy chục vỉ của tất cả các loại. “Trung ương” yêu cầu thu giữ lưu kư hết, kể cả thuốc thiết thân là thuốc thấp khớp của tôi.
- ”Khi lên cơn đau, bác sĩ trại sẽ khám và cấp thuốc”! Viên trực trại nói với tôi rằng quyết định “ở trên” là như vậy.

Tôi có đươc chiếc chăn trại. Một tấm chiếu. Tất cả những thứ được đem vào buồng cùm kiên giam được xếp gọn vào chiếc thùng gỗ mà Thố đă đóng cho tôi từ lúc c̣n ở A20 Xuân Phước Phú Yên. Dao cạo râu, kem đánh răng, bàn chải …không được mang vào.

Tôi vơ ngay lấy chiếc bàn chải và hộp kem, nặn ngay kem ra và tức khắc đánh răng, vừa đánh răng vừa chầm chậm vào buồng. Thật là sảng khoái khi người tù thi đua trại C đưa cho tôi ca nước bằng nhựa để hoàn tất công việc đánh răng. Từ ngày bị đưa vào buồng cùm và ra trạm cấp cứu đến nay đă ba tuần, tôi chưa hề đươc đánh răng! Râu ria tua tủa thật khó chịu (tôi có hàm râu chả đẹp đẽ ǵ, mọc bừa bộn thô lậu).

Lâm chào tôi. Lần đầu tiên Lâm đưa tay ra bắt tay tôi. Lâm là sĩ quan an ninh của trại 5 nhưng tướng pháp khác hẳn Lâm an ninh A20. Tướng Lâm A20 nhong nhỏng cao, mặt trắng nhợt nhạt, môi luôn như mím lại, trái với Lâm an ninh trại 5. Tướng đi ngang tang dềnh dàng, ngướ tầm thước đậm đà, miệng lúc nào cũng như muốn cười, mặt vuông vức … nh́n tướng đi của Lâm, tôi cảm giác là Lâm đă chọn lầm nghề. Tướng pháp như Lâm không thể nào hiểm độc hay thích tàn ác vơí tha nhân, điều trái ngược hẳn vơí nghề nghiệp công an - an ninh trại tù.

Ở Lâm tôi mờ mờ nhận ra đâu đó bóng dáng của một thằng bạn rất thân của tôi thủa thiếu thời 1978/80 là Đào Hậu. Hậu là đứa hết long v́ bạn, ruột để ngoài da, luôn thương người thấp kém hơn ḿnh, rất anh hùng mă thượng trong mọi hoàn cảnh. Hai tướng đi và hai ánh mắt của hai người này rất giống nhau.

An ninh, giáo dục, trực trại của phân trại C đừng chộn rộn trong ô sân cùm. Tất cả đều như mang một chút ngạc nhiên khi thấy Lâm đưa tay bắt tay tôi, thái độ thân ái như hai người bạn khi xa nhau. Lâm quay ḿnh bước ra cổng sân buồng cùm, không quay lại. Sân buồng c̣n lại hai người đại úy bảo tôi vào ô cùm.

Ô cùm kiên giam ngang chừng 2m50 rộng cũng chừng ấy. Cửa ra vào khoảng cao 1m60. Cửa sắt và gờ cừa cũng là sắt dầy. Cửa sắt kín từ dưới lên khoảng 1m20. 40 centimet trên cùng là sắt tṛn hàn thành các ô vuông 10 centimet để lấy ánh sang và không khí vào cho gian cùm. Bệ cùm chân cùm đă được phá đi, xây chồng lên là một lớp đá dầy. Tường vôi mới quét bốn chung quanh. Một ô vuông tường khuất hằn có lối đi vào là bể nước và WC bàn cầu ngồi. Cấu trúc này với tôi thật là lạ lùng. Cửa sắt đóng lại. Hai người đại úy lúi húi cùng cầm cùng xoay xoay nắn ổ khoá … Ra là họ không cùm tôi!

Sảng khoái, tôi chầm chậm ngồi xuống bệ nằm bằng đá. Tiếng bước chân hai người sĩ quan đi ra cửa sân rồi tiếng lách cách khoá cổng sân, cuối cùng là tiếng cánh cổng sắt khu kiên giam uỳnh uỳnh đóng lại. Tôi từ từ ngả lưng nằm dài xuống nền đá … nhưng vội gượng ngồi ngay dậy khi cảm thấy cả khu cùm bắt đầu quay ṃng ṃng! Tôi đă rất sợ cảm giác mọi thứ cứ quay lộn tùng phèo hết cả lên, không biết nắm vào đâu để giữ thăng bằng …
- Út ơi!

Tôi chới với đứng ngay dậy. Lờ quờ bước ba bốn bước ghé mặt sát các song cửa! Tiếng ai như tiếng anh Sương vừa gọi tôi!

Không nghe ǵ nữa cả! Tôi bẹo mạnh vào bắp tay để chắc chắn biết là ḿnh hoàn toàn tỉnh táo! Một cảm giác thảng thốt len nhanh qua tâm trí «… không lẽ Sương … không c̣n! » Tôi quyết định lên tiếng và nghĩ nếu là Sương đă chết th́ chắc chắn Sương đă về với tôi. Tôi nói lớn, nghiêm giọng:
- Phải anh Sương không?
- Sương đây Út ơi!

Tiếng anh Sương lập tức đáp lại, như từ một vách núi nào xa lắm! Tôi bán tín bán nghi bèn vào trong ô buồng WC, tường WC là giáp tường bên buồng số 2. Nếu Sương bên buồng 2 th́ Sương phải nghe tiếng tôi dộng tay vào tường. Tôi dộng mạnh năm sáu phát liền. Có năm sáu phát dộng lại, cũng như xa lắm! Vậy là Sương ở bên kia! Tôi mừng muốn khụyu chân xuống.

Tôi ra cửa, nói lớn, chậm răi v́ biết âm thanh bên anh Sương khó thoát ra
- « Em đây anh Sương? Anh sao rồi ».
- Khỏe Thành ơi! - Vẫn tiếng rất xa.
- Sao anh nói khó nghe quá!
-Anh ở xa cửa!

Tôi bần thần. Như vậy là Sương bị cùm!

-Anh bị cùm à?
- Ừa! Mà bộ tụi nó không cùm em à?
- Bên này không có bệ cùm!
- Có mà!
- Quái lạ! Là thực hay là mơ đây? Tôi định thần lại một lần nữa. Nh́n chung quanh buồng. Quả là vết bê tông ụ nằm lát đá c̣n rất mới!
- Mà thôi đừng nói nữa! Để mấy bữa nữa đi! Chớ nói nữa họ chuyển xa nhau là chết ngắc!...

Tôi không đáp, ḷng bấn loạn nghĩ đến Chinh và Thụy nên hỏi lớn.
- Anh biết Chinh Thụy đi đâu không?
- Bên số 5!

Tôi bàng hoàng, hỏi lớn.
- 5 nào?
- Anh số 2. Út số 1. Chinh số 5. Dũng số 6. Thụy 11, Đăng 12 đàng sau …

Tôi rú lên, đập cửa th́nh th́nh. Tiếng sắt thép va vào nhau rổn rảng, là tiếng đập cùm của anh Sương vọng sang!

*******

Tôi đứng khum khum nh́n ra khoảnh sân trước buồng cùm. Sân lát gạch nung vuông 30cm, bề ngang sân 5 mét, bề dài khoảng 7 mét là đến cửa cổng. Vách tường đá nâu cao ngất ngưởng khoảng 4 mét, trên 4 mét ấy mơí xây thêm 1 mét gạch thường. Như vậy, ô sân trở thành một cái giếng. Âm thanh từ buồng cùm vọng ra đă khó, trèo qua được bước tường cao này th́ biến dạng là phải.

Mắt tôi quan sát bên trên các bức tường đá. Rêu đă có khá nhiều, chứng tỏ căn buồng cùm này không mấy khi có người ở. Sát mép buồng cùm, lênh khênh trên một gờ đá ong có một thân cây giống cây me mọc bám chắc đă lâu ngày, cây cao chừng 30 cm bám chênh vênh giữa khoảng tường đá, thân cây cằn cỗi khẳng khiu cỡ bằng nửa chiếc đũa. ”Chắc con chim nào đă ị hạt giống vào đây”. Tôi ngẫm nghĩ nh́n gốc cây lạ lùng vô danh tí hon rồi đưa mắt soi cẩn thận xuống nền gạch của sân. Giữa sân, sát tường bên tay trái có một bệ đá xây như bàn ngồi ăn cơm và ghế đá. Tất cả đều là mới làm xong cỡ năm ba ngày. Chính giữa sân, thẳng tắp từ cửa buồng cùm đi thẳng ra cửa sân, hàng gạch nung bị vạt sâu hơm xuống thành một đường rănh hơm rất đều nhau. Tại sao có đường rănh này? Câu hỏi rất nhanh xẹt qua đầu và tức khắc đưa ra câu trả lời khốc liệt: Những người bị xiềng chân lưu cữu!

Bất giác tôi thấy ḿnh như lớn hẳn lên v́ thảng thốt nhận ra một dấu tích, tuy nhỏ nhặt bé mọn nhưng là một sự nối kết vô h́nh của một giai đoạn lịch sử tàn khốc, của nửa thế kỷ kéo dài dính chặt đến hôm nay, những con người mang một ư thức công bằng dân sinh, độc lập dân tộc, tự do tư tưởng … vẫn c̣n phải trả giá bằng những sự thù hận man dă từ chính những người đồng chủng chung một tổ tiên chung một nền văn hoá.

Những bước tường như thời Trung cổ Âu châu đang vây chung quanh tôi đây, đă ít nhất hơn 50 năm chứng kiến bao cảnh một đàn gà chung một Mẹ già tận lực xé xác lẫn nhau! Tôi cả nửa đời lang bạt kỳ hồ, ḷng chưa bao giờ h́nh dung đến sẽ phải (hay được) đứng trong một dăy hầm cùm đă được xây dựng từ 50 năm trước, khi đất nước vừa được người Nhật trao trả quyền độc lập sau các biến động Thế Chiến và bị thế lực cộng sản quốc tế thừa cơ chiếm đoạt, gây nên bao cảnh hăi hùng khởi từ những tấm ḷng cuồng nhiệt cực độ mà ngu ngơ cũng cực độ … dẫn đất nước vào hai cuộc chiến tranh triền miên máu, nước mắt và đói khát hèn hạ.

50 năm trước, khi dân c̣n cơ cầu đói khát lơ láo với món quà độc lập từ trên trời rơi xuống… th́ những trại tù hùng vĩ thế này được cất lên! Ai đă xây những bức tường này? Ai đă đập đá giă vôi? Ai đă ngào hồ trộn vữa… để cơ ngơi trùng trùng những nhà tù hôm nay trở thành như một nền công nghiệp trên giải đất Lam Sơn lịch sử 10 năm nằm gai nềm mật kháng chiến chống quân Hán Minh 500 năm về trước! Căn cứ nghĩa quân! Sân tập trận! Băi thao trường …là nơi giờ đây tôi đang đứng chân lên trên, trong một căn hầm dành cho loài mănh thú, với án danh là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cho an ninh quốc gia!!!

Nh́n các vách tường đá lưu cữu, nh́n bầu trời trong xanh đă bị bó hẹp lại trên đỉnh những gờ đá, nh́n xa xa là vách núi dựng đứng, nơi có dấu chấm được gọi là miệng hang Lê Lợi lúc ẩn lúc hiện giữa những làn mây treo lơ lửng… khiến cảm xúc trong tôi tôi như sóng vỗ xô bờ

Có bóng người thấp thoáng đi qua đi lại trước khu cửa sân buồng số 1, là người tù thi đua ban năy đă phụ đem chiếc ḥm gỗ của tôi vào buồng. Như vậy là họ đă để túc trực một người tù thi đua ngay trong khu kỷ luật cách ly này. Chả trách anh Chinh và anh Dũng không lên tiếng với tôi, v́ chắc chắn sẽ phải gào rất lớn tôi mới nghe được, trong khi khu nhà trực trại là sát ngay tường phiá bên ngoài khu biệt giam, chỉ cách con đường chính dẫn vào cổng trại.

Người tù thi đua này có vẻ chân phương, không « gai góc sắc sảo » như hai người tù thi đua ngoài trại A. Anh ta có vẻ muốn gần gũi tôi, nhưng xa quá, chỉ nh́n thoáng thấy tia mắt của nhau từ cửa sắt buồng cùm vơí của sắt để dẫn ra cổng khu cách ly.

Khoảng 4 giờ chiều có tiếng lỉnh kỉnh mở cổng khu kỷ luật, rồi ngay sau đó là mở cửa sân buồng tôi. Hai người đại úy đi vào cửa buồng, cùng lúi húi tra ch́a khoá vào ổ để mở khoá. Khoá mở xong th́ một người cầm ổ khoá trên tay gọi tôi bước ra sân. Trong sân có ba người là hai đại úy và người tù thi đua. Viên đại úy cao ngang ngửa vơí tôi lên tiếng.
- Tôi là trực trại, ông … (tôi quên tên) đây là trách nhiệm giáo dục. Qui chế sinh hoạt của anh cho tuần này là không cùm. Anh có hai lần mỗi ngày, chúng tôi mở cửa buồng để anh ra bàn ăn cơm. 11 giờ sáng và 4 giờ chiều. Mỗi lần ra sân anh có 30 phút.

Nh́n chung quanh một lượt ông nói tiếp, giọng người Mường Thanh hoá đặc thù.
- Đây là phân trại C. Anh chắc đă nhận thấy sự khác biệt của buồng anh vơí các buồng khác. Chúng tôi mong anh an tâm sinh hoạt, không để xảy ra những chuyện đáng tiếc … v́ chắc chắn là anh chỉ sẽ thiệt hại mà thôi…

Tôi không nói ǵ, đứng yên lắng nghe. Thái độ của cả hai là thái độ nhă nhặn, tuyệt không thấy sự thù hằn nào hiện lên trên hai khuôn mặt này.

Ông ta chỉ người tù thi đua.

-Đây là anh … (tôi quên tên rồi) là người bên cạnh các anh. Có điều ǵ cần gặp chúng tôi, anh cứ nói vơí anh ta. Nước nôi sinh hoạt của buồng anh … sẽ hàng ngày châm cho đầy cái bể trong nhà met (WC). Cơm anh ta cũng là người nấu trực tiếp cho các anh, không chung nồi với trại chung …

Nói xong ông ta ra hiệu cho người tù thi đua mang cơm vào. Người tù thi đua bê một chồng 4 cái mâm vào đặt trên bàn đá rồi thứ tự lấy mâm trên cao nhất đặt xuống mặt bàn, lấy mâm cao thứ ba đặt lên cái mâm thứ nhất dưới mặt bàn và chuyền chiếc mâm áp chót của hàng mâm lúc đem vào, đặt lên thành tầng thứ ba của ba mâm. Như vậy. Mâm cuối cùng là mâm của tôi. Thủ tục này suốt hai tháng trời là như thế.

Ba mâm của các anh Dũng, Sương, Chinh bằng nhau, bát cơm đầy hơn một chút so với bát cơm mâm của tôi, bát canh rau muống giống nhau và đăc biệt mỗi bát cơm của các anh có một nủa con cá khô, bằng chừng gần ngón tay út.
-“Miếng ăn trong tù to lớn vô cùng”! Vào trong hoàn cảnh này tôi mới thật sự hiểu được giá trị của câu nói ấy.

Thủ tục này tôi hiểu là hoàn toàn không phát sinh từ giám thị trại này. V́ “tiêu chuẩn” ăn của tôi, ngay đến giám thị Lường (phân trại C) cũng có lần bày tỏ sự bất b́nh trước mặt tôi.”Sao lại đối xử với các anh như thế này nhỉ …” câu nói ấy theo tôi măi đến ngày hôm nay, từ một người thượng tá gốc Mường đơn sơ đôn hậu.

Tôi ăn cơm xong (chỉ 5 phút) bèn tận dụng giờ được tản bộ trong sân tôi mon men ra cánh cửa sắt, hy vọng t́m thấy h́nh bóng hay âm thanh nào đó của Chinh và Dũng … nhưng không tḥ đầu ra song cửa sắt được. Gờ tường quá dầy nên tầm mắt nh́n nghiêng qua buồng 1 và 2, chỉ thấy ba, bốn mét lối đi. Có lẽ các anh sợ bị chuyển xa nhau nên không lên tiếng lớn, chỉ húng hắng ho để tôi nhận biết là các anh đă biết tôi ở buồng này. Tôi to mồm gọi chào anh Dũng anh Chinh. Đăng và Thụy ở bên kia, phẩn tường đàng sau th́ không cách chi bắn tiếng cho nhau được. Tuy nhiên, biết các anh cả ở đây là yên tâm rồi. Có điều anh Dũng và Đăng tại sao bị bắt vào cùm th́ tôi chưa biết lư do. Vơí anh Dũng, tôi đă dặn kỹ trước khi xảy ra chuyện đối đầu là anh cần đứng ngoài, không dính chùm vào với tôi… vậy hà cớ ǵ anh lại bị cùm vào đây! Đăng tôi cũng không hiểu v́ sao!

Người tù thi đua luôn ẩn hiện. Một lần tôi ”chộp” được anh ta.
- Này anh bạn!
- Dạ …

Anh ta có vẻ lúng túng.
- Quê anh ở đâu?
- Ở tỉnh này anh ạ!

Nghe giọng nói và cung cách, tôi không dấu đươc ngạc nhiên.
- Sao ông lại … vào đây nhỉ? - Tôi vừa hỏi vừa lắc lắc cái đầu, không ngờ cảm giác lộn tùng phèo ập ngay đến. Tôi vội ngồi thụp xuống tựa lưng vào thành cửa sắt, dán chạt lựng vào tấm cửa, hai chân dạng rộng ra để khỏi mất thăng bằng mà đâm đầu xuống nền đá. Tiếng người tù thi đua í ới chạy ra cổng khu gọi ”ông ơi ông ơi” bài hăi!

Phải nói là tôi đă rất sợ cảm giác lộn tùng phèo tất tần tật tất cả mọi thứ lên. Nhớ mấy hôm c̣n bên bệnh xá trại A, những lúc ngă đâm đầu xuống cạnh luống hoa thược dược mà không có Linh, mặt mũi tôi bê bết đất cát khi đứng lên được! Tôi sợ trời đất quay ṃng ṃng. Sợ cảm giác sụp đổ. Sợ thân ḿnh bị chổng ngược lơ lửng giữa đất trời và những mái tầng nhà tù.

May mà t́nh trạng đảo lộn chỉ thoáng qua chừng 3, 4 phút. Tôi bắt đầu co chân lại để vịn tường đứng lên th́ cửa mở. Viên đại úy trực trại ào vào vực nách tôi d́u vào buồng. Cả hai đều cao lớn nên cùng phải khom khom mới lọt qua được cánh cửa sắt. mà vơí tôi, việc cúi đầu xuống là việc đă trở thành tối kỵ… nên trôi phải khụy gối xuống, nửa bước nửa qùy để vào bệ cùm, ngồi tựa lưng ngay ngắn vào vách tường.

Viên sĩ quan trực trại có vẻ rất ái ngại khi phải khoá cửa buồng để tôi lại một ḿnh. Ông lần khân lần khan vẻ như không biét xử trí ra sao.

Tôi nói
- Tôi quen rồi. Không sao đâu cán bộ..

Ông ta tần ngần cùng người tù thi đua đi ra khỏi buồng, lách cách đóng khoá. Lần này th́ tôi biết chắc rằng cái ổ khoá là loại khoá hai ch́a!
- Tôi lẩm bẩm “… mấy ông bị lừa rồi! Tôi có là con khỉ khô ǵ đâu mà mấy ông phải nh́n tôi là quan trọng một cách quái gở thế này …”.

Khoảng 2 tiếng sau, bóng đêm ập xuống, ánh đèn vàng vọt từ một cái lỗ như lỗ thông hơi trên cửa ra vào sát với trần buồng hắt le lói vào đúng vị trí bệ cùm tôi nằm. Những tiếng tạch xè tạch xè quen thuộc của một thủa ấu thơ dội về, tôi rảo mắt chầm chậm nh́n lên hướng đền vàng vọt và thấy những cánh bay của những chú cào cào bay qua bay lại trước cửa buồng. Ḷng tôi mừng húm! V́ những con cào cào sẽ là những dấu chỉ của cuộc sống đang sinh động diễn ra, thứ nữa là tôi có thể … ăn được những chú mà tôi có thể vồ được. Tôi sẽ ăn các chú cào cào, v́ nếu không ăn, tôi e rằng ḿnh khó có thể sống mà không bị suy kiệt dinh dưỡng, đầu óc v́ thế sẽ trở thành mông muội, sẽ thành đất cát mất … vả lại, tôi không ăn các chú th́ các chú cũng chết, v́ các chú sẽ chẳng biết lối đâu mà bay ra. Phần tôi, chắc chắn sẽ không đuổi theo các chú được, với cái đầu giờ cứ phải như người máy thế này. Đầu quay đi đâu là cả thân người phải quay theo thế ấy, không dám nh́n xuống, không dám nh́n lên. Tôi cần phải sống các bạn ạ.

Tôi ngồi như vậy với những đường bay của các chú cào cào, cả mấy mẹ thiêu thân cũng cắm đầu ra cắm đầu vào cái bóng đèn, có hai ba chú lọt vào buồng và quả nhiên là bay đâm loạn xà ngầu vào các ngách tường. Tôi chả dại ǵ mà đừng lên, nhất nữa là đuổi theo các chú. Đúng lúc tôi quan sát một chú cào cào đang ḅ trên tường th́ phát hiện suy đoàn kiến lửa đang xa luân chiến cái mớ quà qúi báu mà Thố đă khôn khéo gói cho tôi: Túi ḿ gói Mikilét (h́nh như tên nguyên dạng là Ḿ Liên Kết).

Này th́ không xong rồi. Ở cái đất này, h́nh như các loại sinh vật đều rất dễ nảy sinh hành vi thảo khấu. Đến mấy con muỗi cũng cư xử như thảo khấu và giờ là binh đoàn kiến vàng. Liên tưởng đến những gói ḿ bao bằng giấy bị hàng vạn những cái gọng hàm nghênh ngang kia liên thủ đục khoét th́ … chẳng mấy chốc mà nát bét. Tôi bám tường cố đứng lên, chậm răi bước đến cái nóc ḥm gỗ. Giời ạ! Đúng là hàng sư đoàn! Mới chỉ có hai ba gói bị vỡ hàng rào pḥng ngự. Tôi cầm chiếc túi có 10 gói ḿ, ph́ ph́ thổi thổi cho lũ kiến đang điên cuồng bới gặm phải rơi xuống nền buồng, nhưng rồi không biết phải để bọc ḿ khô ở đâu! Binh đoàn kiến th́ đâu chúng cũng có thể ṃ tới mà tường th́ không có mấu hay đinh, que, dây … ǵ để có thể treo. Cuối cùng th́ miếng áo nhựa dùng để đi mưa đă được tôi nhớ ra, quấn 10 gói ḿ vào rồi tôi thả nổi nổi trên mặt cái bể nước trong nhà wc. 10 gói ḿ này sẽ là … sinh lực cho tôi hàng tháng hoặc có thể hơn cả tháng trời. Nó sẽ giúp tôi phấn đấu … Tôi đă ”ra chỉ tiêu” cứng rắn là mỗi ngày, 10 giờ tối tôi sẽ được tự ”thưởng” cho ḿnh 1 phần 3 của lát ḿ gói Miliket kia.

Tôi về chỗ nằm, ngồi tựa vào tường. Bên anh Sương yên ắng như một khu nhà mồ …

Bỗng có tiếng dế gáy rơ to vang lên. Bỏ mẹ tôi rồi! Dế cơm Lam Sơn! Những con dế cơm không hề cơm tí nào! Chúng gáy hung dũng và to gấp năm sáu lần những con dế chiến của tôi thủa ấu thời. Làm sao mà bịt mồm con dế này được? Tôi tự hỏi trong đầu và từng bước đứng lên đi t́m cái ca đựng nước xối WC. Tôi múc một ca đầy, ḷ ḍ ngồi kiểu nước lụt rồi nhếch từng chút một t́m chỗ con dế ác liệt. Không thể nhân nhượng hay thơ ca lẩn thẩn ǵ được với trự dế cơm này. Tiếng gáy của y như muốn nong cả óc của tôi ra rồi.

Đây rồi, hai sợi râu của hắn tḥ hẳn ra một ngách đá ong sát chân tường, cao hơn măt nền buồng chừng 5cm! Này th́ sao mà đổ nước vào cái ngách ấy! Chỉ c̣n nước là lấy cái ca đập vào miệng ngách hang bé tí cho hắn sợ mà”câm miệng” lại! Tôi đổ nước ra mép cửa, gơ gơ chiếc ca nhựa vào miệng hang! Thật đúng là thứ du côn! Hắn im được chưa tới 5 phút đă lại gáy tướng lên. Tôi lại ṃ đến miệng ngách hang, lại gơ gơ. Lần này hắn không thèm im luôn! Tôi gơ cứ gơ! Hắn gáy cứ gáy! Thậm chí c̣n có phần gay cấn hơn!

Tôi trở lại chỗ nằm. Kiểu này anh chàng dế chắc đă thành tinh, hắn chắc thèm một đối tác cộng sinh để giải tỏa nhu cầu ca hát. Vậy th́ ta chỉ c̣n cách là lơ luôn hắn đi. Tôi định thần ngồi yên, bắt đầu khép chân bán già để tập tịnh tâm. Chàng dế không buông tha tôi. Hắn gáy một ḿnh có vẻ không đă tai nên tỏ rơ thái độ nửa cám dỗ nửa khiêu khích. Hắn lẫm chẫm ḅ ra hẳn ngách, đứng oai phong sát tường và nền nhà, nhổng cái đít lên, khuỳnh hai cái càng đen đủi gớm ghiếc ra mà gáy, đầu hướng về phiá tôi ngồi. Giời ạ, dế ǵ đâu mà du côn quá trời! Hắn đen trùi nhũi, to bằng cả ngón tay cái của tôi! Khi tôi mới ra trại 5, ở khu cách ly bên khu nữ đă thấy một con ẩn trong ngách đá gần bờ giếng. Lúc ấy tôi đă rất ngạc nhiên v́ cái sự ”cơm” của loài dế này. Nhưng con ấy so với con này coi bộ chỉ là hàng em út! Con này chắc đă thành tinh rồi!

“Đất không chịu giời th́ giời phải chịu đất thôi”! Tôi ngẫm nghĩ và t́m cách nương theo âm thanh của cu dế này mà gieo các nhịp thở. Khốn nỗi cu chàng gáy chả theo một thứ tự hay âm giai hợp lư nào cả. Lúc th́ hùng dũng sang trọng kiểu giao hưởng Beethoven, lúc lại như kiểu rèng rẹc ghẹ mái. Thật là quá quắt! Chừng hơn 1 giờ như thế, hắn bỗng im bặt, lần ṃ thu xếp kèn loa rồi chui vào cái khe ngách ấm yên của hắn. Trả lại cho căn buồng sự tĩnh mịch thật là héo hắt.

Tôi cố giữ nhịp nhàng cho các hơi thở, lược dần những sự suy nghĩ ra khỏi đầu, dù rất nhiều thứ đang thúc dục tôi phải nhớ lại từng sự việc để suy ra bản chất những điều đă đến với anh em chúng tôi trong ba tuần vừa qua. Điều lo lắng lớn nhất của tôi là Chinh và Thụy th́ đă được giải tỏa. Các ảnh ở đây, cùng vơí tôi trong khu cùm kỷ luật này. Mà chuyện cùm kẹp đối mấy ổng th́ chẳng có ǵ phải lo lắng. Họ đều là những cội đại thụ của A20 trong chuyện cùm kẹp!

Đúng lúc tôi bắt đầu có sự yên ắng nhẹ nhàng của các nhịp thở th́ những âm thanh đập cùm ầm ầm vọng sang từ buồng sát vách buồng tôi, phiá dăy sau. Tiếng va đập cùm phải là của một người nào đó rất khỏe và rất lỳ đ̣n. Tiếng va cùm kiểu ấy, ngay như tôi cũng không dám làm, v́ chắc chắn sẽ bật máu cổ chân!

Tiếng đập cùm cứ năm ba phút lại vang lên, dộng như nện vào đầu tôi sự công phá nặng tŕnh trịch. Cán bộ không ai vào dù những tiếng chửi thề độc địa đă bật ra không c̣n đâu là giới hạn. Từ quản giáo đến giám thị, đều bị anh chàng lôi ra chửi không tiếc hơi sức. Gần 1 giờ liên tục như vậy. Nghỉ chừng 15 phút lại ”tăng ca”! Thật là thảm hại cho tôi nếu cứ phải chịu cảnh này. Hết thằng dế cơm ngổ ngáo lại đến anh chàng tù kỷ luật lên cơn điên. Kiểu này là không xong rồi! Sẽ không tập trung zô ga zô ghiếc ǵ được trong bối cảnh quái gở này. Tôi quyết định ”làm chủ t́nh thế”. Tôi gồng người nói lớn, chậm để âm thanh có thể dẫn truyền trọn vẹn sang cho ngướ đồng cảnh bất đắc dĩ.
- Này …anh…bạn…ǵ…ấy…ơi…!

Im ắng lạ lùng.Tôi gọi lại lần thứ hai y như vậy, th́ có tiếng trả lời.
- Anh …ǵ …là …Việt…kiều… phải không?
- Ừ, Việt kiều Pháp đây!

Tôi đáp to từng tiếng và dặn anh ta cũng phải nói như vậy, nếu không th́ lơm bơm rất khó nghe.

Tôi hỏi anh ta muốn ǵ? Anh ta bảo là chỉ muốn ra trại chung thôi, chứ ở đây chịu không nổi nữa rồi. Tôi hỏi chịu không nổi là sao? Anh ta bảo.
- Thèm tiếng người! Giờ chúng nó chửi em, em cũng thích nghe!

Một cảm giác thương tâm bật lên trong ḷng tôi. Chỉ một câu ngắn ngủi với âm giọng lơm bơm nhưng là thể hiện một nhu cầu thật là hết sức con người.

Tôi nhớ lại thời kỳ bị biệt giam ở B34, những tháng chờ ra ṭa thật là đằng đẵng. Khi ấy tôi cũng có cảm giác thật thèm được nghe tiếng người. Cảm giác ấy, mấy mươi năm đầu của cuộc đời, tôi không bao giờ nghĩ là nó có trên cơi đời này! Đêm nay, một người tù xa lạ, cách tôi một bức tường đá dày hàng nửa thước, chân bị kẹp trong suốt cùm, dùng chính cái móng cùm đang thắt chặt ở cổ chân mà đập lấy đập để vào trụ cùm, mong đ̣i được nghe tiếng con người! Được sống b́nh thường như một con người tù b́nh thường ở trại chung...

Một ư nghĩ thoáng qua đầu và tôi lớn giọng gào tiếp tục.
- Này … Anh…Bạn…Bên…Kia… ơi!

Tiếng đáp ”em đây” rơ mồn một!
- Anh có muốn ra ngoài trại chung không?

Tiếng đáp ”C…ó …” rất to.
- Anh có sợ không?
- Em chả sợ ǵ sất!

Vậy tôi hét câu nào, anh lập lại câu ấy nhá! Lập lại giống y như tôi nhá …
Tiếng anh ta ”vâng ạ” lớn. Tôi lập lại.
- Hét giống y như tôi nhá!
- Vâng!
- Thề đi!
-Thề! Em Xin Thề!

Tôi đứng hẳn lên. Khom người chu mỏ ra ô cửa sắt, gào cật lực từng câu từng chữ.
- Đ. M. Hồ …chí… Minh…!
….!
Không tiếng đáp lại! Tôi gào lại lần nữa!
- Đ.M. Hồ… chí… Minh..!
- …
Tôi hoàn toàn không nghe bất cứ âm thanh ǵ thêm nữa. Hỏi với sang: ”Anh Ǵ Đâu Rồi …” chỉ là tiếng mấy con cào cào tạch xè bay qua bay lại trên đầu tôi, phiá cái bóng đèn mờ mờ nhợt nhạt.

Chừng 15 phút sau tiếng cổng cánh cửa sắt khu kỷ luật bật mở. Tôi cười thầm, ”giải thoát được cho ông rồi nhá”!

Tiếng cửa buồng phiá sau bật mở rất nhanh, tiếng lách cách tháo khoá và tiếng suốt cùm roèn roẹt kéo qua trụ sắt.

Từ đó, tôi không bao giờ gập lại người tù kỷ luật ấy nữa, một người đă thoát được khu cùm kỷ luật kinh hoàng mà đám h́nh sự gọi là khu cùm K Chết!

Tôi thiếp đi trong những âm thanh hỗn độn của tiếng người tru tréo, tiếng than thở, tiếng van cầu … và những người đàn ông đàn bà không quần áo đứng ngoài cửa buồng nh́n vào!
Đêm hầm cùm đầu tiên của khu kỷ luật Lam Sơn C trôi qua với nhiều những âm vang vọng lại đến cả suốt 20 năm sau của đời tôi.


Phạm Văn Thành

hoanglan22 04-08-2019 03:04

Một trà, một rượu, một đàn bà
 
Một trà, một rượu, một đàn bà

Trong đời sống con người, nhất là nam giới thường mắc phải vài thói hư tật xấu. Tứ đổ tường thường dính phải một, hai. Có nhiều người c̣n tự hào về những thói hư tật xấu của ḿnh.

Xin đọc câu chuyện vui sau đây:“Một người đàn ông đi làm việc về thấy một gă lạ mặt, quần áo rách rưới đứng trước sân nhà, liền hỏi:- Ông là ai mà đứng trước nhà tôi?

Gă lạ mặt trả lời:- Thưa ông, tôi lỡ đường, lại đói quá, xin ông vui ḷng giúp tôi ít tiền để tôi có được buổi ăn chiều.Người đàn ông từ chối:

- Tôi có thể giúp anh nhưng tôi biết cho anh tiền anh sẽ đi uống rượu hoặc đánh bạc.

Gă lạ trả lời:

- Tôi thề với ông, đời tôi chẳng biết tứ đổ tường là ǵ, th́ khi nào tôi lại đi uống rượu hay đánh bạc.

Mắt người đàn ông sáng lên, vui vẻ nói:

- Vậy th́ mời anh bước vào nhà uống miếng nước rồi tôi giúp anh chút tiền ăn cơm chiều

Gă lạ mặt ngạc nhiên:

- Sao lại phải bước vào nhà, áo quần tôi rách rưới, dơ bẩn.

Người đàn ông nói:

- Tôi chỉ muốn vợ tôi nh́n thấy một người không có thói hư tật xấu nó như thế nào. Vậy thôi!

***

Như ông Tú Vị Xuyên:

“Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh.”

Thế mà ông Tú chẳng ngại miệng đời, ngông nghênh làm thơ nói ra cho thiên hạ biết đời người có tứ khoái: Ăn, ngủ, ấy, ể.

Những cái khoái của ông Tú là:

“Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ nấy
Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.”

Vậy ta hăy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui:

1- MỘT TRÀ:

Chẳng được bao lâu. Một lần sau buổi cơm chiều, bà vợ đang rửa chén sau nhà th́ nghe chồng gọi: “Bà nó ơi! Vào xơi chè với tôi.”

Trà là thức uống thanh nhă của người Á đông. Trà, tiếng miền Bắc gọi là chè.

Có cặp vợ chồng, chồng Bắc, vợ Nam , cưới nhau

Bà vợ ngạc nhiên la lên: “Mới ăn cơm xong no muốn chết, bụng dạ đâu ăn chè cho nổi.” Ba miền Bắc, Trung , Nam có nhiều tiếng khiến dân ba miền hiểu lầm nhau. Có lần người viết bài nầy đến thăm cô bạn gái người Huế, thuộc dạng hoàng tộc, cũng là người trong giới cầm bút. Vừa mở cổng, có hai con chó chạy ào ra sủa toáng lên làm tôi sợ hăi. Lúc đó, người bạn từ trong nhà chạy ra vừa xua đuổi hai con chó vừa trấn an tôi: “Không răng mô! Không răng mô!” Tôi vừa sợ vừa giận, nói lớn: “Chó nhà em răng chơm chởm thế kia, sao bảo không răng?”

Trở lại chuyện uống trà. Uống trà tinh thần sảng khoái, quên cả mệt nhọc.Trong trà có chất thebaine, giống như chất cafeine có tác dụng giúp cho tỉnh ngủ. Thuở xưa các dân du mục bên Tàu, mỗi lần đi săn hay chinh chiến về, thấy loài ngựa mệt nhọc, thường hay t́m một thứ lá cây để ăn. Ăn xong loài ngựa như khoẻ ra. Loài người thấy vậy bèn lấy lá nấu nước, uống thử, thấy nước có vị hơi đắng và chát nhưng hậu ngọt. Uống vào một lát sau thấy người khoẻ khoắn. Từ đó người ta t́m ra được một thức uống mới và mỗi ngày một cố gắng cải tiến để trà uống được ngon hơn.

Trà uống có nhiều cách. Có người tính t́nh giản dị, đun nước cho sôi, bỏ trà vào b́nh rồi châm nước vào đợi một lúc cho ra trà, rót vào chén lớn uống ừng ực đến đă th́ thôi. Uống như vậy gọi là “ngưu ẩm.”

Có nhiều người cách uống cầu kỳ. Họ không nấu trà bằng nước mưa mà bằng nước giếng khơi ở trên núi hoặc bằng nước suối. Các cụ bảo: “Tuyền dĩ trà vi hữu.” Suối là bạn của trà. C̣n nước giếng th́ phải trong, ngọt và không có phèn.

Bậc vua chúa uống trà c̣n cầu kỳ hơn nữa. Mỗi sáng các cung phi ra vườn, hứng những giọt sương đêm đọng trên lá sen rồi đem đước đun sôi trên cái ḷ than nhỏ. Than phải đốt đến lúc đỏ rực để không c̣n khói mới bắc ấm nước lên. Nước sôi, châm nước vào cái b́nh bằng đất nung màu đồng vỏ cua để tráng ấm. Rồi mới châm nước vào trà. Nước đầu tiên cốt để rửa trà cho sạch, gọi là nước Khất Cái. Kế đó châm nước lần thứ hai, đậy nắp b́nh lại giữ nóng cho ra trà. Nước nầy gọi là nước Hoàng đế. Xong đổ ra chén tống rồi chuyển sang chén quân, mới uống.

Loại b́nh trà tốt có màu như gan gà. Thứ nhứt Thế Đức gan gà, thứ nh́ Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần.

Uống trà phải uống thong thả để tận hưởng hương vị trà. Nhiều người chỉ uống một ḿnh vào buổi sáng tinh mơ, vừa uống vừa suy nghĩ chuyện đời.

Uống như vậy gọi là độc ẩm. Nếu có thêm một tri kỷ ngồi uống với ḿnh gọi là đối ẩm.

Trà có nhiều loại không sao biết hết. Loại trà Bạch Mao Hầu, trà Thiết Quan Âm, trà Trảm M. thường thấy ở Việt Nam . Vùng Thái Hồ, huyện Bích La bên Tàu có trà Bích La Xuân nước trà màu xanh biếc, rất thơm có vị đắng nhưng hậu ngọt. Vùng Vân Nam có thứ sơn trà danh tiếng được mệnh danh là Điền Trà, màu vàng sậm. đắt tiền nhất là trà Mạn Đà. Trà nầy chỉ có bậc vua chúa hoặc rất giàu có mới dùng nổi. Ngoài ra c̣n trà Mạn Nguyệt, trà Hồng Trang Tố Lữ, trà Thập Bát Học Sĩ có mười tám bông màu sắc đều khác nhau. Trà Phong Trấn Tam Hiệp có ba bông. Trà Nhị Kiều có hai bông và c̣n nhiều nữa.

Người Tàu và người Việt Nam , không ai không biết uống trà. Miếng trà đậm đà câu chuyện. Có lẽ v́ vậy, mỗi lần khách đến, chủ nhà vội vàng nấu nước pha trà ngay. Có một ông khách đến thăm ngay lúc nhà bà bạn đang sửa ống nước. Ống nước chính dẫn vào nhà bị khoá. Trong nhà không c̣n nước để nấu trà. Bà chủ hoảng quá, chạy vội vào pḥng tắm vét hết số nước c̣n lại trong một cái xô” đem nấu trà đăi khách. Khi khách uống, bỗng thấy ở cổ vương vướng một vật ǵ, cố gắng khạc ra th́ là một sợi lông. Ông khách là người thiếu tế nhị, đưa sợi lông ra hỏi: “Sao trong trà lại có lông?” Bà chủ nhà đỏ mặt, ấp úng đáp: “Thưa, đó là trà Ô Long.” Ông khách thầm nghĩ Ô Long là con rồng đen đâu phải sợi lông đen nhưng ông khách im lặng. Lúc ra về ông ghé qua khắp các tiệm trà trong phố, hỏi xem th́ không có loại trà nào là Ô Lông cả..

C̣n một thứ trà rất rẻ tiền, người nghèo cũng có thể uống được. Hương trà rất thơm ngon, tên là trà Thái Đức. Uống vào thức đái suốt đêm.

II- MỘT RƯỢU:

Rượu chữ nho gọi là tửu. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Cờ không gặp gió, lá cờ rũ xuống, xem chẳng oai hùng chút nào đàn ông thiếu rượu, giống như lá cờ rũ, kim đồng hồ thường chỉ sáu giờ, trông phát nản.

Rượu cất bằng gạo nếp, nấu xong, dùng men ủ, vài ngày sau mới đem ra cất. Rượu ngon hay dở c̣n tuỳ vào bí quyết và kinh nghiệm nấu. Rượu là lộc Trời cho.

Bậc vua chúa ngày xưa, đă biết dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc tế Trời, lễ đất, cầu phúc, cầu lợi. Vô tửu bất thành lễ.

Các bậc thánh nhân ngày xưa không ai không uống rượu. Lưu Bang Hán Cao Tổ nhân lúc rượu say, cầm gươm chém rắn bạch, khởi nghĩa, lập nên cơ đồ nhà Hán. Phàn Khoái dự tiệc Hồng Môn Phàn, lấy cao cắt thịt, uống rượu, thi đua múa gươm, mưu đồ đại sự. Khổng Tử lúc hứng uống cả ngàn chung. Tử Lộ uống như hũ ch́m. Lă Bạch càng uống, làm thơ càng hay. Nhiều người không quen mùi rượu, đọc xong thơ của Lă Bạch cũng lăn quay ra say khước. Một lần Kinh Kha rượu đă ngà ngà, uống thêm một chén rượu tiễn đưa, rút gươm chỉ xuống ḍng sông Dịch chửi thề: - Mẹ kiếp! Chuyến nầy không thành công th́ ông đíu thèm qua sông nầy nữa.

Và lần đó Kinh Kha đă hát bài nhạc Pháp “Aller Sans Retour,” mua tấm vé tàu suốt rong chơi miền tiên cảnh.

Người tài hoa phải biết đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, nhưng chưa sành sọi về rượu th́ chưa trọn vẹn. Người sành rượu không phải chỉ biết vị, biết hương của rượu mà c̣n phải nhập vào linh hồn của rượu nữa.

Rượu giúp con người thêm can đảm. Nếu không say rượu th́ có cho kẹo, Lưu Bang cũng không khi nào dám chơi dại cầm gươm chém rắn. Chỉ nhờ lúc có rượu làm liều mà dựng nên sự nghiệp. Rượu gây thêm hào hứng cho kẻ anh hùng đàn ông có rượu vào, khí thế oai minh, thái độ hùng dũng như cờ gặp gió, như lân gặp pháo.

Thứ nhất rượu đă ngà ngà,
Thứ nh́ chàng ở phương xa mới về.

Chàng ở phương xa mới về th́ phải biết đá liên tu bất tận nhưng nói nào ngay đá chẳng được bền. C̣n rượu đă ngà ngà th́ không thể chê vào đâu được đá mạnh, đá bền bĩ, đá đến lúc các bà ngả nón chào thua mới thôi.

Lờ rằng lờ chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu ấy dai đau lờ.

Đấy, thằng say rượu nó hung hăng đến như thế. V́ vậy các bà có kinh nghiệm sống lại thích có một ông chồng say.

Thấy chồng đôi ba ngày không uống rượu th́ t́m cách làm thức ăn ngon bày ra trước mắt. Dân nhậu thấy thức ăn ngon th́ chém chết cũng đ̣i rượu mà đ̣i rượu coi như sụp bẫy các bà.

Đốt than nướng cá cho vàng
Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi.

Dân nhậu có tính thảo ăn. Có thức ăn ngon th́ nghĩ ngay đến bạn hiền. Nếu trong ḷng tâm sự đa mang, có được người bạn hiền để chén chú, chén anh, nỉ non tâm sự th́ c̣n ǵ bằng:

Một ly nhâm nhi t́nh bạn
Hai ly uống cạn ḷng sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly ngồi đâu gục đó
Năm ly cho chó ăn chè
Sáu ly vợ đè cạo gió.

Giai thoại về rượu rất nhiều, không sao kể xiết. Mỗi quốc gia có vài thứ rượu đặc biệt. Rượu Pháp nổi tiếng nhất thế giới như rượu vang Champagne . Ai cũng biết Champange là loại rượu sủi bọt (Sparkling wine) thường dùng trong các cuộc vui như đám cưới, sinh nhật v...v... Napoléon, Hoàng đế nước Pháp đă nói một câu để đời về rượu Champange:

- Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng.

- Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu.

Nho để làm rượu Champange phải là loại Chardonnay (chát trắng) và loại Pinot noir (chát đỏ) của vùng Bourgonge mới số dzách. Mở Champagne cũng là một nghệ thuật. Mở thế nào cho rượu nổ một tiếng pop khá lớn mà rượu không vọt ra ngoài do áp suất của khí carbonique trong chai. Lan man về Champange đă hơi nhiều, người viết xin nói tiếp về rượu Pháp. Ngoài Champange c̣n rượu khai vị như Cointreau, Grand Marnier, rượu mạnh có Martell, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin, thứ nào cũng hết xảy nhưng phải loại XO mới tuyệt cú mèo. Đó là rượu Tây.

Người Tàu coi trọng vấn đề ăn uống. Gặp nhau câu hỏi đầu tiên là: - Lứ chía pừng bị? hay Nị xực phàn m.? hoặc Nị sứ phán mĩ dầu? có nghĩa là Anh ăn cơm chưa? V́ quí trọng miếng ăn nên người Tàu chủ trương miếng ăn, thức uống phải ngon và bổ nên người Tàu nghĩ ra rượu thuốc như: Nhứt dạ lục giao sinh ngũ quỷ. Một đêm lâm trận với sáu bà sinh ra năm thằng quỷ sống, hoặc nhứt long quần ngũ hổ, một con rồng quần với năm chị cọp cái.

Ngoài ra c̣n Mai Quế Lộ, Ngũ Gia B́. Thứ nào cũng cường dương, cũng số dzách.

Nhật bản có Sa-kê. Nga có Vodka, Việt Nam có Whiskyson. Nói lái hai âm ky-song là công xi Rượu công xi Bạc Liêu th́ hết xảy. Rượu đế Phước Long rất nổi tiếng. Chất rượu trong như nước mưa, rót ra, bọt nổi ṿng quanh miệng ly, uống vào nóng muốn cháy cổ. Thở ra nếu ngồi gần vách lá có thể làm cháy nhà như chơi. Ngoài ra c̣n rượu B́nh tây, rượu nếp than. Sau năm 1975 , Việt Cộng mang vào Nam loại rượu cà-phê, rượu chanh, uống như đồ bỏ.

Tôi có một người bạn là Công tử Bạc Liêu, tự pha chế một loại rượu thuốc và đặt tên là Phu ẩm phụ hoà hài tửu. có nghĩa là rượu chồng uống vợ khen. Nếu có văn thi hữu nào viếng nhà Công tử Bạc-liêu, nếm thử vài chung xem đức phu nhân có khen không cho biết.

Rượu ngon, thức nhấm ngon, chỗ ngồi nhậu thoải mái, lại có thêm bạn hiền th́ uống ngàn chung cũng c̣n quá ít.

“Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua là tại không tiền không mua.”

III- MỘT ĐÀN BÀ:

Như trên đă nói, thời tiết có bốn mùa, con người có tứ khoái. Người ta thắc mắc không hiểu tại sao cái khoái thứ ba thường làm người ta điên đảo thần hồn, khốn khổ đến chết lên chết xuống mà vẫn muốn t́m hưởng cho bằng được lại bị xếp vào hàng thứ ba, sau ăn và ngủ? Thật ra cũng chẳng khó khăn ǵ để thắt mắc. Ca dao có câu:

C̣n ăn, c̣n ngủ, c̣n gân,
Hết ăn, hết ngủ, có mần được chi?

Ăn không được, ngủ không được làm ǵ có xí quách mà hưởng cái khoái thứ ba. Ăn không được th́ thác, ngủ không được cũng đi đong. Không hưởng được cái khoái thứ ba tuy có buồn nhưng vẫn sống phây phây, lại không bị đau lưng nhức mỏi. Con người vốn yếu đuối, thường làm nô lệ cho thói quen. Nghiện rượu, nghiện trà muốn bỏ không phải chuyện dễ nhưng theo cụ Tú Xương nghiện rượu, trà ǵ cũng có thể bỏ được, c̣n món đàn bà th́ vô phương: Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. Thế mới biết món đàn bà khó mà thiếu được.

Trà, rượu là sản phẩm của con người. Đàn bà là tác phẩm của Thượng Đế: Giê-hô-va, Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê bèn lấy xương sườn rồi lắp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đă lấy nơi Adam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Adam. (Sáng Thế K. 2: 21, 22.)

Từ lúc Adam có thêm bà Eve để đêm đêm đem gà ra chọi chơi cho đỡ buồn th́ bao nhiêu chuyện khốn nạn xảy ra cho Adam và cũng từ đó bọn đàn ông thất điên bát đảo luôn cho tới bây giờ. Thế mà cũng không ai tởn.

Nh́n lại đời xưa, nụ cười của Đắc Kỷ làm sụp đổ nhà Thương, Bao Tự làm tiêu tan nhà Chu , Dương Quí Phi chỉ mỉm cười cũng đủ làm Đường Huyền Tôn són đái đó là chuyện xưa.

C̣n ngày nay, xếp Edward Kennedy cũng v́ nàng Mary Jo mà thân bại danh liệt. Chú nhỏ Gary Hart cũng v́ cái “ lima ” của chị Donna Rice mà tiêu tùng sự nghiệp. Cả đến các bậc tu hành Jim Baker, Oral Robert, Marvin Gorman và Jimmy Swaggart cũng v́ “cái sự đời” mà sự nghiệp tiêu ma. Thế mới biết, cổ nhân ngày xưa đă nói: Sắc bất ba đào dị nịch nhân. Nhan sắc đàn bà không có sóng mà đánh ch́m được con người.

Nhưng cứ đem đàn bà ra tố khổ là điều bất công. Đàn bà cũng trăm thứ đàn bà. Đàn bà của cụ Tú Xương thuộc loại:

“Đàn bà lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non” nên Tú Xương không bỏ được, lại c̣n được sống trong chế độ ba nuôi:

Nhỏ cha mẹ nuôi, lớn vợ nuôi, già con nuôi.

“Nhỏ th́ nhờ mẹ nhờ cha,
Lớn lên nhờ vợ về già nhờ con.”

Đàn bà như vậy ngu sao mà bỏ. Cái đau là gặp phải loại đàn bà cột t́m trâu, tối ngày ṃ tới đàn ông, chằn ăn, trăn quấn:

“Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
C̣n như yêu vụng nhớ thầm
Họp chợ trên bụng có trăm con người.”

Gặp loại đàn bà như vậy mà vẫn không sao bỏ được mới là tai hoạ. Đời sống tị nạn gặp phải cảnh gái thiếu trai thừa, cộng thêm cái hoạ là phong tục xứ người nữ trọng nam khinh. Lộ tŕnh của các ông cứ dần dần đi xuống cực tiểu, trong khi lộ tŕnh của các bà thênh thang như xa lộ không đèn.

Nếu may mắn chớp được một bà dù đẹp, dù xấu, dù hư, dù nên chắc cũng phải khư khư giữ lấy và cũng bắt chước cụ Tú Xương mà ngâm nga:

Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.

QUÁCH TỐ VƯƠNG

hoanglan22 04-08-2019 03:40

Nhà hàng khỏa thân ở Paris đóng cửa v́ thiếu khách hàng
 
Nhà hàng khỏa thân ở Paris đóng cửa v́ thiếu khách hàng

Hơn một năm sau khi khai trương, nhà hàng khỏa thân đầu tiên của Paris sẽ chuẩn bị đóng cửa vào tháng 2 do thiếu kinh doanh.

O’Naturel khai trương vào tháng 11 năm 2017 tại thành phố ánh sáng, một minh chứng cho sự phổ biến ngày càng tăng của chủ nghĩa tự nhiên ở Pháp.

Nhưng thật không may, nó đă không chứng minh được sự phổ biến như mong đợi, v́ các chủ nhà hàng vừa công bố ngày cuối cùng sẽ vào tháng tới.

"Thật tiếc nuối khi chúng tôi tuyên bố đóng cửa nhà hàng O'Naturel vào thứ Bảy, ngày 16 tháng 2 năm 2019", chủ nhà hàng 42 tuổi Mike và Stephane Saada, tuyên bố, trên The Local.

"Cảm ơn bạn đă tham gia vào cuộc phiêu lưu này bằng cách đến dùng bữa tại O'Naturel. Chúng tôi sẽ chỉ nhớ những khoảng thời gian tốt đẹp, gặp gỡ những người đẹp và khách hàng đă vui mừng chia sẻ những khoảnh khắc đặc biệt."

Khách sạn 40 chỗ ngồi trong pḥng kiểm tra quần áo trước khi được mang đến bàn của họ. Ở đó, họ có thể dùng bữa với giá cao cấp của Pháp, bao gồm vịt foie gras và escargot, hoàn toàn khỏa thân.

Tuy nhiên, nhân viên phục vụ và nhân viên nhà bếp vẫn mặc quần áo v́ lư do vệ sinh, cùng với bất kỳ thanh thiếu niên nào, phải có người lớn đi kèm.

Michelle Gant - BM

hoanglan22 04-11-2019 13:13

30 THÁNG 4 NĂM 1975: NHỮNG KHUÔN MẶT MỸ KHÓ QUÊN
 
4 Attachment(s)


"Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong, bởi v́ ... cái giá phải trả cho loại ḥa b́nh đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ về sau." (TT Ronald Reagan)


Cứ mỗi lần 30/4 về trên đất tha phương là mỗi lần ḷng tôi cũng như bao nhiêu người khác ngậm ngùi thương tiếc những năm tháng cũ ở quê nhà.
Những người trẻ chỉ nghe chỉ biết ngày 30/4/75 là ngày đau thương khóc hận của người dân Việt Nam. Nhưng cũng có những người trẻ đă sống với chế độ cộng sản trong những năm qua th́ không mấy quan tâm đến ngày đau thương khóc hận này. Trong lúc đó một số Việt gian hay VC nằm vùng th́ t́m mọi cách xoá bỏ ngày Quốc Hận này theo chỉ thị của đảng csVN.
AI ĐĂ GÂY RA CHIẾN TRANH VN?
Ngày 4/10/1957 Nga sô loan báo sự thành công khi phóng vệ tinh Sputnick lên quỹ đạo, dẫn đầu trong cuộc chạy đua vũ trang với hỏa tiễn Liên lục địa có kéo theo đầu đạn nguyên tử đă làm các nhà chính trị ở Hoa Kỳ và tinh báo Mỹ rất quan tâm. Sự thắng thế của Nga trên kỹ thuật đầu đạn nguyên tử đă làm cho Nga mang ước vọng bá chủ hoàn cầu. Muốn thống lănh toàn cơi thế giới, Nga cần phải kiễm soát hết vùng Đông Nam Á để từ đó Nga đi lần vào Úc thực thi mộng bá chủ Hoàn Cầu.
HCM bây giờ là chủ tịch đảng CSVN tại Bắc Việt. Đồng thời HCM cũng là một tên tay sai của Cộng Sản Nga và lấy chỉ thị của Nga Sô mở chiến tranh tại Nam VN hầu thực thi mộng bá chủ hoàn cầu của Nga.
Người Mỹ biết được vai tṛ tay sai của HCM và dă tâm thôn tính VN và vùng Đông Nam Á của Nga sô nên quyết định đem quân vào bảo vệ Đông Nam Á hầu ngăn cản mộng bá chủ hoàn cầu của Nga theo vết dầu loang.
Toàn dân VN ai ai cũng biết chính HCM đă gây ra cuộc chiến VN, đă biến quê hương VN làm chiến trường trên sự tranh dành ảnh hưởng bá chủ toàn cầu giữa chiến tranh lạnh của Mỹ và Nga Xô.
SỰ ĐỌ SỨC GIỮA NGA SÔ VÀ HOA KY QUA SIÊU KỸ THUẬT VŨ TRANG.
Song song với chiến trường đẫm máu tại VN, chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga Sô cũng tăng dần nhiệt độ. Mọi người sống trong bối cảnh chính trị lúc bấy giờ, phần đông đều có dự đoán về sự kết thúc của chiến tranh lạnh sẽ phải trăi qua một cuộc chiến tranh nguyên tử, có thể đưa đến sự diệt vong của nhân loại !
Nhưng không, Hoa Kỳ một mặt hổ trợ chiến trường Nam Việt Nam (Cửa ngơ của Đông Nam Á [ĐNA] ), một mặt phải chạy đua trên siêu kỹ thuật vũ trang để cuối cùng Mỹ đă thắng Nga và Nga đă phải chấp nhận thua mà Mỹ không cần đến một cuộc chiến tranh tàn khốc.
TIỀM THỦY ĐỈNH K129: NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN SỰ THẤT BẠI CỦA NGA SÔ TRONG CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH.
Ngày 24-2-1968 (Cái năm này CSVN cho Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân). Chiếc tiềm thủy đỉnh của Nga mang số K129 có mang đầu đạn hoả tiễn nguyên tử, phát xuất từ Hải Sâm Uy (Vladivostok) ở miền cực đông Nga sô, trực chỉ về hướng đông của Thái B́nh Dương. Nhiệm vụ của K129 là phải đạt được mục tiêu, tiến gần đến Mỹ chừng nào tốt chừng đó, nhất là ở Hạ Uy Di để Nga sô có thể uy hiếp Hoa Kỳ bằng hỏa tiễn nguyên tử. Cho dù Hoa Kỳ có muốn bảo vệ hoà binh th́ cũng không dám tấn công Nga. Chiếc tiềm thủy đỉnh nguyên tử K129 có 98 thủy thủ Nga Sô. Khi chiếc tiềm thủy đỉnh K129 của Nga tiến dần vào mục tiêu của Thái B́nh Dương, cả nước Mỹ báo động, t́nh báo Hoa Kỳ báo động. Nhưng trước ḷng biển cả mênh mông Hoa Kỳ có đi t́m chiếc tầu ngầm K129 đă lặn sâu dưới biển cũng lại là một vấn đề.
Biển mênh mông và xa vắng. Lệnh báo động đă được ban hành. Toàn bộ Ngũ Giác Đài và Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ chuẩn bị ứng chiến để tiêu diệt K129. Họ chăm chú vào biển cả theo dơi bất cứ một động tịnh nào.
12 ngày sau khi xuất phát, K129 tiến dần đến cách bờ biển Hoa Kỳ khỏang 1200 dặm về phía Tây Bắc Hạ Uy Di th́ gặp tai nạn.
Một tiếng nỗ làm lũng sườn tàu và chiếc K129 ch́m rất nhanh, đâm thẳng ở độ sâu 4 dặm. V́ ch́m quá nhanh, nên K129 đă không kịp báo động hay kêu cứụ Bộ Tư Lệnh tối cao Nga Sô đă không biết việc ǵ đă xảy ra cho K129. Người Mỹ th́ giữ hoàn toàn im lặng. Im lặng của biển sâu. Họ làm như hoàn toàn không biết chuyện ǵ xảy ra. Trong khi đó Nga Sô không có tin tức rơ ràng về việc K129 đă bị tấn công như thế nào !!!
Nga Sô ṃn mỏi chờ đợi nhiều ngày, nhưng vẫn chỉ là một sự im lặng không hồi âm... Sau đó Nga Sô ra lệnh cho Đô Đốc Nga ông Valentin Betz, chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến hạm nhẹ chạy theo hướng ra đi không trở về của K129. Sau 6 tuần lễ t́m kiếm K129 vẫn biệt vô âm tín. Hạm đội Nga đă trở về tay không. Nga bảo vệ bí mật tầu ngầm và hỏa tiển của họ rất chu đáo. Nhưng trong thâm tâm Nga tin rằng Mỹ đă ra tay, dù Mỹ có làm ra vẽ không biết một điều ǵ... Nga cũng đă thấm thía trọn vẹn sự thất bại của ḿnh. Nga vẫn mang nỗi hoài nghi về Mỹ qua chiếc tiềm thủy đĩnh K129 . Bởi trong chiến tranh lạnh cũng cần nói đến chiến tranh kỹ thuật. Ai nắm được kỹ thuật của ai về vấn đề nguyên tử hay tầu ngầm tức là kẻ đó đă thắng. (The Amazing Story Of K129). Năm 1989 khi Nga thả Tiềm Thủy Đĩnh K129 là để trắc nghiệm thử coi Mỹ có nghiên cứu và nắm vững kỹ thuật nguyên tử tàu ngầm của Nga không? Nga đă vỡ lẽ ra đă thua canh x́ phé ở cuộc chiến VN và K219 đă bị Mỹ theo dơi ngay từ khi xuất phát, Kỹ thuật của Mỹ cũng đă quan sát được những sinh hoạt trong chiếc tầu K219 . Cuốn phim The Hunt For Red October có diễn tả sự kiện này. Gorbachev và Yeltsin đă phải chấp nhận thua Mỹ trong cuộc chiến tranh Lạnh.

Mỹ biết chính xác nơi chiếc tàu ngầm K129 bị ch́m, và một khoảng thời gian sau đó đă âm thầm cho tàu trục vớt mang nó về Mỹ để nghiên cứu mọi kỹ thuật về tàu ngầm, về hỏa tiển mang đầu đạn hạt nhân của Nga và toàn bộ mật mă điều khiển các hỏa tiển này


VIỆT NAM CỘNG HOÀ TRONG CANH BẠC GIỮA NGA VÀ MỸ
Đầu tuần tháng 3/1968. Nga thấm thía nỗi mất mát Tiềm Thủy Đĩnh K129 trong khi đó ngày 20/3/1968 Tổng Thổng Johnson cử Đại tướng Wheeler đi thăm chiến trường VN. Ngày 31/2/1968 tổng tấn công tết Mậu Thân của VC hoàn toàn bị tiêu diệt. Quân đội đồng minh Mỹ và VNCH chiếm lại thành phố Huế sau 30 ngày thất thủ. Tuy vậy, TT Johnson đă đọc một bài diễn văn tuyên bố chấm dứt oanh tạc Bắc Việt vô điều kiện. Tổng Thống Johnson kêu gọi Anh Nga can thiệp để mở cuộc hoà đàm nhưng Nga vẫn không chịu. Nga nghĩ rằng Mỹ đă vồ được K129 nên giả vờ hàng ở VN để rănh taỵ
Mỹ đă đọc được sự suy nghĩ của Nga nên đă dàn dựng không biết bao nhiêu chiến thuật như những tài liệu của Ngũ Giác Đài tuyên bố thua phải rút quân. Ưu đăi CSVN rất nhiều điều kiện như việc Đinh Bá Thi và phái đoàn CSVN vào LHQ quan sát... Nga vẫn bán tin, bán nghi về Mỹ nên nhất quyết không cho CSVN ngồi vào bàn Hoà Đàm Ba Lê.
Trong khi Mỹ năn nỉ ỉ ôi Trung Cộng giúp đỡ cho Mỹ thoát khỏi băi sa lầy tại Nam VN. Cũng cùng lúc đó Mỹ đă nhận thức sự chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH nên đă dùng thủ đoạn bó tay người lính VNCH trên chiến trường trực diện bằng cách cắt bỏ viện trợ không tiếp tế súng đạn để đồng minh VNCH ra chiến trường bằng những vũ khí xa xưa trong thời đệ nhị thế chiến để đối đầu lại với sức mạnh vũ bảo của những vũ khí tối tân của Nga Sô và Trung Cộng.
Khi người Mỹ đă được ngồi vào bàn Hoà Đàm Ba Lê để rút chân ra khỏi Nam VN trong danh dự th́ họ quên ngay người bạn đồng minh đă từng sánh vai sát cánh bên nhau bảo vệ tự do cho Đông Nam Á.
Ngày kư Hoà Đàm Ba Lê chưa ráo mực th́ VC bất chấp mọi kư kết đem quân xâm lăng Nam VN trước sự phủi tay trắng trợn của Đồng Minh.
Trong những ngày gần đến 30 thang 4 dân chúng miền Trung chạy loạn vào Nam t́m đường trốn VC. Những chiếc ghe bé bỏng ngoài biển khơi Đà Nẳng, những chiếc phà bên bến Sơn Chà là những nơi con dân miền Trung chết thê thảm trên đường trốn chạy.
Từ Đà Nẵng tháng 3 sông nước ngậm ngùi dân chúng t́m đường chạy vào Saigon, Nha trang. Người dân bồng bế nhau t́m đường sống cố thoát ra khỏi mọi tăm tối mà VC sắp vào. VC nhă súng đạn vào người dân. Những con đường mang đầy thân xác người dân Nam VN nằm ngỗn ngang trên đường phố. VC vào, nhà tan cửa nát . Không biết bao nhiêu cảnh thương tâm xảy ra trong một ngày mất nước. Cha mẹ con cái ĺa xa nhau không biết bao giờ gặp lại. Người dân bỏ nước ra đi trên những thuyền bè bé nhỏ cho dù đă biết có ra đi cũng sẽ chết. Biển đêm đêm vọng về lời than khóc ai oán cho những thân xác bỏ ḿnh trong biển sâu. Trời cũng khóc, đất cũng than cho sự tàn ác của VC . Sống và chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Khăn tang và hương khói ngút ngàn trong ngày mất nước. Cả nước Nam VN khóc, hận, đoạn, ĺa, chia cắt. Một ngày mà cả nước cùng khóc cùng hận trên sự tham tàn của bọn rừng rú răng hô mă tấu giết người. MỘT NGÀY QUỐC HẬN. MỘT NGÀY 30/4/1975.
Đă vậy cũng chưa hết. Khi những người VN tỵ nạn đến Mỹ qua Đạo luật hổ trợ người di cư và tị nạn Đông Dương, được thông qua vào ngày 23 tháng 5 năm 1975, dưới thời Tổng thống Gerald Ford, như là một hành động đền bù đối với sự sụp đổ của Sài G̣n và chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Đợt đầu hơn 700,000 người đă đến tỵ nạn tại Hoa Kỳ sau khi Mỹ bỏ rơi Nam VN, th́ … cũng vào lúc đó người tỵ nạn Việt Nam vào Mỹ bị Đảng Dân Chủ ra tay ngăn chận.




Thống Đốc Dân Chủ Jerry Brown là người đă chống phá việc Người VN vào Mỹ tỵ nạn. Ông cấm không cho người tỵ nạn Nam VN vào tiểu bang California trong thời gian đầu tiên ông làm Thống Đốc tại đây. Ông ngăn cấm người Việt tỵ nạn vào đây trong khi ông im lặng trước sự xâm nhập của dân Trung Mỹ , Nam Mỹ hay từ Mexico. Trong khi đó Jerry Brown đă ra sức ngăn cản máy bay chở người Việt tỵ nạn xuống căn cứ không quân Travis gần Sacramento.



Ngoài Jerry Brown c̣n có Thượng Nghị Sĩ Joe Biden đă phàn nàn chính quyền Ford tại sao lại cho dân tỵ nạn VN vào định cư ở Mỹ. Cả hai ông đảng Dân Chủ Jerry Brown và Joe Biden đă từng tuyên bố là : “Một cách tốt hơn hết là để người VN ở lại VN".
Những người trong đảng dân chủ không muốn cho dân tỵ nạn VN vào Mỹ và người Tỵ nạn VN cũng nhớ rất rơ ràng về sự việc này. Hôm nay Joe Biden ra tranh cử vào nhiệm kỳ 2020, liệu ông ta có c̣n nhớ lại hành vi tàn bạo bất nhân của ông ta khi từ chối dân tỵ nạn VN do Mỹ bán đứng cho Cọng Sản giết và cầm tù được vào Mỹ hay không ?
C̣n người Việt Nam Tỵ Nạn cộng sản chắc chắn sẽ không bao giờ quên sự đau thương về nhà tan cửa nát, về sự tráo trở của Đồng Minh và nhất là về sự tủi nhục bị hất hủi từ chối của TNS Joe Biden, Jerry Brown của đảng Dân Chủ./.

Tôn Nữ Hoàng Hoa

hoanglan22 04-19-2019 04:13

Đời Cải Tạo: Cái Khó Ló Cái Khôn
 
1 Attachment(s)
Tôi bị nhốt tám năm trong ngục tù Cộng Sản, được mệnh danh một cách mỹ miều là Trại Cải Tạo. Trong tám năm đó, ngoài sự hành hạ của đám cai tù, chúng tôi c̣n bị thời tiết khắc nghiệt và những con vật và kư sinh đáng ghê sợ hành hạ để bổ túc thêm nỗi đoạn trường cay đắng mà con người trong chốn lao tù này phải chịu đựng, chẳng thua ǵ một con vật.

Trong phạm vi bài này, tôi chỉ tŕnh bày giới hạn một vài khía cạnh 'khôi hài đau ruột' về sự vật lộn, tranh sống giữa người và vật để sinh tồn trong hoàn cảnh đói khát giống nhau. Lẽ tất nhiên con người phải hơn con vật, v́ con người có đủ trí khôn để khống chế, đè bẹp những con vật nào muốn lợi dụng hoàn cảnh ngặt nghèo để uy hiếp, tấn công đối thủ với mục đích tàn phá cơ thể cũng như những ǵ con người sở hửu.


SỰ VẬT LỘN GIỮA NGƯỜI VÀ RỆP

Trong những ngày tháng đầu tiên, khi bước chân vào trại tù, chúng tôi đă rất khổ cực về thể xác lẫn tinh thần, phần v́ suốt đêm trằn trọc lo nghĩ về thân phận, về gia đ́nh, phần v́ phải đối phó với lũ rệp đông đảo không thể tưởng tượng được. Hằng đêm, chúng tôi đă phải ngồi dậy bắt rệp, bằng cách bóp nát chúng giữa hai ngón tay và đưa lên mũi ngửi mùi máu tanh tưởi của chính ḿnh, như là một hành động phản xạ một cách xót xa của lư trí, khí thấy từng giọt máu của ḿnh bị con vật hút đi, thay vào đó là những mầm mống bệnh tật.

Trong thời kỳ đói kém của những năm đầu sau 75, C.S đă bắt chúng tôi lao động cật lực để tự túc, chứ không hề có một sự giúp đỡ nào từ bên ngoài. Suốt ngày, chúng tôi hết đào hố sắn từ đồi này qua đồi nọ, lại 'nên nuống trồng nang trồng nạc' (lên luống trồng lang trồng lạc), theo một chỉ tiêu của loài vật. Do đó, tối đến là chúng tôi ră rời thân xác, chỉ mong nằm xuống để ch́m ngay vào giấc ngủ mệt nhoài, không c̣n sức lực nào để giết rệp như những ngày đầu mới nhập trại. Thế là, bọn tàu lặn, mặc sức tung hoành, nhậu nhẹt đến căng bụng những giọt máu vốn rất hiếm hoi của những người tù bất hạnh!
Những tên ḅ sát này rất khôn ngoan, cũng như những người lính biệt kích được huấn luyện rất tinh nhuệ. Chúng 'di tản chiến thuật' rất tài t́nh. Khi trời vừa sáng, trước khi tiếng kẻng đánh thức chúng tôi dậy lúc năm giờ, th́ chúng đă kịp 'lặn' sâu vào vào những hang động, nơi địa h́nh hẻm hóc, nằm im chờ đến hôm sau lại ḅ ra 'nhậu' tiếp, chỉ c̣n vài ba tên cố bám, hoặc v́ nhậu no quá không kịp đào thoát, c̣n bám trên mùng mền, nên bị chúng tôi hành quyết tại chỗ.

Chúng tôi biết chắc lũ rệp phải mất một thời gian để len lỏi từ điểm khởi hành đến nơi ăn nhậu. Chúng phải chui qua mùng, lội ngược lên chiếc chiếu, chiếc mền, rồi mới đến cơ thể của chúng tôi. Biết được lộ tŕnh của địch, chúng tôi liền dựng lên chiến luỹ 'Magino' để ngăn bước tiến của quân thù, hoặc ít ra cũng kéo dài thời kỳ tiến quân của chúng cho đến sáng.

Miền Bắc mùa Đông trời rất rét, nên chúng tôi được phát mỗi người một tấm mền dày, cộng thêm của riêng của chúng tôi, gồm một vài tấm mền mỏng hoặc tấm ra, và một số bao cát, dùng làm vật chắn, thế là chúng tôi có đủ vật liệu để xây thành. Những chiếc mền này chỉ để xử dụng ngăn lũ rệp vào mùa hè, c̣n mùa rét th́ dùng để đắp, v́ rệp thường ngủ yên, không hành quân vào mùa này.

Công việc xây chiến luỹ cũng đơn giản thôi. Trước khi nằm xuống, chúng tôi cẩn thận nhét mùng thật sâu dưới chiếu, một cái mền được xếp rộng hơn, phủ lên chiếc chiếu làm tấm bia thứ nh́, chiếc mền thứ hai, rộng hơn nữa, phủ lên chiếc mền thứ nhất...sau hết, chúng tôi dùng những bao cát chận lên những chiếc mền, đến đây xem như chiến luỹ Magino hoàn tất. Kết quả thật không ngờ, chỉ c̣n mười phần trăm quân du kích lọt qua được chiến luỹ của chúng tôi mà thôi! Mà khi chúng vào lọt được rồi, th́ trời cũng sắp sáng, chúng chưa kịp làm ăn ǵ th́ đă bị chúng tôi phát hiện và giết gần sach, v́ chúng thường bám lấm tấm trên mùng, nên rất dễ thấy.

Chúng tôi biết 10% tên này cũng đă phải vất vả, lội suối băng đèo suốt đêm mới tới đích, chắc chúng cũng đă mệt lả rồi! Thật đúng là một sáng kiến, mới nghe qua rất là khó tin, nhưng thật sự chúng tôi đă thành công tốt đẹp. Cái khó đă ló cái khôn, và cái khôn này đă tiết kiệm cho chúng tôi ít nhiều xương máu trong những ngày tháng dài đăng đẳng của kiếp tù đày. Chuyện rệp c̣n dài, nhưng chúng tôi xin tạm ngừng nơi đây, v́ con ruồi đang chờ.

TRÁNH DƠ CHẢ XẤU MẶT NÀO

Ở Hoàng Liên Sơn, trong rừng sâu, có một loại ruồi, mà khứu giác của chúng, có thể nói là nhạy hơn loài chó săn. Chúng có màu nâu đen, nhỏ hơn ruồi xanh một tí, nhưng lại bay nhanh kinh khủng. Tôi mô tả đoạn này hơi khó khăn, v́ phải bàn đến cái thứ mà ai nghe cũng nhăn mặt, bịt mũi. Nếu không được thơm, xin độc giả miễn thứ cho, v́ đây là sự thật.

Khi lao động ngoài đồng, nếu có 'nhu cầu tống xuất' đ̣i hỏi, th́ tù nhân chỉ việc vác cái cuốc đến gặp cán bộ quản giáo (chúng tôi c̣n gọi là cán bộ súng ngắn, tŕnh độ tiểu học, lo về 'bát nháo dục'), hoặc cán bộ quản chế (cán bộ súng dài, lo về việc chế ngự tù vượt ngục), đứng thẳng người hô to: 'Báo cáo cán bộ, tôi đi ngoài'

- 'Được!', tên cán bộ đáp, nghe rất oai phong lẫm liệt!

Thế là người tù ung dung, thụ hưởng cái mà chúng tôi cho là một đặc quyền đặc lợi, không thể bị từ chối, dù lúc đó nhu cầu không đ̣i hỏi. Ai dại ǵ bỏ qua! Tại sao không hưởng thụ mươi mười lăm phút ngồi xả hơi trong bóng mát, không làm ǵ, hoặc làm một việc nhẹ nhàng, mà các 'chú' cho là một trong tứ khoái, thay v́ phải cuốc lia cuốc lịa theo chỉ tiêu, dưới ánh nắng chảy mỡ, và dưới những cặp mắt cú vọ của những tên cai tù ngu dốt và hách dịch.

Nhưng khốn khổ thay, từ khi chúng tôi 'move' đến khu rừng này, th́ một loài không tặc ở đâu bay đến cướp mất cái đặc quyền 'tự khoái' độc nhất của chúng tôi, biến những giây phút thần tiên thành địa ngục! Sự ung dung, thoải mái không c̣n nữa, mà trở thành vội vă và bất đắc dĩ! V́, sau khi 'an toạ' hưởng nhàn một vài phút, để chuẩn bị 'thả bom' xuống cái hố nhỏ mới đào xong, th́ bỗng nghe 'vù' một âm thanh, cùng một luồng gió chướng từ đâu bay đến: một sư đoàn Mig-19 ào ạt tấn công hố bom chúng tôi vừa thả, đồng thời chúng hạ cánh bừa lên chỗ phát xuất những trái bom!

Thế là anh phi công cứ phải nhỏm lên, nhỏm xuống, tay quơ lia lịa v́ nhột nhạt và sợ bị dính bom! Thế th́ c̣n ǵ là khoái lạc, là êm đềm, là thưởng thức, là thoải mái, là v.v...và v.v...? Thà lao động cực nhọc c̣n hơn!

Nhưng, một lần nữa, cái khó ló cái khôn, lại đến với chúng tôi. Để bảo vệ cái đặc lợi Trời cho, chúng tôi dùng một chiến thuật, gọi là 'điệu hổ ly sơn' để đối phó với lũ không tặc mất vệ sinh này: Chúng tôi đào hai hố bom! Các bạn hiểu rồi chứ? Sau khi quả bom cuối cùng được thả ra ở hố bom thứ nhất ( bom 'bo bo' chưa lột vỏ, nên 'đi' rất nhanh), chúng tôi 'di chuyển chiến thuật' qua hố bom thứ hai ngay. Tất cả lũ không tặc đều tập trung ở hố bom thứ nhất, để yên cho người phi công thưởng thức cái 'bất chiến tự nhiên thành' của ḿnh, vừa hút gió vừa nh́n lũ tham ăn một cách khoái chí. Sau điệp vụ thả bom, cây cuốc được dùng đến để lấp cả hai hố bom, khiến một số đông phi đoàn Mig-19 bị vùi thây dưới hố v́ mải lo nhậu nhẹt!

CHUỘT GẶM THỊT NGƯỜI, NGƯỜI NHẬU THỊT CHUỘT

Ngoài việc truyền bệnh dịch hạch ra, chuột c̣n phá phách, ăn vụng không biết bao nhiêu là quà cáp của tù nhân, trong những ngày đầu tiên, khi chúng tôi được nhân quà, sơ sài đựng trong bao nylon hoặc bao giấy.
Hai năm đầu tiên, khi chúng tôi chưa được gởi quà, thăm nuôi, th́ không thấy bóng dáng chuột, chẳng hề bị phá phách quầy rầy ǵ cả, v́ chẳng ai có ǵ để cho chúng phá! Vào mùa Đông, đi vào bất cứ một căn nhà nào ( thường được gọi là láng), vào ban đêm, bạn sẽ có cảm tưởng như đi vào nhà xác vậy. Hai dăy giường dưới và hai dăy giường trên, lối đi ở giữa, gồm toàn những tấm thân trùm mền kín mít, im ĺm, bất động. Cái đói và cái rét cắt da đă biến chúng tôi thành những thây ma, suy tư rất nhiều, nhúc nhích rất ít. Người đói, chuột đói. Người lạnh, chuột lạnh, nên không ai đủ sức hại ai.

Nhưng đến khi những món quà ba kí, rồi mười kí, rồi cả tạ được gởi vào, th́ bầu không khí cả trại tù bỗng sôi động hẳn lên, không c̣n vắng lặng, im ĺm, chết chóc như xưa. Hoàn toàn thay đổi 180 độ. Thuốc lào kêu rét rét cả đêm, đó đây tụm ba tụm bảy, ngồi kể chuyện Tàu, chuyện tiếu lâm, ăn nhậu những thức ăn chế biến rất kỳ quái, nhưng lại ngon đáo để. Thỉnh thoảng lại bỗng vang lên những tiếng cười sảng khoái...Thật là 'có thực th́ cà giựt cà tàng, không thực th́ nằm đực một đống'!

Nhưng đây cũng là lúc lũ chuột ra tay hành động! Những gói quà đầu tiên đều là nạn nhân của chúng, mà từ lâu im ĺm lặng lẽ, nay bỗng vùng dậy một cách mănh liệt, v́ những thức ăn quá hấp dẫn, thơm lừng, bỗng xuất hiện trong một vùng trời nghèo đói, thức ăn hằng ngày chỉ là muối rau, khoai sắn, con người không đủ ăn, đừng nói đến loài chuột!

Không có cách nào bảo vệ an toàn hơn những món quà yêu quư bằng cách là mang chúng vào ngủ chung trong mùng với ḿnh, hoặc làm gối kê đầu, hoặc ôm vào ḷng như ôm 'người t́nh trong mộng' vậy! Chỉ có cách đó mới thoát khỏi lũ chuột tinh quái, đă làm rách nát, vung vải và thất thoát 'nguồn sống' của chúng tôi trong những ngày đầu bất ngờ và chưa kinh nghiệm. Thế mà lũ chuột vẫn chưa chịu thua, chúng chờ đến nửa đêm, ṃ đến bên giường chúng tôi ngủ, khi th́ cắn lộn ngón chân, khi th́ gặm nhầm vành tai, cứ tưởng chúng là những miếng thịt 'dăm bông' hay là 'xúc xích' chưa đóng hộp! Ghê thay cho lũ chuột táo gan! Cũng v́ đói và sự thèm khát con khô con thiều quá mạnh mẽ biến chúng thành những con vật liều mạng, không biết sợ hăi là ǵ!

Tuy nhiên, những gói quà kế tiếp không c̣n đựng trong trong bao b́ nữa, tất cả những thức ăn đều được vô lon hết. Chúng tôi đă báo động cho thân nhân biết để dấy lên phong trào 'lon gô', một thứ lon đựng sữa bột 'guigoz' cho trẻ em, vô cùng thực dụng. Nó vừa nhẹ, vừa bền, rất tiện việc đựng thức ăn và làm nồi để nấu nướng, nóng rất nhanh, v́ chất nhôm dẫn nhiệt rất lẹ. Nhà sản xuất lon 'gô' ở Pháp đâu có ngờ đă cho ra đời một sản phẩm vô cùng quư báu cho đám tù nhân chúng tôi! Xin chân thành cám ơn và hoan hô hăng sữa bột hiệu Guigoz! Những chiếc lon màu trắng bạc xinh xắn, nhẹ nhàng này đă khoá mơm lũ chuột thật sự có hiệu quả, v́ hằng đêm chúng tôi vẫn nghe tiếng sột sột do lũ gặm nhấm cào cắn, nhưng lon gô đủ bền để chống lại những chiếc răng sắc nhọn của lũ chuột.

Khi chúng tôi có đầy đủ gia vị, th́ phong trào bắt chuột lại được dấy lên, thứ nhất để tiêu diệt mầm mống bệnh dịch, thứ hai là ít ra chúng tôi cũng hấp thụ được ít nhiều chất 'protein' để bồi bổ cơ thể đang thiếu hụt chất thịt. Chuột gặm thịt người, người nhậu thịt chuột! Rơ là 'có qua có lại mới toại ḷng nhau!'

SỤC BÙN VỚI ĐỈA

Hai chữ 'sục bùn' có vẽ lạ lẫm đối với người miền Nam, nhưng miền Bắc th́ ai cũng biết, v́ đây là công việc làm tốt cây lúa non, vô cùng lạc hậu và cực nhoc, chỉ có các nước C.S mới áp dụng cho người dân của họ: Khi cây lúa mọc cao khoảng một hai gang tay, gốc cây cần được vun xới và nhổ cỏ xung quanh gốc, thay v́ dùng cào nhỏ để làm công việc này, th́ cai tù lại bắt chúng tôi phải dùng hai tay để bóp nắn và nhổ cỏ từng gốc một, như thể làm 'massage', cho cây lúa được khoẻ mạnh chóng lớn! Muốn làm công việc này, th́ chúng tôi phải sắp hàng ngang, bắt đầu từ bờ ruộng bên này, khom ḿnh xuống, vừa đi tới vừa dùng hai tay, ôm từng gốc cây, cứ thế mà bóp và nhổ cỏ, sang bờ ruộng bên kia, mới được nghỉ một vài phút trước khi tiếp tục công việc hành hạ những tấm lưng c̣m rời ră, mỏi nhừ!

Việc sục bùn đă vất vă lắm rồi, lại cộng thêm nỗi ghê sợ đeo đuổi theo từng bước chân của người tù với những con đỉa to có, nhỏ có, tuôn ra khi nước bùn bị khuấy động, từ chỗ nước trong, từ hẻm hóc, bờ bụi hướng về mục tiêu di động để hút máu no nê, bụng căng phồng. Ngày đầu tiên, có những tù nhân ngại ngùng, ghê sợ, không dám bước xuống ruộng, th́ đă có cán bộ súng ngắn súng dài quát tháo, ép buộc, doạ nạt : 'Này, mấy anh kia! muốn ở đây suốt đời hả? Lao động không tốt th́ đừng mong về sớm nhá!' Thế là, không có cách nào khác, những người tù kia cũng đành nhắm mắt đưa cả chân cả tay cho lũ 'ma cà rồng' dưới nước thoả măn nhu cầu của chúng.

Có anh tù nhân, v́ quá ghê sợ con vật, liền lật đật lấy chiếc quần dài mặc vào, nhưng v́ hơi lính quưnh, đưa cả hai chân vào một ống quần nên mất thăng bằng, té cái ùm xuống ruộng lúa, nước lúp xúp ngang ống chân, khiến các tên cán bộ cười ngặt nghẽo một cách khoái trá. Riêng chúng tôi, khi nh́n hoạt cảnh này, không ai cười nổi, ngược lại trong ḷng cảm thấy một nỗi xót xa, cay đắng và căm hờn. Cách tốt nhất chúng tôi học được, để lôi cổ con đỉa ra khỏi da thịt chúng tôi, là dùng nước miếng nhổ vào bàn tay, bôi vào hai cái ṿi của nó, và giật nó ra, nhờ chất nhờn của nước miếng, con đỉa không c̣n bám được vào da thịt nữa, tuy nhiên, máu đă thấy rỉ ra và con vật vẫn có đủ thời giờ để đánh chén một bụng no sau nhiều lần cố bám. Thật đúng, 'lao động là vinh quang' cho loài đỉa, biến những gốc lúa thành những củ khoai ḿ, bo bo cho tù nhân, và những bát cơm cho giới lănh đạo, v́ chúng tôi làm ǵ mà được ăn thứ xa xỉ này, mặc dù hạt gạo do chính đôi bàn tay chúng tôi làm nên!

Ngoại trừ những con vật đáng ghét như trên đă nêu, tôi chỉ đưa ra một con vật đáng thương nhất trong tù, đó là con trâu. Suốt đời bị đày đoạ làm việc nặng nhọc, nhất là vào mùa lúa, ngoài sự vất vả cày bừa hết ruộng này qua ruộng nọ, lặn hụp dưới bùn lầy, con trâu là một miếng mồi ngon vỗ béo cho lũ kư sinh hút máu. Không có ǵ đáng thương hơn khi nh́n chúng trên bờ ruộng, với dáng điệu hiền lành chịu đưng, trong khi dưới bụng chúng, ḷng tḥng năm ba con đỉa, to bằng ngón tay cái, dài khoảng nửa tấc, gọi là đỉa trâu, mà lần đầu trông thấy, ai cũng muốn nổi gai ốc! Tội nghiệp hơn ở chỗ con trâu đă không hề hay biết, hoặc có biết đi nữa th́ cũng bất lực chịu đựng trước sự tấn công tàn nhẫn của những chiếc ṿi, hút tỉa những giọt máu tươi quư giá nhất trong cơ thể của nó, vốn đă gầy c̣m! Cuối cùng, đau đớn thay, những con trâu này lúc về già, trở thành vô dụng, liền bị đem ra xẻ thịt làm thức ăn cho con người trong những ngày lễ lạc tết nhứt (ngoài Bắc ăn thịt ḅ là một thứ đại xa xỉ, chỉ dành riêng cho giới giàu có hoặc cán bộ cao cấp.

‘SÁNG TAI HỌ ĐIẾC TAI CÀY'

Tuy nhiên, điều tôi muốn nói ở đây, không phải là kiếp đoạ đày của con trâu ( thật ra sống trong ngục tù C.S, con người cũng chẳng khác ǵ con trâu), mà là cái khó đă ló cái khôn ở con trâu, mà con ḅ không có. Người ta nói ngu như ḅ, chứ không ai nói ngu như trâu! Tục ngữ ta có câu 'sáng tai họ, điếc tai cày', có làm việc chung với trâu, tôi mới thấy câu ngụ ngôn này sao mà đúng thê! Này nhé, khi điều khiển trâu để cày hay bừa một thửa ruộng, ta phải biết dùng ngôn ngữ của trâu để hướng dẫn nó đi cho đúng đường. Chẳng hạn như 'tắc' là đi, 'ḥ' là đứng lại.

Một điều mà tôi thấy rất rơ là con trâu khi nghe 'ḥ', th́ nó đứng phắt lại ngay, không đợi đến tiếng thứ hai, nhưng khi nghe 'tắc', th́ phải lập đi lập lại vài ba lần, nó mới chịu đi, nhất là khi mêt, nó đâm ra nghễnh ngăng, như bị lăng tai, phải dùng roi bổ túc cho lời nói, nó mới chịu nghe! Một điều lạ nữa, là khi nghe tiếng kẻng nghỉ giải lao, th́ đố ai bảo nó được, dù bạn có hét lên ầm trời 'tắc...tắc...tắc' để nó cày cho xong nốt một đoạn đường ngắn mấy bước nữa, th́ nó làm như điếc hẳn, không c̣n thính giác nữa! Ngay cả việc dùng roi quất mạnh vào mông, cũng chẳng ăn thua ǵ! Chắc nó cũng muốn hét lên 'give me a break!' nếu nó biết nói tiếng người! Chúng tôi đành chịu thua.

Kết Luận

Đă có nhiều tác giả viết về ngục tù C.S với những khía cạnh khác nhau, ở đây tôi chỉ đề cập một cách bi hài về những con vật đă làm tăng thêm nỗi thống khổ mà người tù đă chịu đựng. Trong hoàn cảnh đó, người tù đă nghĩ ra những biện pháp đơn sơ nhưng không kém hữu hiệu để làm giảm nhẹ bớt nỗi cơ cực hằng ngày.

Cái khó bó cái khôn, nhưng nhiều lúc cái khó cũng ló cái khôn để con người có thể vượt qua mọi trở lực để sinh tồn.

LẠC NHÂN

hoanglan22 04-19-2019 04:47

Việt Cộng con và con của linh VNCH
 
Kính chuyển cho Quí Vị đọc để cùng hảnh diện tinh thần cao quí của những anh hùng Biệt Kích và tấm ḷng vàng của các Chị "Vợ Cải Tạo" người miền Nam đối với người miền Bắc sau 1975 !
NTN
******************** **********


“VIỆT CỘNG CON”

NGUYỄN KHẮP NƠI.

Viết theo lời kể của một cô gái người Bắc.

Đương nhiên, tên của tôi không phải là “Việt Cộng Con” rồi.

Và tôi cũng không phải là Việt Cộng, xin bảo đảm một trăm phần trăm.

Tên tôi là Trinh, Trần Thị Ngọc Trinh. Tôi lấy chồng là một người Lính Việt Nam Cộng Ḥa. Con trai tôi tên là Nam, cháu nay đă được năm tuổi rồi. Mỗi lần về thăm nhà, cháu luôn luôn hănh diện khoe với ông bà ngoại:

“Ông ơi, bà ơi, cháu là con của Lính Cộng Ḥa đấy.”

Tức là, tôi không có dính dáng ǵ đến Việt Cộng cả. Vậy th́ tại sao tôi lại có cái tên... “Việt Cộng Con”?

Theo lời bố tôi kể lại, bố mẹ tôi quê quán ở Phú Thọ, sau chuyển về Hà Giang. Đến năm 1979 th́ mới về Hà Nội ở. Lúc đầu, gia đ́nh tôi không có "hộ khẩu", phải sống tạm bợ ở gầm cầu. Hàng ngày, ba mẹ tôi đi ra chợ, bến xe hàng hay là bến xe lửa xuyên Việt đứng chờ công việc làm, ai nhờ việc ǵ th́ làm việc nấy, thông thường là khuân vác, đẩy xe, cưa cây... Kiếm được việc làm không phải dễ, v́ ba mẹ tôi là dân mới tới, thường bị đám người sống lâu năm ở chợ tranh dành đuổi đi đừng ở nơi xa chứ không cho đứng ở gần chợ.

Một hôm, có một đoàn người gồm đa số là đàn bà từ miền Nam vào, nhờ đẩy hàng đi Hà Giang. Hà Giang cách Hà Nội cả trăm cây số, đám đầu nậu không biết địa thế, hơn nữa, v́ Hà Giang gần núi, có nhiều sơn lam chướng khí, nên không ai dám nhận đi hàng, bọn chúng mới gọi bố mẹ tôi đến mà bố thí cho việc làm. Tưởng đi đâu chứ Hà Giang th́ bố mẹ tôi sống ở đó từ nhỏ, biết từng góc rừng, từng con đường ṃn xuyên qua núi. Th́ ra đó là những người vợ, con của Lính Cộng Ḥa bị đi tù cải tạo. Từ Hà Nội đến Hà Giang th́ có xe hàng, nhưng từ Hà Giang tới các trại tù th́ phải gánh hàng đi bộ nhiều ngày mới tới.

Bố mẹ tôi chịu cực khổ đưa những người khách hàng đến tận nơi, chờ họ gặp người thân xong xuôi rồi lại đưa họ trở về ga Hàng Cỏ Hà Nội. Những người này cám ơn bố mẹ tôi và tặng tiền nhiều lắm. Sau chuyến đi đó, bọn đầu nậu đứng bến có vẻ nể nang bố mẹ tôi, không dám dành mối như trước nữa. Thực ra, cũng v́ không có đứa nào biết đường đi nước bước ở Hà Giang và những vùng xa xôi có trại tù cải tạo, nên bố mẹ tôi hầu như được độc quyền đưa đón thân nhân những người tù cải tạo. Những người này vừa tử tế lịch sự, vừa cho tiền thưởng khá, v́ thế, cuộc sống của gia đ́nh tôi mới đỡ vất vả. Nhờ có ít tiền, bố mẹ tôi mới... mua được hộ khẩu ở Hà Nội và cho anh em chúng tôi đi học. Trong thời gian đưa đón những người Miền Nam này, bố mẹ tôi đă được họ tin tưởng, vui vẻ nói chuyện và c̣n chỉ dẫn cách nấu những món ăn ở Miền Nam, như là bánh xèo, bánh phồng tôm, chả gị... Đă có một lần, một nhóm người v́ phải mang theo nhiều hàng, lại già yếu bệnh tật, nên đă nhờ bố mẹ tôi vào Nam để mang hàng từ đó ra ngoài Bắc cho họ. Nhân dịp này, họ đă đưa bố mẹ tôi đi chợ mua những món hàng cần thiết và đăi bố mẹ tôi ăn một bữa no say.

Đến khi những người đi thăm thân nhân tù cải tạo vơi đi dần, bố mẹ tôi liền giải nghệ mà mở một quán ăn nhỏ, chuyên bán những “Món Ngon Miền Nam”. Thời gian đó, bất cứ món hàng nào có xuất xứ "Miền Nam" đều được dân miền Bắc thèm muốn, mua bằng hết, từ cây kim sợi chỉ, nói chi tới những Món Ngon Miền Nam. Cửa hàng của bố mẹ tôi v́ thế mà lúc nào cũng đông khách.

Học xong đại học, tôi xin đi làm cho chính phủ, thời gian rảnh th́ phụ bố mẹ tôi trông coi công việc. Cửa hàng bán những món ăn Miền Nam của bố mẹ tôi càng ngày càng phát triển, không những chỉ bán hàng ăn, bố mẹ tôi c̣n mở công ty, mua nhiều loại hàng ở Miền Nam đem ra Bắc bán nữa.

Trong thời gian làm việc, tôi đă được tiếp xúc với một số bạn bè đi du học trở về, đa số đều nói ngoại ngữ rất khá, và đều vào Sàig̣n làm việc, chứ không chịu ở lại ngoài Bắc, dù rằng Hà Nội mới là thủ đô. Tôi bắt chước bạn bè, xin bố mẹ tôi cho vào Nam làm việc, nhân tiện làm đầu cầu mua hàng trong Nam đem ra Bắc.

Vào tới Sàig̣n rồi, đi làm một thời gian rồi, tôi mới thấy là giữa những người giữ chức vụ cao, được gọi là "lănh đạo cơ quan" mặc dù là học thức kém, tầm mức hiểu biết về việc làm rất là hạn chế, nhưng lại là những người ngồi mát ăn bát vàng, hống hách với dân chúng nhiều nhất. Càng tỏ ra khó khăn, họ càng được hối lộ và lấy đuợc nhiều tiền trong công quỹ. Những người có bằng cấp, biết làm việc và phải tiếp xúc với dân chúng nhiều như chúng tôi th́ lại bị đẩy cho làm việc thật là nhiều. Và cũng v́ sự hống hách quan liêu của cấp trên, mà chúng tôi bị vạ lây, bị dân chúng miền Nam ghét bỏ. Thậm chí, chỉ nh́n thấy chúng tôi, hoặc chỉ cần nghe giọng nói của chúng tôi thôi, họ đă bỏ đi, không quên nói nhỏ với nhau: "Cái đồ Bắc Kỳ... thấy ghét"

Mặc dù những điều kiện mà chúng tôi giải thích, là do cấp trên đ̣i hỏi, chứ chúng tôi không hề muốn làm như vậy.

Một vài lần, tôi được dịp may tiếp xúc với những người ngoại quốc tới làm việc chung với chúng tôi, họ có kiến thức rất cao nhưng lại nói chuyện rất lịch sự. Cũng có những lần tôi được tiếp xúc với vài du khách đến nhờ làm thủ tục, tôi thấy họ nói chuyện cũng thật là ḥa nhă và rất hiểu biết. Tầm mắt và kiến thức của tôi được mở rộng ra, tôi muốn được đi du học để mở mang trí tuệ, và cũng để có thể giúp cho công việc làm ăn của gia đ́nh tôi được phát triển hơn. Tôi đem việc này ra bàn với bố mẹ tôi, cả hai đều đồng ư, nhất là ông bà nội của tôi. Chọn nơi học mới là điều khó khăn hơn cả. Đa số các bạn bè của tôi chọn đi học ở Mỹ (nhất là những đứa có cha mẹ có quốc tịch đảng), tôi lại thấy Úc là xứ sở hiền ḥa có nhiền nét về văn hóa nghệ thuật, nên tôi đă chọn môn học về Tài chánh ở trường Đại Học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology), Melbourne, nước Úc.

Dù là đă có một ít vốn liếng tiếng Anh đă học ở trường học cũng như trường đời, nhưng ngày đầu tiên đến giảng đưởng nghe giảng bài, thú thực là tôi như con vịt nghe sấm, chẳng hiểu ông Giảng viên tóc vàng nói cái ǵ cả, v́ giọng của ông hoàn toàn là giọng Úc, khác xa với những phát âm theo tiếng Mỹ mà tôi đă từng nghe ở Việt Nam. Môn học kế tiếp th́ tôi lại c̣n thua nặng hơn nữa, v́ Giảng viên này gốc ngưởi Ấn Độ, tiếng Anh của ông c̣n pha nhiều âm thanh R R R thật là khó nghe.

Hai năm trời trôi đi thật nhanh, ngoài giờ học, tôi xin đi làm thêm ở những nhà hàng ăn ở đường Victoria, khu vực Richmond. Những nhà hàng này tuy bán món ăn Việt Nam nhưng đa số khách hàng lại là người da trắng, nên nhờ đó mà tiếng Anh của tôi đă khá hơn trước và cách phát âm cũng v́ thế mà đổi hoàn toàn theo giọng Úc.
Cuối cùng, tôi đă học xong cái bằng Master và sửa soạn khăn gói về nước. Bạn bè của tôi đa số xin ở lại Úc làm việc và sinh sống, tôi không có ư định ở lại, chỉ muốn về phụ giúp gia đ́nh mà thôi.

Tôi mua vé máy bay về Sàig̣n trước, nghỉ ở đó một ngày gặp bạn bè rồi mới về Hà Nội ở luôn. Ngồi bên cạnh tôi là một người đàn ông trung niên, ông không bắt chuyện với tôi mà chỉ ngồi im lặng, lâu lâu lại nh́n vào cái hộp sắt gắn kín đang cầm trên tay. Măi khi xuống phi trường Changi để nghỉ hai tiếng, ông mới mở miệng nhờ tôi cầm dùm cái hộp sắt để đứng lên lấy hành lư để trên khoang xuống. Cái hộp tưởng là bằng sắt nhưng lại là hộp bằng nhôm rất nhẹ.

Ngồi trên ghế chờ đợi, ông mới cho tôi biết đó là cái hộp đựng tro của vợ ông. Vợ ông mới qua đời tuần trước, đă được hỏa táng và ông đem về Việt Nam để ở nhà mẹ vợ, theo lời trăn trối của vợ ông trước khi chết.

Tới phi trường Tân Sơn Nhất, ông chào và cám ơn tôi một lần nữa rồi ai về nhà nấy. Tôi không biết tên ông là ǵ và ông cũng chẳng bĩết tôi là ai?

Một năm sau, tôi quay trở lại Úc để dự lễ phát bằng cấp cho đứa em tôi. Đang đi trên đường Victoria, thật là ngạc nhiên, tôi đă gặp lại ông khách đi chung máy bay hồi nào. Ông cho tôi biết đă đem tro tàn của người vợ về xong xuôi rồi, đă đi làm trở lại. Tôi cũng cho ông hay là tôi đă xin được việc làm và đang làm việc ở Sàig̣n, nhân dịp dự lễ phát bằng cấp cho đứa em, tôi xin nghỉ một tháng để đi thăm những thắng cảnh Úc mà trong suốt hai năm đi học tôi không có th́ giờ đi đâu cả. Lần này ông cho tôi số điện thoại và nói nếu tôi muốn đi chơi thăm phong cảnh, ông sẽ xin nghỉ đưa tôi đi cho vui.

Thế là chúng tôi quen nhau. Ông tên Thanh, là Lính Cộng Ḥa, ngày cuối cùng của cuộc chiến, ông là một Chuẩn Úy 18 tuổi mới ra trường, đánh trận đầu tiên và cũng là trận cuối cùng của đời lính. Ông có hai đứa con nhưng chúng nó đi làm ở Tiểu bang khác, lâu lâu mới về thăm nhà, c̣n tôi, tôi ba mươi lăm tuổi rồi, và chưa có ư định ǵ về tương lai cả.

Về lại Sàig̣n, chúng tôi vẫn tiếp tục emails qua lại với nhau. Có một lần ông về Việt Nam thăm tro tàn của vợ và nhân dịp đó đi chơi uống cà phê với tôi. Qua năm sau, tôi muốn trở lại Úc một lần nữa để đi thăm Đảo San Hô ở Queensland, Thanh cũng xin nghỉ để đi chơi cùng với tôi.

Thanh đă ngỏ lời muốn cưới tôi làm vợ. Suy đi nghĩ lại, tôi tuy c̣n độc thân nhưng đă lớn tuổi rồi (so với Thanh th́ tôi c̣n nhỏ lắm), nên đồng ư làm vợ Thanh.

Thanh làm bữa tiệc gia đ́nh để ra mắt tôi với hai đứa con và bạn bè. Hai đứa con của Thanh nói toàn tiếng Anh, tụi nó không có ư kiến ǵ, miễn thấy ba nó vui là được rồi. Lần đầu tiên gặp những người bạn của Thanh, tôi vui miệng kể lại cuộc đi chơi ở Đảo San Hô:

“Thật là... hoành tráng chưa từng thấy. Đi xem đảo xong, chúng em đi phố mua hàng, chỗ nào cũng bán Khuyến măi, thích ghê..”

Cả nhà đang ồn ào, tôi chợt thấy không khí có vẻ im lặng sau khi tôi nói chuyện, những người bạn của Thanh nh́n tôi có vẻ e dè lắm, họ vẫn nói chuyện, nhưng h́nh như không có nói chuyện với tôi. Một bà vợ của người bạnthân của Thanh đă hỏi thẳng tôi:

“Cô là... du học sinh hả? Lấy chồng già để... được ở lại Úc hả?”

Khi vào trong bếp lấy thêm đồ ăn, tôi thoáng nghe một người nào đó nói nhỏ với Thanh:

“Mày lấy... Việt Cộng Con đấy à?”

Tôi nghe Thanh trả lời:

“Đâu phải ai nói giọng Bắc cũng đều là Việt Cộng hết đâu!”

Tiệc cưới của chúng tôi mới là phiền phức, mặc dù chúng tôi chỉ tổ chức đơn giản thôi, nhưng bạn bè của Thanh nhận thiệp mời, họ đều có vẻ ngại ngùng, không muốn tham dự. Thanh nói với tôi:

“Ông Hội trưởng của anh họp cả hội lại để lấy quyết định... có dự tiệc cưới của anh hay không? Họ quyết định... đi với tư cách cá nhân mà thôi, v́ dù sao cũng là bạn bè.”

Tôi ngần ngừ nói với Thanh:

“Anh ơi... nếu thấy khó khăn quá, hay là... ḿnh đừng có lấy nhau nữa... Sao họ lại... kỳ thị với em như vậy? Em nói tiếng Bắc, v́ em sinh đẻ ở ngoài Bắc, chứ em đâu có tội t́nh ǵ đâu?”

Thanh an ủi tôi:

“Em cũng phải hiểu cho họ, họ cũng như anh, đều là những người bị bọn Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm đất nước, bắt tù bắt tội sống chết đủ điều. Suốt ngày họ nghe cái giọng Bắc kỳ mạt sát họ, nó thấm vào đầu, nên không thể có cảm t́nh với cái giọng Bắc được. Anh hiểu em, nhưng họ chưa hiểu và chưa thông cảm cho em. Cứ để một thời gian, họ sẽ hiểu em đó mà.”

Tôi sinh đứa con trai đầu ḷng, đặt tên cháu là Nam. Ngày thôi nôi, anh chị nó đến dự, vui vẻ thay phiên ẵm em, đứa con gái út của Thanh ẵm em vừa cười vừa nói:

“My... baby brother”

Những người bạn chúc mừng Thanh... “Đáo Mă Thành Công”.

Khi tôi tháo chiếc dây chuyền hộ mạng của tôi đeo vào cổ cho Nam, một bà ngạc nhiên nh́n sợi giây mà hỏi tôi:

“Cái ǵ vậy?”

“Dây chuyền hộ mạng của em đấy.”

“Đẹp quá nhỉ! Ai khắc mà đẹp quá, h́nh như là hai cái mặt chữ khắc trên gỗ đen th́ phải.”

Chồng tôi biết tôi có sợi dây chuyền này, nhưng coi đó là đồ nữ trang của tôi thôi, nên chẳng để ư đến. Khi thấy ai cũng nh́n vào nó, tôi vui miệng kể lại lai lịch của sợi giây chuyền cho tất cả cùng nghe:

Tôi sinh ra ở Hà Giang. Nói là Hà Giang chỉ để cho có nơi có chốn trên bản đồ mà thôi, chứ thực ra, nơi tôi sinh ra không có tên trên bản đồ miền Bắc. Đó là một nơi ở giữa rừng núi âm u không có vết chân người.

Theo bố tôi kể lại, vào thời năm 1954, khi mọi người dân đều muốn di cư vào Nam, gia đ́nh tôi gồm có ông bà nội, ba mẹ tôi và gia đ́nh của các bác các chú đă gồng gánh từ quê lên Hải Pḥng, để xuống tầu di cư vào Nam. Khi đang ở trên đường th́ gặp một đám người khác cũng nhận là đi di cư và biết có một con đường tắt đi Hải Pḥng rất gần, thế là cả bọn theo chân đám người này. Đến chiều tối th́ có xe hàng tới chở tất cả, nói rằng đi xe cho chóng đến nơi. Xe chở đi tới một vùng rất xa, tài xế cho mọi người xuống mà nói rằng, nghỉ đỡ đêm nay, sáng mai sẽ có xe khác tới chở thẳng đến Hải Pḥng. Ai cũng vui mừng trải chiếu ra ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, có xe tới đón thật, nhiều xe lắm, xe nào cũng chở đầy người. Mọi người vui mừng kéo nhau lên xe đi Hải Pḥng. Xe đi cả ngày trời vẫn không tới vùng biển như mọi người mong đợi, trái lại, xe chở mọi người tới một nơi đầy lính canh có súng. Những người lính này chĩa súng bắt tất cả ngồi im không dược hỏi han ǵ cả, họ khiêng từng miếng vải nhà binh tới phủ kín xe rồi bắt đầu chạy suốt đêm. Đến sáng mới tói nơi, cả bọn được đẩy xuống xe để bị chỉa súng bắt đi bộ vào trong rừng. Tới nơi, cán bộ tập họp mọi người lại, kết tội cả nhóm là đă phạm tội phản lại nhân dân, bỏ trốn vào miền Nam, bị đầy vào đây đến bao giờ được cách mạng và nhân dân khoan hồng, sẽ được về với nhân dân.

Đến lúc đó, mọi người mới biết rằng đă bị bọn Cộng sản đưa người ra dụ dỗ đi theo chúng để rồi bị đi đầy vào vùng rừng núi âm u không biết ngày về. Lâu lâu lại có từng đoàn người khác hoặc được xe chở, hoặc bị xiềng xích đi bộ ngang qua để tới những nơi xa xôi hoang vắng khác được gọi là “Cổng Trời”.

Vào khoảng năm 1960, có thêm một nhóm tù nữa được đưa tới Cổng Trời, đám người này thỉnh thoảng được ra ngoài làm rừng, họ tự xưng là “Biệt Kích Miền Nam” được thả ra Bắc để hoạt động, chẳng may bị bắt.

Tôi sinh ra vào năm 1973 ở cái vùng rừng núi âm u, trại tù của những người muốn di cư vào Nam năm 1954 và trải qua thời thơ ấu ở giữa nơi núi rừng trùng điệp không bóng người này. Khi tôi được năm tuổi, một hôm đi theo cha chặt mây, đă bị ngă xuống hố sâu. Bố tôi bất lực nh́n thân xác của tôi mà không có cách nào để cứu. May thay, một nhóm Biệt kích đi ngang, thấy vậy đă tḥng dây đu xuống tận vực xâu mà cứu tôi lên và đưa cả hai bố con tôi về tận nhà. Từ đó, lâu lâu những người Biệt Kích này lại đi ngang vào thăm gia đ́nh tôi. Người Biệt kích cứu tôi nhận tôi làm con nuôi và đă gỡ sợi dây chuyền ông đang đeo để đeo vào cổ tôi mà nói:

“Tặng cho cháu cái bùa hộ mạng đó.”

Ông giải thích cho bố tôi biết, sợi dây chuyền này do ông đẽo gỗ trong rừng mà khắc thành hai chữ BK tức là Biệt Kích. Các chú này đă khuyên bố mẹ tôi nên t́m cách về thành phố mà sống, chứ đừng ở măi nơi rừng hoang cô quạnh này mà bỏ phí cuộc đời của những dám con cháu.

Năm 1979, khi Trung cộng bắt đầu đánh Miền Bắc, những Biệt Kích đă bị đem đi nơi khác, bố mẹ tôi nhớ lời các Biệt Kích mà t́m đường trốn về Hà Nội, v́ thế, tôi mới được đi học và sống cho đến ngày hôm nay.

Khi tôi kể xong câu chuyện, mọi người đều thay nhau cầm lấy sợi dây chuyền của con tôi một cách trân trọng và quư mến. Người bạn mà trước đây gọi tôi là “Việt Cộng Con” là người đầu tiên hỏi tôi:

“Gia đ́nh của chị bị đưa đi... vùng kinh tế mới Cổng Trời đấy à?Chỉ v́ muốn di cư mà bị đầy ải suốt hơn hai mươi năm trời đấy sao? Bọn Việt cộng chúng mày sao mà tàn ác thế! Cám ơn Trời Phật đă phù hộ cho gia đ́nh chị, những người Việt Nam yêu Tự Do, c̣n sống được cho đến ngày hôm nay.”

Tôi mỉm cười nói thêm vào:

“Tôi cảm ơn Trời Phật và cảm ơn Chúa nữa. Ông bà chúng tôi không đi t́m Tự Do vào năm 1954 được, th́ đến đời cháu tức là đời của chúng tôi, chúng tôi đă t́m được Tự Do rồi đấy. Nhờ các anh Biệt Kích Miền Nam mà tôi được cứu sống, nhờ lời khuyên của các anh mà bố mẹ tôi mới dám trốn vùng cải tạo để về được tới Hà Nội. Cũng nhờ những bà mẹ, bà vợ của những người Lính Miền Nam bị tù cải tạo mà bố mẹ tôi mói có cuộc sống đáng sống. Các anh chị thấy không, nhờ t́nh người, nhờ những người Miền Nam mà chúng tôi mới sống đến ngày hôm nay, chứ đâu có bác nào đảng nào cứu giúp chúng tôi đâu? Cũng v́ thế mà dù có ai nói ǵ th́ nói, tôi cũng cứ lấy người Lính Cộng Ḥa mà tôi quư mến.”

Từ hôm đó, tôi thấy tất cả bạn bè của Thanh đă thay đổi thái độ với tôi. Các anh đă gọi tôi là “Chị Thanh” và các bà đă gọi tôi bằng “Trinh” hoặc là “Cô Em Gái Bắc Kỳ”.

Con tôi đă được năm tuổi rồi, cháu đă đi học mẫu giáo, tôi có th́ giờ đi t́m một công việc tạm thời. Tôi t́m đến một văn pḥng Luật Sư của người Việt để xin làm Điện Thoại Viên. Ông Luật Sư phỏng vấn tôi xong, nói với tôi:

“Để chú sắp xếp cho cháu làm hồ sơ nhé, c̣n công việc nghe điện thoại, chú sẽ t́m người khác”

Tôi thông cảm với ông Luật sư, mọi người vẫn c̣n... ác cảm, c̣n... kỳ thị với giọng nói Bắc Kỳ của tôi.

Tôi xin lỗi đă nói như vậy, nhưng thật sự tôi không biết dùng chữ ǵ để nói về hoàn cảnh của tôi.

Chồng tôi đă thông cảm với tôi, anh Thanh đă nói với tôi:

“Người ta nói “Cái áo không làm nên ông thầy tu” Nhưng thực sự cái áo đă làm cho người ta nh́n lầm nguời mặc nó là thầy tu. Em không những nói giọng Bắc, em c̣n dùng những từ ngữ mà cái đám Việt cộng thường dùng, ngay cả những người Miền Nam hay những người Lính Cộng Ḥa mà nói cái giọng đó, cũng bị ghét, nói chi là Bắc Kỳ rặt như em.

Em cứ giữ cái giọng Bắc Kỳ của em, nhưng em đừng... hoành tráng, đừng... bực tức nữa, có được không?”

Tôi suy nghĩ... Đúng! Chồng tôi nói đúng.

Nhập Gia Tùy Tục – Nhập Giang Tùy Khúc.

Tôi đă lấy chồng Lính Cộng Ḥa rồi, mà tôi lúc nào cũng có cái giọng Bắc Kỳ Hai Nút (75, Bắc kỳ chín nút tức là Bắc kỳ 54) th́ ai mà chịu nổi.

Bây giờ, tôi không c̣n... “Xử Lư” nữa, mà tôi phân tích, tôi t́m hiểu từng trường hợp mà giải quyết cho thỏa đáng. Mỗi khi đi ra ngoài đường, nghe tôi nói chuyện, không c̣n ai quay lại nh́n tôi rồi bỏ đi chỗ khác nữa.

Đôi khi, những ông bà bạn của anh Thanh vẫn gọi tôi là “Việt Cộng Con”

Nhưng họ nói chỉ để mà đùa dỡn mà thôi, chứ không c̣n châm chọc như trước nữa.

Riêng phần con tôi, cháu Nam, lúc nào cháu cũng khoe:

“Con là con của “Lính Cộng Ḥa” mà!”

NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY.

NGUYỄN KHẮP NƠI.

wonderful 04-24-2019 23:31

7 Attachment(s)
Có một ngôi đền Việt Nam giữa ḷng Paris (ngoại ô Paris th́ đúng hơn...)

Không chỉ độc đáo về kiến trúc, đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương c̣n là một chứng nhân lịch sử cho mối quan hệ Pháp – Việt.
Đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương hay Hoài Nam nghĩa sĩ miếu là tên gọi một ngôi đền Việt dựng trong Vườn thuộc địa (Jardin colonial de Nogent-sur-Marne) nằm ngoại ô Paris nước Pháp. Đây là một công tŕnh đặc biệt, được coi là một chứng nhân lịch sử cho mối quan hệ Pháp – Việt.


Lịch sử ngôi đền bắt đầu vào năm 1905, khi quan đẩu tỉnh Thủ Dầu Một là Ernest Outrey đă ra lệnh làm cấp tốc một ngôi nhà bằng gỗ dựa theo kiểu thức của đ́nh Bà Lụa, sau đó chuyên chở bằng tàu đem qua Pháp để tham dự cuộc triển lăm Colonial Exhibition Marseille tổ chức vào năm 1906.


Năm 1907, chính quyền Pháp đem công tŕnh đến triển lăm lần thứ hai trong một khu vườn ở vùng ngoại vi Paris (đường 45bis, đại lộ Belle-Gabrielle, ở Vườn thuộc địa). Ngôi đền nằm tại vị trí này cho đến nay.
Vào thời điểm Thế chiến I kết thúc, người Pháp mới nghĩ đến việc dành một phần trong Vườn thuộc địa để xây dựng những đài tưởng niệm các chiến sĩ xuất thân từ những xứ thuộc địa của Pháp đă hy sinh. Để phản ánh văn hóa của từng dân tộc, người ta cho xây dựng các đền đài tưởng niệm mang phong cách kiến trúc đặc trưng truyền thống của các dân tộc đó.


Ngôi nhà đ́nh phục vụ triển lăm của xứ Nam Kỳ đă được người Pháp tận dụng làm ngôi đền tưởng niệm hơn 1.500 người lính Việt Nam tử trận v́ nước Pháp.
Vào ngày 9/6/1920, lễ khánh thành ngôi đền được tổ chức trang trọng với sự tham dự của nhiều quan chức cao cấp Pháp như Albert Sarraut, thống chế Joffre, Alexandre và Đặng Ngọc Oanh – viên quan đại diện cho Hoàng Đế Việt Nam. Ngoài ra c̣n có các cựu chiến binh Việt, Pháp đang sinh sống tại Pháp.


Trước đó, người ta cho phục hồi lại bàn thờ và các vật dụng trang trí được thực hiện bởi chính các nghệ nhân người Việt trong Nam ngoài Bắc: gốm Cây Mai trong Nam, những tấm biển sơn mài ngoài Bắc, một chiếc lư đồng như phiên bản của cửu đỉnh tại cung thành Huế. Các lễ vật cúng bái như nhang đèn, pháo, trống, chiêng…cũng được chuyên chở gấp rút từ Việt Nam qua.
Từ lúc đó, ngôi đền trở thành điểm tham quan lễ bái cho những người Việt Nam có dịp đến Pháp. Vị thượng khách quan trọng bậc nhất trong số này chính là nhà vua của An Nam. Vào ngày thứ hai, 26/6/1922, vua Khải Định (vị vua Việt Nam đầu tiên công du sang Pháp) với con trai là hoàng tử Bảo Đại, cùng quan Thượng thư Thuộc địa Albert Sarraut đến thăm ngôi đền.
Thế chiến II xảy ra, có thêm khoảng 1.400 binh lính người Việt chết cho nước Pháp. Chính quyền Pháp cho dựng thêm tấm bảng trong ngôi đền để ghi danh họ.
Thế chiến vừa kết thúc, Pháp lại sa lầy vào cuộc chiến 9 năm với Việt Nam, kết thúc bằng thảm bại ở Điện Biên Phủ. Tên của những người Việt ngă xuống trong hàng ngũ quân Pháp lại được bổ sung tại ngôi đền.
Có thể nói, đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương luôn gắn liền với các sự kiện lịch sử quan trọng của Pháp và Việt Nam.


Đến ngày 21/4/1984, một trận hỏa hoạn đă thiêu rụi ngôi đền. Trên nền cũ, chỉ c̣n lại lối đi tam cấp có tạc h́nh rồng bằng đá. Năm 1992, người ta cho xây một kiến trúc mới đơn sơ, nhỏ hơn trước…

wonderful 04-26-2019 00:38

1 Attachment(s)
ĐẤT NƯỚC TA CÓ 7 LOẠI NGƯỜI.

1 – Loại thứ nhất: Họ bảo thủ đi theo một lối ṃn của một con đường vô định hướng, nhưng họ quyết tâm đi cho bằng được và lái tất cả đi theo con đường đó! Mặc dù phía cuối con đường là chông gai và sụp đổ họ vẫn cứ đi. Loại người này ta gọi là “ngu mà c̣n tỏ ra nguy hiểm”!

2- Loại thứ hai: Họ luồn cúi và nịnh bợ liếm láp mọi thứ và sẵn sàng làm nô lệ cho loại thứ nhất! Loại người này là loại vô liêm sỉ họ đă đổi sự nhục nhă để lấy miếng cơm ăn!

3- Loại thứ ba: Họ không quan tâm đến mọi thứ xung quanh, họ thờ ơ với tất cả, và họ chỉ cần biết lo cho bản thân ḿnh! Loại người này là loại vô hồn, vô cảm, vô tâm!

4- Loại thứ tư: Họ tàn nhẫn cướp của giết người, ăn cắp ăn trộm, đĩ điếm, giả dối, lừa lọc, sống bầy đàn độc ác và man rợ! Loại người này là giống vô loài!

5- Loại thứ năm: Họ biết đúng sai nhưng miệng họ luôn ngậm một hạt thị và không bao giờ dám mở mồm! Loại người này ta gọi là đồ hèn nhát!

6- Loại thứ sáu: Họ bị cuồng tín bởi những lư luận duyên, nghiệp, họ không đấu tranh và chấp nhận bị áp bức! Loại người này thật đáng thương và đáng yêu !

7- Loại thứ bảy: Họ sống có trách nhiệm, ngay thẳng, ṣng phẳng và công bằng, họ dám nói lên chính kiến của ḿnh, họ mong muốn xă hội tiến lên tốt đẹp, nhưng do 6 loại kia đông quá nên họ khó có thể thay đổi tư duy của giống người Việt Nam!


Cho nên gọi là đất nước “thất nhân” thế mới sinh ra thất đức, thất tín, nói một đường làm một nẻo! Chúng ta cần loại người thứ 7 phát triển thật nhiều để lấn át 6 loại c̣n lại. Những ai đang là một trong sáu loại kia nên vắt tay lên trán suy nghĩ để làm sao cho con cháu giống ṇi Việt Nam trong tương lai đừng hèn như những ǵ chúng ta đă và đang làm!

Nói thật mất ḷng cũng được! Nhưng nó sẽ làm cho người ta khôn từ từ


Thầy Lương Ngọc Huỳnh


hoanglan22 05-04-2019 13:50

30/4-suy ngẪm vui mỪng cái ǵ.
 
Một lần nữa, ngày kỷ niệm biến cố lịch sử 30 tháng 4 lại sắp đến. Kính mời các bạn xem vài bài thơ dưới đây của học giả Thái Bá Tân rất phù hợp với biến cố này để biết Sài G̣n đă được giải phóng, hay chính Sài G̣n đă giải phóng đoàn quân và người dân Bắc Việt?

Bài thứ hai nói về hậu quả của cuộc cách mạnh vô sản. Bài thứ ba nói về chuyện cải tạo các sĩ quan của QLVNCH. Bài thứ tư viết cho các thuyền nhân đă vượt biên để lánh nạn cộng sản. Và bài thứ năm kể lại câu chuyện rùng rợn gây ra bởi Bên Thắng Cuộc.

Học giả Thái Bá Tân, sinh quán ở Nghệ An, được gửi đi du học ở Moscow trong thời kỳ thập niên 60-70. Sau khi trở về, Ông sinh sống ở Hà Nội bằng nghề dạy học, viết văn, dịch sách, và làm thơ. Những bài thơ 5 chữ của ông mang nhiều tính chất nâng cao dân trí rất hay và rất thâm đến tận tim can.

Mỗi bài thơ của Ông đều mang theo một thông điệp để gửi cho một số đối tượng, với lời lẽ nhẹ nhàng nhưng rất thâm thuư.

***********

SÀI G̉N GIẢI PHÓNG
Thái Bá Tân, March 2019

Ta, đoàn quân Bắc Việt,
Như thác lũ phăng phăng,
Từ rừng rú miền núi
Tiến thẳng về đồng bằng.

Bao nhiêu năm mơ ước
Ngày giải phóng Sài G̣n
Khỏi Mỹ Ngụy áp bức,
Cặn bă và du côn.

Hừng hực lửa cách mạng,
Với lư tưởng chói ngời,
Ta hăng hái giải phóng,
Nhưng bất chợt, lặng người.

Cái ta muốn giải phóng,
Tưởng thấp hèn, xấu xa,
Giờ tận mắt thấy nó
Đẳng cấp cao hơn ta.

Một cảm giác đau buốt
Thường nhức nhối về đêm.
Ta, những người thắng cuộc,
Tự nhiên thấy yếu mềm.

Và rồi ta tự hỏi,
Ta, xẻ dọc núi non,
Được Sài G̣n giải phóng,
Hay giải phóng Sài G̣n?

******************** ********************
CÁCH MẠNG
Thái Bá Tân, March 2019

Mục đích của cách mạng
Vô sản và công nông
Là thông qua bạo lực
Biến của tư thành công.

Khi cách mạng thắng lợi,
Nhanh chóng hoặc từ từ,
Các quan chức cộng sản
Biến của công thành tư.

Cộng sản gây đau khổ
Cho hàng triệu, triệu người
Rốt cục để mang lợi
Cho một số ít người.

*
Một sự thật chua xót -
Các vấn đề của ta,
Cách này hay cách nọ,
Từ cộng sản mà ra.

******************** **
CẢI TẠO
Thái Bá Tân, April 2019

Khi chiến tranh kết thúc,
Bên thắng cuộc, bên ta,
Bắt, đưa đi cải tạo
Các sĩ quan Cộng Ḥa.

Mà diện cải tạo ấy
Nhiều lắm, nhiều vạn người.
Thời gian phải cải tạo
Đến cả chục năm trời.

Cải tạo nhằm bắt họ
Từ bỏ cái văn minh
Để đi theo cộng sản
Vĩ đại và quang vinh.

Vậy là các tướng tá,
Hàng ngày phải ngồi nghe
Mấy anh lính mông muội
Vừa mới ở rừng về.

Nghe, rồi viết “thu hoạch”
Về Mác và Lê-nin,
Để “cảm hóa”, “tiến bộ”
Và thay đổi niềm tin.

Một, niềm tin chính trị,
Khi đă chui vào đầu
Th́ không thể thay đổi,
Dù cố gắng đến đâu.

Hai, người bị cải tạo
Phần nhiều học thức cao,
Người cải tạo rừng rú
Th́ cải tạo thế nào?

Ba, ḿnh đang đói khổ,
Nuôi không nhiều vạn người
Th́ tiền đâu cho lại,
Hơn thế, nhiều năm trời?

Bốn, việc cải tạo ấy
Càng khoét sâu thù hằn,
Không giúp tái ḥa giải,
Là cái vốn rất cần...

*
Một việc làm ngu ngốc,
Khiến nhiều người chết oan.
Cộng sản luôn ngu ngốc.
Điều ấy khỏi phải bàn.

Hậu quả việc ngu ấy
C̣n đến tận ngày nay.
Phải nói, chỉ cộng sản
Mới nghĩ được tṛ này.

PS
Thương, cả một thế hệ
Con tướng tá Cộng Ḥa
Bị phân biệt đối xử.
Có đâu như xứ ta?

******************** *
ĐĂ ĐẾN LÚC
Thái Bá Tân, April 2019

Tặng hương hồn những đồng bào
bỏ mạng trên con đường t́m tự do.

Cũng phải có ai đấy
Chịu trách nhiệm chuyện này.
Chuyện thuyền nhân di tản
Mấy mươi năm trước đây?

Thường chiến tranh, loạn lạc
Mới bỏ nhà ra đi.
Tại sao ta, “giải phóng”,
Hàng triệu người ra đi?

Ra đi bằng mọi giá,
Mọi lúc và mọi nơi.
Hàng chục vạn người chết,
Bỏ ḿnh giữa biển khơi.

Một bi kịch vĩ đại.
Một nỗi đau tột cùng.
Nạn nhân một chế độ
“Vinh quang và anh hùng”.

Một tội ác rùng rợn,
Không phải do chiến tranh,
Mà tội ác diệt chủng
Của một thời ḥa b́nh.

Đă đến lúc lịch sử
Phải phán xét chuyện này.
Chuyện thuyền nhân di tản
Mấy mươi năm trước đây.

******************** ******
RÙNG RỢN
Thái Bá Tân, April 16, 2019

Rùng rợn, lính Hàn Quốc
Giết đồng bào Quảng Nam.
Càng rùng rợn, lính Mỹ
Rải chất độc da cam.

Nhưng Mỹ và Hàn Quốc
Đến tạ lỗi, xin tha.
Th́ dẫu rùng rợn thật,
Người Việt Nam đă tha.

Nhưng rùng rợn hơn cả -
Nghe nói giải phóng quân,
Những người lính cách mạng,
Cũng đă từng giết dân.

Mà giết nhiều, chủ ư.
Giết chính đồng bào ḿnh.
Không một lời xin lỗi,
Cứ bịt tai lặng thinh.

Những nỗi đau oan trái,
Những tội ác ghê người
Rồi sẽ được hóa giải,
V́ luôn luôn có trời.

*
Anh có thể lừa dối
Một trăm, một ngh́n người.
Nhưng không thể lừa dối
Cả chín mươi triệu người.

Anh có thể che dấu
Một năm, hai mươi năm.
Nhưng không thể che dấu
Một trăm, hai trăm năm.

Thậm chí anh có thể
Tắt nến, kéo hết rèm
Để ngôi nhà anh sống
Luôn ch́m trong bóng đêm.

Nhưng tiếc, anh không thể
Giơ tay che mặt trời.
Mặt trời mọc, soi rơ
Mặt quỉ và mặt người.

Không có ǵ vĩnh cửu.
Chế độ lại càng không.
Cái ǵ đến sẽ đến.
Đừng trốn mà mất công.
———

30 THÁNG TƯ, 1975
Thái Bá Tân, Apr. 19, 2019

Bộ đội Miền Bắc chết
Một triệu một trăm ngh́n.
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai ngh́n.

V́ chiến tranh, dân chết -
Trên dưới hai triệu người.
Lính Miền Nam cải tạo,
Ngồi tù - một triệu người.

Trong số một triệu ấy,
Một trăm sáu lăm ngh́n
Chết v́ đói, lao lực,
V́ không c̣n niềm tin.

Trốn chạy khỏi cộng sản -
Hơn một triệu rưỡi người.
Hai trăm ngh́n đă chết,
Bỏ xác ngoài biển khơi.

Từ đấy, dẫu đất nước
Hết chiến sự, b́nh yên,
Chín mươi triệu người Việt
Mất tự do, nhân quyền.

Vậy xin hỏi các vị:
Ngày ấy là ngày ǵ?
Vui mừng và kỷ niệm?
Nhưng vui mừng cái ǵ?

TBT

hoanglan22 05-06-2019 02:40

30/4 – 44 NĂM NH̀N LẠI: Niềm Tin
 
1 Attachment(s)


Đă 44 năm trôi qua kể từ sau ngày 30 tháng 4, 1975, cộng sản Hà Nội tiến chiếm miền Nam, và đặt sự cai trị độc tài man rợ của ḿnh trên toàn cơi Việt Nam. Ngày nay đất nước này có những ǵ? Có đạt được như lời mị dân của Hồ Chí Minh năm 1969 “Xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”? Và trong niềm tin mơ hồ đó, hàng triệu người dân miền Bắc đă tham gia cuộc chiến huynh đệ tương tàn.

Trước 1975, miền Nam Việt Nam là một Quốc gia dân chủ, thịnh vượng đến nỗi mà nhiều nhà lănh đạo của thế giới phải trầm trồ thán phục và ao ước đất nước của họ cũng được phát triển như vậy. Ông Lư Quang Diệu, Tổng thống Singapore từng ví von Sài G̣n như Ḥn Ngọc Viễn Đông. Nhiều người dân xứ Hàn, Thái Lan, Philippines phải sang Việt Nam làm thuê vào thời đó.

Ngày nay, sau 44 năm đổi đời từ ngày 30 tháng 4, nh́n vào trật tự xă hội đang diễn ra trong đất nước Việt Nam, ta thấy có một sự mâu thuẫn vô cùng lớn lao giữa lời nói, ư chí và hành động của người cộng sản. Đó là những ǵ?

Việt Nam có một nền kinh tế đi xin viện trợ, đi vay vốn ODA của nước ngoài và khai thác, bán sạch tài nguyên khoáng sản từ trên rừng cho đến ngoài biển khơi. Mặt khác, hệ thống kinh tế Việt Nam bị dẫn dắt, điều khiển bởi các tập đoàn lợi ích nhóm do các phe phái trong nội bộ đảng cộng sản thao túng. Thế nên, người cộng sản dễ dàng tham nhũng với những khối tài sản khổng lồ của quốc gia một cách vô tội vạ.

Kết quả th́ người dân phải lănh nhận hậu quả, nợ công tăng cao. Số liệu cũ của Bộ Tài chính cho biết vào ngày 17 tháng 8 năm 2017 th́ “Mỗi người dân Việt Nam phải gánh 35 triệu đồng nợ công quốc gia v́ các dự án thua lỗ, và hàng loạt các dự án vay vốn ODA bị điều chỉnh tổng mức đầu tư so với ban đầu”.

Nhiều người đưa ra lư do biện minh cho đất nước vẫn c̣n nghèo như “mới trải qua chiến tranh… gần nửa thế kỷ”, hay Việt Nam cũng có khá lên nhờ kinh tế thị trường với đầu tư ngoại quốc gia tăng. Tuy nhiên, chúng ta đă tụt hậu so với Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore… từ vài chục năm cho đến cả một thế kỷ.

Dường như những năm gần đây là giai đoạn bùng phát của căn bệnh không thuốc chữa trong hệ thống Giáo dục mà nó đă âm ỉ hàng mấy thập kỷ qua. Bạo lực học đường mỗi ngày gia tăng và trầm kha hơn. Những cảnh nam, nữ học sinh đánh đập hội đồng, thậm chí chém giết lẫn nhau hết sức đau ḷng tái diễn khắp hang cùng ngơ ngách.

Diễn biến một xă hội đảo điên được tŕnh diễn với nạn mua bán bằng cấp, đổi t́nh lấy điểm, lạm dụng t́nh dục, chạy chức chạy quyền lan tràn mọi miền đất nước. Sinh viên sau khi được đào tạo đại học th́ làm cu ly hay đi làm công nhân, hoặc chạy ra nước ngoài t́m cơ hội mới.

Chưa có thời đại nào rực rỡ hơn dưới triều đại của cộng sản khi người dân xứ ḿnh phải lũ lượt đi làm cu ly nơi xứ người. Hàng trăm ngàn người phụ nữ chấp nhận như một món hàng trao đổi để được làm vợ ngoại quốc, và xót xa hơn nữa có hàng ngàn phụ nữ t́m kiếm cuộc sống tốt hơn bằng nghề bán thân trên khắp thế giới.

Thực trạng đau ḷng của hệ thống y tế tại Việt Nam hiện nay đều quá tải, chất lượng khám chữa bệnh rất thấp. Mối quan hệ giữa y bác sĩ và bệnh nhân nằm trong trạng thái căng thẳng, đó là chưa nói đến vấn đề đầu tiên – tiền đâu. Nếu người bệnh không có tiền th́ sự thờ ơ, vô cảm thấy rơ nơi bệnh viện. Ngày hôm nay ung thư trở thành căn bệnh mang tầm mức quốc gia, giết chết hàng chục ngàn người mỗi năm.

Thật ra, niềm tin vào cộng sản đă từng bước bị mất mát, hụt hơi ngay trong ḷng những người lính Bắc Việt khi tràn vô Sài G̣n. “Thật sai lầm khi giải phóng miền Nam” có lẽ là câu nói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong không chỉ trong quân lính mà ngay cả lănh đạo cộng sản.

Nhiều câu chuyện truyền tai hay trong hồi kư của họ viết đại ư như thế này “Sai lầm lớn nhất của miền Bắc chúng tôi là đi giải phóng miền Nam. Bởi sau cái ngày 30/4 có quá nhiều những thay đổi ngoài dự kiến của chúng tôi đă xảy ra tại miền Bắc. Bởi khi đoàn quân miền Bắc kéo về mang theo lỉnh kỉnh toàn hàng tiêu dùng của miền Nam làm dân Bắc chúng tôi sững sờ”.

Thực tế, đảng cộng sản đă hoàn toàn bị mất niềm tin từ nhân dân ngày càng rơ nét. Tùy từng mức độ khác nhau, từ mất niềm tin tuyệt đối này th́ có nhiều bộ phận người khác nhau có thái độ chán ghét chế độ, thậm chí chế độ trở thành mối thù của nhiều tầng lớp dân oan. Hoặc muốn thay đổi chế độ như các thành phần trí thức cộng sản, sinh viên, công nhân, nông dân.

Niềm tin của nhân dân là bệ vững chắc cho mọi chế độ tồn tại, ngược lại khi niềm tin đă hết th́ sự sụp đổ ắt sẽ đến dù chế độ đó có dùng nhà tù, súng đạn, đàn áp để chống đỡ, để tồn tại.

Portland 28/4/2019
Paulus Lê Sơn

hoanglan22 05-06-2019 13:42

30/04: Lời của một người từ miền Bắc về ‘chính nghĩa quốc gia’ (Lê Mai Hoa)
 
1 Attachment(s)


Người Việt rời bỏ quê hương - Ảnh: YouTube

Đối với những thế hệ lớn lên ở miền Bắc sau năm 1975 cho đến nay th́ lá cờ vàng hay chính nghĩa quốc gia là những khái niệm đầy xa lạ, thậm chí bị hiểu sai, bôi nhọ rất nhiều.

Tiếp xúc với VNCH là một may mắn

Tôi sinh ra ở miền Bắc sau khi chiến tranh đă kết thúc, người thân trực hệ cũng không có ai đi tù cải tạo nên suốt những năm tháng ấu thơ, Chiến tranh Việt Nam cũng như những người ở bên kia chiến tuyến là khái niệm rất mờ nhạt.

Thời bấy giờ, chỉ được nghe người lớn kể rằng gia đ́nh vẫn c̣n mấy ông, bà nữa đang định cư ở Mỹ.

Thời tiểu học, khi thấy tôi háo hức v́ sắp được nghỉ học dịp 30/4, mẹ nhẹ nhàng nói: “Con không nên ăn mừng ngày 30/4. Có biết bao con người khổ đau, họ phải treo cờ rủ, mặc áo tang trong ngày đó đấy”.

Đối với đứa trẻ miền Bắc khi ấy mới 9-10 tuổi, câu nhắc nhở của mẹ để lại trong tôi nỗi nghi vấn trong nhiều năm sau này, v́ trót được dạy rằng 30/4 là ngày “thắng Mỹ.

Một cách khách quan, vào thời đi học, tôi không thấy “Mỹ-Ngụy” là xấu, chỉ thấy nó là cái ǵ đó mơ hồ, xa xôi.

Cho đến khi hiểu được sơ lược về VNCH, tôi mới thấy hóa ra VNCH thực gần gũi, chính là những người máu mủ mà giờ đây bị chia cắt bởi hai bờ đại dương.

Từ sau 1995 tôi đă dần dần được gặp một số người thân từ Mỹ về. Thời gian đầu, giữa tôi và họ cũng không có ǵ đậm đà v́ sự không hiểu nhau, mà chắc nhiều người tị nạn khi về thăm quê hương cũng gặp t́nh trạng tương tự.

Sau này câu chuyện có nhiều tiến triển đáng kể do kiến thức của tôi về phía ‘quốc gia’.

Nhờ vào quan hệ người thân, tôi đă được tiếp xúc với Tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, bà quả phụ của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, ca sĩ Minh Phúc (lúc đang viết bài này th́ được tin ông vừa qua đời) và một người cháu nội của cụ Trần Văn Hương đang định cư ở châu Âu.

Tôi cũng từng được Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng và Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại tặng sách, đó vừa là vinh dự cho người trí thức trong nước, cũng là may mắn hiếm hoi của một người trẻ lớn lên ở miền Bắc.

Tôi xem đó là cơ duyên may mắn của ḿnh. V́ với một đứa trẻ miền Bắc lớn lên cùng với hằng hà sa số huân, huy chương chống Mỹ của ông nội, ông ngoại, đó là cơ hội quá hiếm hoi để mở mang đầu óc, xua tan áng sương mù đă án ngữ trong năo trạng của người miền Bắc (sau 1954).

Tôi vẫn c̣n nhớ hai đêm thức trắng đọc cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy của tác giả Nguyễn Tiến Hưng – cuốn sách mà trang của BBC có giới thiệu.

Đọc xong th́ vừa trăn trở, vừa xót thương cho số mệnh của dân tộc.

Ngoại lệ hiếm hoi

Nhưng tôi có thể xem là một ngoại lệ hiếm hoi của thế hệ sống tại miền Bắc ngày nay.

Tôi đă tiếp xúc với nhiều người, ngay cả với nhiều tầng lớp người ta vẫn gọi là trí thức. Với những người tử tế, hầu hết trong số họ có mục tiêu lớn nhất là nuôi sống gia đ́nh, c̣n lớn hơn nữa là nuôi hoài mộng trở thành đại gia, nhưng số người giàu có ư thức làm từ thiện, tác động tích cực ngược trở lại với xă hội không nhiều, chứ chưa nói đến việc xoay chuyển giang sơn.

Cũng không nên nhầm lẫn những người đấu tranh hiện nay là người quốc gia. Tôi c̣n nhớ có một vị tù nhân lương tâm khi mới sang Mỹ, ngồi họp báo với đồng bào ở Cali nhưng vẫn gọi VNCH là tội đồ của dân tộc v́ chống lại sự thống nhất đất nước.

Chuyện đó không quá lạ lẫm với những người lớn lên ở miền Bắc, v́ từ khi mở mắt chào đời họ (thậm chí bậc phụ huynh của họ) đă chỉ biết có lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ duy nhất.

Di sản lớn nhất của VNCH là tri thức, hăy gắng truyền đạt nó về nước.

Tùy vào góc độ nh́n nhận của mỗi người, VNCH có những ảnh hưởng riêng với đời sống trong nước như âm nhạc, văn hóa hay… dollar. Tôi biết nhiều người ở Việt Nam sáng đi họp chi bộ, chiều vẫn kư giấy nhận dollar người nhà bên Mỹ gửi về.

Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, có người chọn cách không bao giờ bắt tay với Hà Nội, thậm chí không về thăm quê hương, để bảo vệ lư tưởng, có người chủ động về Việt Nam hợp tác với nhà nước, mong muốn đem kiến thức của ḿnh về xây dựng đất nước tuy chưa biết hiệu quả của nó đến đâu.

Nhưng dù chọn cách nào, tấm ḷng ái quốc của những người Quốc Gia chân chính thực đáng trân trọng.

Sự thực, trong nước bây giờ không c̣n quá thiếu thốn về vật chất như thời thập niên 1980.

Cái thiếu của phần đông thế hệ trẻ trong nước hiện nay là lư tưởng phục vụ tổ quốc hoặc phục vụ nhân loại và tri thức.

Đó là thứ tôi lại cảm nhận thấy rất rơ ràng từ những người Quốc Gia đă lớn lên, đi học dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa.

Từ những người trí thức đă thoát ra hải ngoại, nay trở về thăm quê hương cho đến những ông cụ thương phế binh Nhảy dù, Thủy quân lục chiến mà tôi từng tiếp xúc trên mảnh đất miền Nam.

Khi kênh SBTN bằng tiếng Việt ở Hoa Kỳ làm cuốn phim tài liệu về trận chiến Quảng Trị vào năm 2007, tôi c̣n nhớ một người lính VNCH năm xưa đă trả lời trước câu hỏi về mong ước cho tương lai:

“Tôi mong con tôi sẽ biết làm người.”

Người cựu quân nhân nêu trên chỉ hành nghề bán vé số ở thời điểm đó, nhưng nói được câu mà bộ phận không nhỏ người lớn lên phía Bắc vĩ tuyến 17 không bao giờ nghĩ đến.

V́ thế người Việt tị nạn cũng nên hạn chế gửi xa xỉ phẩm về nước cho người nhà.

Thay v́ dầu thơm hay chocolate đắt tiền, hăy gắng đem sách vở, tri thức, truyền đạt lư tưởng về chính nghĩa quốc gia cho thế hệ trẻ trong nước.

Họ mới là những người cần biết về ư nghĩa của lá cờ vàng. Họ nên được thấy lá cờ vàng trong những sự kiện tích cực nêu tỏ chính nghĩa quốc gia, chứ không phải làm nền cho những màn chửi bới cộng sản và đả kích lẫn nhau trong cộng đồng.

Họ cũng cần hiểu rằng nhờ có lá cờ vàng, nay mới có cả mấy thế hệ giỏi giang mang ḍng máu Việt ở hải ngoại.

Lời kết, mong ước văn minh cho dân tộc

Mỗi người Việt Nam có những cảm xúc, có những số phận khác nhau xung quanh biến cố 30/4.

Nhưng sau bốn thập kỷ, tôi nghĩ chúng ta nên đánh giá sự kiện này theo hướng tích cực.

Nhờ có biến cố ấy mà người Việt Nam có mặt khắp năm châu, nước Việt Nam tồn tại hai thực thể (trong nước và hải ngoại), từ đó tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

Xin được kết bài này nhỏ này bằng câu của thi sĩ, nhà văn Nguyễn Đ́nh Toàn:

“Tôi cố đợi ngày Việt Nam tái sinh, trong sông biển yêu thương.”

Lê Mai Hoa (Gửi bài cho Diễn đàn BBC nhân 30/04)

BBC Tiếng Việt

(Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả)

hoanglan22 05-10-2019 13:27

Trả súng đạn này
 
1 Attachment(s)


Trả súng đạn này

Tôi có thể ngồi đồng cả ngày trên mạng, nhảy tường lửa, đọc tài liệu, đọc báo nhăng nhít, nhưng chưa bao giờ xem/nghe trọn một chương tŕnh ca nhạc, dù là ở nhà hay trên những chuyến xe đ̣ đường dài. Xem không trọn chỉ v́ ngủ… gật, đúng hơn, tŕnh độ thưởng thức của tôi chỉ tới cỡ đó. Vậy mà chiều nay tôi đă xem trọn một chương tŕnh ca nhạc.

“….Trả súng đạn này, khi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê, trở về quê, t́m tuổi thơ mất nơi nao…”
(Một mai giă từ vũ khí – Trịnh Lâm Ngân)

Ở Việt Nam, các DVD ca nhạc hải ngoại Thuư Nga, Vân Sơn,… dễ kiếm, nhưng Asia th́ khó. Asia “phản động” lắm, lỡ bị phát hiện, sẽ bị tịch thu cả xe, hết đường sống, những người bán DVD dạo nói thế.

Nhưng bây giờ, chỉ cần 1 media hub, người ta có thể tải từ internet đủ loại chương tŕnh giải trí để xem qua TV. Ngủ gật cũng sướng như ăn vụng. Thỉnh thoảng tôi cũng click đại một liveshow nào đó để ru ḿnh ngủ…gật. Và chiều nay, tôi muốn ngủ gật với Asia, để xem “phản động” tới đâu. Tôi chọn chủ đề “55 năm nh́n lại” v́ đoán là nói miền Nam từ thời di cư 54.

Không chỉ là chương tŕnh ca nhạc, mà đan xen vào đó là những thước phim tài liệu, những h́nh ảnh năm xưa, khỏi cần thuyết minh, tôi cũng nhớ ra gần hết. Chuyện hôm nay mau quên, chứ chuyện ngày xưa th́ nhớ dai lắm. Con tàu há mồm “Passage to freedom”, Đệ I, đệ II Cộng hoà, kinh tế, giáo dục, văn hoá, mùa hè đỏ lửa, đại lộ kinh hoàng… Mọi thứ như mới đâu đây, tưởng như chạm tay vào được. Hai mươi năm trước, cha bỏ xứ ra đi. Hai mươi năm sau, con bỏ nước ra đi. Bỏ đi không đành, con ngu hơn cha, nên bây giờ mới ngồi lẩn thẩn.

Nhiều bản nhạc từ lâu lắm rồi, bây giờ mới nghe lại. Nghe lại mà có thể hát theo trong đầu được. Những ca khúc thanh b́nh thưở xưa đó, ngày trước nghe hờ hững, bây giờ lại thấy hay. Dĩ văng sao êm đềm quá! Chưa bao giờ tôi nghe “Một mai giă từ vũ khí” với một cảm xúc ngậm ngùi như thế, như nuốt từng lời ca tiếng nhạc vào tim óc.

Chương tŕnh này cũng khéo “dụ” được bà Dương Nguyệt Ánh làm MC. Cho dù là kịch bản đi nữa, th́ MC Dương Nguyệt Ánh giống như nhà toán học có khiếu làm thơ: ngôn ngữ chắc nịch và giọng nói biểu cảm.

Tôi cũng lần đầu nh́n lại nhiều khuôn mặt ca sĩ quen thuộc. Cận cảnh mới thấy thời gian nghiệt ngă. Son phấn không thể cứu văn, kỹ thuật âm thanh cũng phải bó tay. Khi giọng hát vút lên đuối hơi, những đường gân hiện trên cổ thấy rơ. Con tằm đang nhả những sợi tơ cuối cùng cho đời…

Tôi đọc đâu đó, có lần y sĩ ca sĩ Trung Chỉnh phải nhảy trực thăng xuống vùng chiến sự để cấp cứu. Ông nhảy thoát được, nhưng túi đồ nghề thuốc men bị bắn bể. Ông y sĩ đành lấy tiếng hát thay thuốc men để làm dịu cơn đau của thương binh. Chuyện thật bao nhiêu phần trăm không rơ, nhưng sao thấy thiệt đậm “chất người” giữa làn ranh sống chết.

Thời gian cứ thế trôi ngược theo h́nh ảnh và âm thanh…

Những ngày sau 75, nếu chết chưa chắc là hết, th́ sau khi chết, tôi sẽ không quên được cảnh tượng các em thiếu niên đi tịch thu sách vở “đồi truỵ phản động”, quẳng rầm rầm lên xe ba gác, như chuyển hết căm thù vào đó, vừa quăng vừa dạy đời người lớn.

Hai mươi năm sau, tôi sống lại cảm giác này khi đọc “Sống và chết ở Thượng Hải” của Trịnh Niệm. Người đàn bà cứng cỏi này, dù bị áp lực, ngược đăi tới đâu, cũng nhất định không nhận tội “phản động”, nhưng đă phải cuống quưt van nài bọn Hồng vệ binh, xin hăy tịch thu hết bộ sưu tập đồ cổ tranh quư của bà, nhưng đừng đập phá, dày xéo chúng. Cái cảm giác lạnh buốt chạy dọc theo sống lưng…

Vài năm trước, một đạo diễn trẻ, bà Lê Phong Lan làm bộ phim tài liệu để chứng minh thảm sát Mậu Thân ở Huế chỉ là xuyên tạc. Và mới đây, phó giáo sư tiến sĩ sử học Vũ Quang Hiển, trả lời phỏng vấn đài BBC: làm ǵ có chuyện ngược đăi tù đày những người thua cuộc sau 75, chỉ là tập trung học tập cải tạo cho thông đường lối chính sách, thế thôi.

Nhiều người hải ngoại phản ứng gay gắt. Tôi th́ quen rồi. Những điều “vẫn thế” như bao điều “vẫn thế” ở đất nước này. Trước họ c̣n những G. Porter (Mỹ) chứng minh (bằng cách “chặt chém” số liệu của người khác) rằng, thảm sát Mậu Thân chỉ là chuyện bôi nhọ. Lùi lại hơn chục năm, vị giáo sư này cũng cho rằng, xử chết “quá tay” trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc cũng là chuyện bôi nhọ luôn. Nhà báo W.Burchett (Úc) đă từng “đi dạo” ở Củ Chi thập niên 60 để viết b́nh luận, cũng lại là người hết lời ca tụng “Bước đại nhảy vọt” và “Đại cách mạng văn hoá” của Mao Trạch Đông. Thế đấy!

Tôi phục họ. Bước ra khỏi ranh giới của nhân cách đâu phải ai cũng dám làm.

Lịch sử có thể được nh́n dưới nhiều góc cạnh khác nhau, nhưng sự thật lịch sử th́ chỉ có một. Nhân chứng c̣n đó, và lịch sử vẫn c̣n đó.

Bây giờ, những ngày cuối tháng tư này, nơi đây đốt pháo hoa ăn mừng. Bên kia cúi đầu tưởng niệm. Triệu người vui, triệu người buồn. Vui nhiều kiểu, mà buồn chỉ một kiểu. Vui v́ tự hào là người chiến thắng. Buồn th́ chưa chắc đă v́ chiến bại, mà hậu quả chiến bại th́ đúng hơn. Bốn mươi năm rồi chứ đâu ngắn ngủi. Về kinh tế, chỉ cần nh́n qua các nước lân cận cũng đủ thở dài rồi. Giáo dục thúc đẩy bản năng nhiều hơn, cướp giựt chợ hoa, leo rào bơi miễn phí,… Mỗi năm khoảng 5.000 phụ nữ Việt bị đưa qua Malasia và Singapore bán dâm. Đó là con số chính thức, thực tế nhiều hơn. Và đó cũng chỉ mới nói đến 2 thị trường, c̣n Campuchia, Thái Lan, và nhất là Trung Quốc c̣n khủng nữa.

Nhưng cũng có những niềm vui vô tư v́ “ngày giải phóng” là ngày nghỉ dài, đi chơi thoả thích. Rồi cũng có những nỗi buồn lẩm cẩm với quá khứ, nằm nhà nghe nhạc. Vui buồn, hiểu theo nghĩa tuyệt đối, th́ mỗi năm sẽ thêm triệu triệu người vui. C̣n buồn, th́ vài ngàn, vài trăm, rồi vài chục, chỉ c̣n tí tẹo. Đất nước có chỉ số hạnh phúc cao là thế. Ngẫm lại mới thấy hội chứng Stockholm sao thiệt éo le !

*

Vậy mà 40 năm trôi qua rồi. Chiều nay t́nh cờ xem “55 năm nh́n lại”, đôi khi phải bám chặt tay vào thành ghế… Biết bao tâm tư chất chứa, cũng muốn một lần trải ḷng, nhưng rồi lại thấy, bà Dương Nguyệt Ánh đă “giành” nói hết cả rồi, nói từ 5 -6 năm trước, nói ngắn, gọn và đủ, nói cả những điều nhỏ nhặt mà lịch sử đă quên, đang quên và có lẽ cũng sẽ quên luôn: “Người lính ra trận với vũ khí kém cơi. Lỡ thua th́ bị chê bai, nhưng nếu thắng th́ chỉ những người bạn lớn được nói đến”. Tủi quá! Xin cám ơn bà.

Đă “sạch nợ sông núi rồi”. Mệnh Trời bắt thế, chỉ là lực bất ṭng tâm thôi. Đâu cần phải đấm ngực mea culpa…mea culpa. Cái đó nên dành cho những chính khách salon, những trí thức ba rọi. Sự thật là sự thật. Người lính bên nào lại chẳng đau, mỗi bên đau mỗi kiểu. Cuộc chiến tàn rồi. Ván cờ thế bày ra, không có cửa cho những tay chơi cờ thí chốt.

Tháng tư nào trời chẳng mưa. Quá khứ đâu dễ ǵ quên được. Hai mươi năm đau thương của chiến cuộc, cũng may mắn có được những năm tháng b́nh yên. Rồi thêm bốn mươi năm nữa, học được biết bao chuyện tṛ đời,… Nhưng vẫn c̣n sót lại đâu đó chút t́nh người, phải thế không?

Xin kết thúc bài viết bằng lời nhạc: “… Xin cám ơn, xin cám ơn… người nằm xuống…”

Vũ Thế Thành

hoanglan22 05-14-2019 02:47

Vũ Khí Bí Mật Của CIA: Phụ Nữ Làm Điệp Báo
 
Trong tác phẩm “Not an Easy Day”, tác giả “Mark Owen”,một bí danh của Biệt Kich “Navy Seals” Tiểu Đội 6 kể lại rằng người theo dơi, t́m ra căn nhà nơi Osama bin Laden ẩn náu là một phụ nữ. Bà Jen, chuyên viên phân tích tài liệu t́nh báo để “Truy t́m đối tượng”, c̣n gọi là “Targeter”. Trong Cơ quan T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ -CIA- c̣n có rất nhiều phụ nữ tài ba tuyệt luân khác làm gián điệp. Phải chăng phụ nữ là một vũ khí đặc biệt trong ngành t́nh báo?

Cuốn sách mới, tuy không chính thức, do chính một thành viên trong Tiểu Đội 6 của Đơn Vị Biệt Kích Navy SEALS tiết lộ lần đầu tiên, kể lại rằng toàn bộ chiến dịch lùng bắt cho được Osama bin Laden thành công là nhờ một phụ nữ, mang bí danh “Jen” làm việc trong CIA. Bà Jen là một nhà phân tích tin tức t́nh báo, đă theo dơi, truy tầm nơi ẩn náu của Bin Laden trong nhiều năm. Cuối cùng bả cả quyết rằng bin Laden đang sống trong một biệt thự kín cổng cao tường chỉ cách Học Viện Quân sự Pakistan chưa đầy nửa dậm, trong tỉnh Abbottabad. Trước khi cuộc tập kích diễn ra, bà Jen thuyết tŕnh trước tiểu đội Biệt Kích về những t́nh huống có thể xảy ra khi mở cuộc tập kích vào căn biệt thự ở Abottabad. Bà mô tả chính xác đến nỗi khi họ phá cánh cổng để vào toà nhà, cái cổng sẽ bung vào phiá trong hay bắn ra ngoài. (Bà Jen đoán không sai một ly).

Bà Jen là một mẫu sĩ quan t́nh báo kiểu mới, làm việc trong CIA với những đặc điểm như thông minh, tự tin, và phải là một phụ nữ. Những đặc điểm này trước đây chưa hề có, bởi v́ từ nhiều năm, cơ quan t́nh báo trung ương thường loại trừ phụ nữ, không tuyển họ vào làm công tác điệp báo. Thường thường nữ nhân viên chỉ được dùng trong chức vụ thư kư, công tác đả tự, hay giỏi lắm th́ cũng chỉ lên đến cấp trung trong việc phân tích tin tức t́nh báo.

Bây giờ t́nh h́nh khác hẳn ngày xưa, những người như bà “Jen” được giao chức vụ “Targeter”, hay chuyên viên truy tầm, theo dơi đối tượng. Nhiệm vụ chính của những Targeter là phải nghiên cứu rất nhiều tin tức t́nh báo do máy bay không người lái đem về,thường là không rơ ràng,và lắng nghe những mẩu điện đàm nghe lén được, hay thu thập những tin tức rời rạc, ráp nối chúng lại, để viết báo cáo về những đối tượng cần theo dơi. Chúng là những tên khủng bố, những kẻ buôn bán ma túy, vũ khí. Sau biến cố 9/11 cơ quan t́nh báo trung ương CIA bị khiến trách, chê bai rất nặng, nhất là từ phía các chính khách. Cũng v́ lư do đó, cơ quan CIA lập tức phải cải tổ, hoàn thiện công tác điệp báo của ḿnh bằng cách trang bị kỹ thuật tối tân, và huấn luyện những đợt chuyên viên targeter hoàn toàn mới, giống như bà “Jen”.

Khác với những nhà phân tích trong lănh vực kinh tế, chính trị của một nước ngoại quốc, những chuyên viên targeter này chỉ chú tâm theo dơi một “đối tượng” duy nhất, thường là những tên khủng bố, hay nhóm đối tượng đặc biệt nào đó. Họ làm việc sát cánh với những đơn vị biệt kích, những sĩ quan tiền tuyến liên quan đến việc phân tích, nhận định t́nh h́nh của họ. Theo ông Jose Rodriguez, cựu phó giám đốc CIA đặc trách về nghiệp vụ, đa số những “targeter” ngày nay lại là phụ nữ.

Thực vậy, đơn vị đầu tiên của CIA được giao nhiệm vụ truy lùng tổ chức Al-Qaeda mang bí danh “ Alec Station” là đơn vị đầu tiên tuyển phụ nữa vào làm điệp báo từ hồi thập niên 1990’s.. Ông Mike Scheuer, Trưởng toán đầu tiên của Alec St ation kể lại rằng vào năm 1999 khi ông rời Alec St ation tất cả 14 “Targeter” trong đơn vị đều là phụ nữ. Ông c̣n tiết lộ thêm rằng sau biến cố 9/11, tên lănh tụ cao cấp đầu tiên của nhóm Al-Qaeda bị tóm cổ chính là nhờ công tác điệp báo của một phụ nữ. Ông đề cao vai tṛ của phụ nữ làm t́nh báo hết mực, khi ông nói: “Nếu được phép, chúng tôi có thể treo tấm bảng hiệu: Chúng tôi không nhận đơn xin việc của đàn ông tại đây.”.

Một trong những “targeter” nổi tiếng trong lịch sử t́nh báo cận đại là bà Jennifer Matthews. Bà là trưởng nhiệm sở CIA ở tỉnh Khost , Afghanistan . Bà có trách nhiệm phải theo dơi hành tung của một lănh tụ cao cấp của Al-Qaeda, tên là Abu Zubaydah. Trong tác phẩm “The Triple Agent” “ Điệp Viên Tam Trùng” ông Jody Warrick kể lại rằng tên gián điệp Zubaydah, sắp được đưa đến điạ điểm an toàn ở Faisalabad , Pakistan . Ông Jody Warrick mô tả hết sức cảm động tâm trạng của một phụ nữ làm gián điệp. Họ bị giằng co giữa trách nhiệm với gia đ́nh và công tác điệp báo ở ngoài tiền tuyến. Bà Matthews tổ chức ăn Lễ Giáng Sinh năm 2009 viễn liên với con cái ở thành phố Fredericksburg , tiểu bang Virginia bằng cách video chat với con, qua hệ thống “skype” . Sau khi những đứa con mở quà giáng sinh, đứa con trai út hỏi mẹ: “Me cho con xem khẩu súng của mẹ đi.”. Bà cầm khẩu súng ngắn, và khẩu súng trường trên tay, gửi h́nh về cho cậu con xem. Ngay sau đó, bà đi vội sang pḥng ăn của đơn vị để cùng ăn tiệc Giáng Sinh với đồng đội. Năm ngày sau, bà Matthews bị giết chết v́ một tên bác sĩ người Jordan mà bà nghĩ y đang cộng tác với bà, và làm gián điệp cho CIA. Nhưng hắn phản bội, ôm bom tự sát, vào gặp bà Matthews và toàn thể nhân viên t́nh báo tại trụ sở CIA ở tỉnh Khost, giết chết gần hết nhân viên CIA ở đây. Ông Phó Giám đốc Rodriguez nói về bà Matthews: “Bà ta là một trong những điệp viên giỏi nhất từ bấy lâu nay.”.

Giống như bà Matthews, một điệp viên nữ khác là bà Gina Bennett, chuyên gia phân tích t́nh h́nh, đă sớm đưa ra lời cảnh cáo cho chính phủ biết từ năm 1993, về sự nguy hiểm của tổ chức Al-Qaeda. Trong tác phẩm tựa đề: “National Security Mom” “Bà Mẹ Làm Việc Trong Ngành An Ninh Quốc Gia” bà bầy tỏ nỗi khổ tâm của người phụ nữ làm nghề gián điệp, không lo tṛn trách nhiệm với gia đ́nh. Nhiều khi họ phải tổ chức những ngày lễ, kỷ niệm của gia đ́nh từ một nơi hẻo lánh xa xôi của trái đất. Bà viết trong cuốn sách: “Tôi được hưởng một ngày Mother’s Day tuyệt vời khi tôi video chat với các con, xem chúng ăn sáng với miếng pancake thơm mùi chocolate. Tôi nh́n các con trên cái laptop của ḿnh, và tưởng tượng ra mùi thơm ngọt ngào của miếng pancake các cháu đang ăn.”.

Là một bà mẹ có năm đứa con, bà Bennet tâm sự: “Tôi không nghĩ phụ nữ khác với nam giới trong việc hy sinh t́nh cảm gia đ́nh với công vụ khi chọn làm nghề gián điệp trong CIA. Điều này không có nghĩa là chồng con không ủng hộ chúng tôi trong việc làm. Thực ra, các đứa con của tôi hết sức thông cảm cho việc làm của mẹ. Chúng coi như là những người bạn đồng hành với tôi, chia sẻ t́nh cảm của gia đ́nh với nhu cầu phục vụ đất nước. Chúng rất hănh diện về việc làm của mẹ chúng.”.

Hồi đầu nắm 2009, Tổng thống Ob ama yêu cầu ông Bruce Riedel, một sĩ quan cao cấp, chuyên viên chống khủng bố, làm việc lâu đời trong CIA đến gặp Tổng thống và duyệt xét lại t́nh h́nh ở Afghanistan cho chính phủ mới của Tổng thống. Một trong những việc đầu tiên ông Bruce phải làm là đến tận trụ sở trung ương của CIA ở Langley , Virginia t́m hiểu về chương tŕnh sử dụng máy bay gián điệp drone trong cuộc chiến chống khủng bố. Ông hiểu rằng chính quyền mới của ông Ob ama chú ư rất nhiều đến chương tŕnh này. Khi đến trụ sở CIA, ông Bruce Riedel hết sức kinh ngạc khi thấy đại đa số thành phần điều khiển chương tŕnh điệp báo bí mật này là phụ nữ. Họ giỏi lắm, họ đứng thuyết tŕnh, và nắm vững từng chi tiết của hoạt động bí mật này. Ngày hôm đó người đứng thuyết tŕnh cho ông Riedel là một phụ nữ, và nhiều “targeter” khác cũng là phụ nữ.

Trước khi Toà Bạch Cung công bố chiến lược mới của chính quyền ở Afghanistan và Pakistan , ông Obama mời toàn bộ toán t́nh báo đến Văn Pḥng Bầu Dục để ngỏ lời cám ơn họ. Nhóm người được ông Riedel mang đến Bạch Cung gặp Tổng thống gồm có chuyên gia về người Afghan trong Bộ Ngoại Giao , và một chuyên gia về Pakistan từ CIA đưa sang. Ông Ri edel nói với Tổng thống: “Xin giới thiệu với Tổng thống đây là một chuyên gia giỏi nhất về t́nh h́nh Pakistan . hiện nay”. Tổng thống ngạc nhiên khi gặp người chuyên gia này là một phụ nữ đi đôi giầy cao gót. Ông bật cười, và nói đùa: “Trông bà không có vẻ ǵ là một chuyên gia về Pakistan chút nào cả.”

Là một trong những phụ nữ đầu tiên được giao trọng trách lănh đạo cao cấp trong ngành t́nh báo, bà Mary Margaret Graham đặc trách những hoạt động bí mật của CIA trong lănh vực chống phản gián, phá hoại, và hoạt động bán quân sự. Bà Graham kể lại rằng phụ nữ làm “targeter” có cái lợi là họ được ngồi làm việc ở trung ương trong vùng Hoa Thịnh Đốn, để phân tích tin tức t́nh báo. Họ lại được giao cho những công tác quan trọng.

Valerie Pl ame một sĩ quan t́nh báo xinh đẹp làm cho CIA, từng bị chính quyền của ông Bush cho bạch hoá lư lịch hồi năm 2003 bằng một bài báo của kư giả Robert Novak liên quan đến vấn đề vũ khí giết người hàng loạt ở Iraq. Bà Pl ame tâm sự rằng công việc của một targeter trong CIA giúp cho người phụ nữ hiểu được t́nh h́nh sôi động của thế giới bên ngoài, và không phải hy sinh đời sống gia đ́nh. Theo bà việc làm này có số giờ làm việc hạn định, không gây ảnh hưởng nhiều cho gia đ́nh.

Khi được hỏi v́ sao phụ nữ được ưa thích để giao làm targeter hơn là nam giới, bà Graham giải thích v́ phụ nữ có năng khiếu chú ư nhiều đến những chi tiết nhỏ hơn đàn ông. Ông Scheuer cũng xác nhận: “Giữa muôn vàn việc nhỏ nhặt trong điệp vụ t́nh báo, quả thực phụ nữ giỏi hơn đàn ông trong việc phân tích mớ tin tức hỗn độn này. Họ có tài chú ư đến tiểu tiết, và kết nối những chi tiết đó lại với nhau. Tin tức lấy về từ những nơi hẻo lánh xa xôi, rồi đem kết nối với tin thu lượm qua giấy thông hành, thẻ tín dụng. Đó là lư do khiến phụ nữ làm việc giỏi hơn đàn ông.”

Bà Bennet th́ nói đùa: “Cái tính nhớ dai của phụ nữ giúp họ tóm cổ trúng phóc những đối tượng cần bắt.”. Phát ngôn viên của CIA Preston Golson th́ cho rằng một chuyên viên phản gián giỏi là người lanh trí, sáng tạo, kiên nhẫn, nhớ dai, và có sức thuyết phục, bất kể đàn ông hay đàn bà.

Hồi xưa, CIA không hoàn toàn giữ thái độ công bằng về giới tính, nhất là khi tuyển nhân viên vào làm nghể gián điệp. Lấy trường hợp của bà Virginia Hall, bà là người đàn bà dân sự duy nhất được trao tặng huân chương bội tinh trong Thế Chiến Thứ Hai. Trong cuộc chiến này, bà Hall từng phục cho cơ quan tiền thân của CIA. Hồi bấy giờ gọi là OSS , Office of Strategic Services. Ngụy trang là người nông dân, bà Hall đă lén xâm nhập vào nước Pháp thời kỳ bị Đức chiếm đóng. Bà giúp huấn luyện ba tiểu đoàn kháng chiến quân. Người ta hết sức thán phục cái tài ngụy trang của bà. Tài liệu lịch sử chính thức của CIA kể lại rằng người ta từng thả dù bà bằng máy bay vào vùng địch. Trên lưng chỉ mang một chiếc ba lô nhỏ, thế là bà len lỏi bám vào vùng địch để sống. Vậy mà sau khi chiến tranh kết thúc, bà Hall xin gia nhập cơ quan CIA, bà bị cho ngồi một xó làm thư kư nghiên cứu t́nh h́nh, tránh xa những việc làm gan dạ của ngành điệp báo.

Thực vậy, rất nhiều sĩ quan OSS trước đây đều không t́m được việc làm trong CIA sau chiến tranh để có dịp thi triển sự gan dạ của ḿnh trong nghề gián điệp. Một cựu giám đốc điều hành trong cơ quan CIA, bà Nora Slatkin xác nhận hiện tượng này trong bài diễn văn đọc ở Hội Đồng Bang Giao Quốc Tế Chicago năm 1996: “Vào thời b́nh, xă hội của chúng ta đành ḷng phí phạm tài năng siêu việt của phụ nữ, để hồ sơ của những nhân vật trứ danh một thời như bà Virginia Hall nằm sâu trong ngăn kéo hồ sơ, không thèm đụng tới.”.

Bà Jean Vertefeuille, một nhân vật có tài bắt kẻ nội gián nằm trong cơ quan CIA. Năm 1994, chính bà đă dẫn đầu nhóm điệp viên bắt được tên phản quốc Aldrich Ames. Tên này ăn cắp tài liệu mật bán cho gián điệp Nga. Bà Vertefeuille cũng đồng ư rằng vào giai đoạn mới thành lập, CIA không đối xử công bằng đối với phụ nữ. Bà đă gia nhập CIA từ năm 1954, và kể rằng có nhiều khi phiá điệp viên đàn ông c̣n tỏ ra ăn hiếp phe phụ nữ. Nếu họ có dịp lấn lướt phụ nữ là họ làm liền, không từ nan một hành vi nào cả. Hồi bấy giờ phụ nữ được tuyển vào làm chỉ được giao làm những việc giấy tờ, hành chánh, dù rằng đương sự có văn bằng Luật khoa.

Kể từ thập niên 1970’s phụ nữ bắt đầu được giao cho công tác điệp báo. Nhưng thường ra cũng chỉ ngồi phân tích, điều nghiên, và làm thư kư. T́nh h́nh từ từ thay đổi. Lấy trường hợp của bà Graham, bà được tuyển vào làm cho CIA từ năm1979, sau khi tốt nghiệp Master (Cao Học) về văn minh Nga, và được gửi sang sứ quan Mỹ ở Mạc Tư Khoa, đóng giả làm vú em. Bà kể lại lại là hồi đó hiếm khi nào có phụ nữ được giao làm công tác gián điệp bí mật. “Khi tôi vào làm chỉ có năm phụ nữ làm gián điệp. Vài năm sau, chỉ c̣n có hai người. Ba người kia bỏ đi v́ lư do riêng, như lập gia đ́nh, hay ở nhà nuôi con.”. Trong giai đoạn này, phụ nữ thường được đề bạt lên làm chức vụ “cổ áo mầu hồng”, ám chỉ những việc làm văn pḥng trong sở nhân dụng, hay lo về ngân sách. Những công tác cao cấp về ngành gián điệp vẫn không cho phụ nữ len lỏi vào.

Vào thời kỳ đầu, phụ nữ nào lọt được vào việc điệp báo, chắc chắn người đó có nhiều lợi thế. Một sĩ quan t́nh báo phụ nữ hồi hưu kể lại rằng: “Không có ai nghĩ rằng một phụ nữ lại làm gián điệp, hay trở thành một “case officer” sĩ quan t́nh báo trong mật vụ đặc biệt. V́ thế, tôi có thể qua mặt nhiều vụ sừng sỏ khó vô cùng.” Nhưng thú thực hồi đó cánh đàn ông vẫn tỏ ra khinh miệt phụ nữ chúng tôi ra mặt. Ngay sau khi bà Plame được bổ nhiệm làm sĩ quan t́nh báo mật, ông trưởng nhiệm sở cho gọi bà lên tŕnh diện để xem mặt. Bà kể lại với tuần báo Newsweek như sau: “Khi tôi bước vào văn pḥng của ông. Ông ta gác chân lên bàn, và ph́ phèo ngậm điếu x́ gà thật to. Ông trừng mắt ngó tôi thật kỹ, và bảo tôi xoay người cho ông xem. Tôi giận quá, hét vào mặt ông.: “Ông là kẻ phải xoay người chứ không phải tôi.”. Ông ta bèn mỉm cười giă lă chữa thẹn.

Đến năm 1986, một số phụ nữ làm việc trong CIA bắt đầu rủ nhau phản công lại. Năm đó, họ cùng nhau thưa cơ quan CIA ra toà trong vụ kiện tập thể về tội cơ quan này kỳ thị, ngăn cản không cho phụ nữ làm những công tác bí mật. Năm 1995, cơ quan CIA phải xin điều đ́nh bồi thường để giải quyết vụ án. Họ hứa sẽ thay đổi chế độ làm việc dưới sự theo dơi của toà án trong ṿng bốn năm. Ngoài ra, cơ quan CIA đồng ư bồi thường những phụ nữ bị thiệt hại, mỗi người một số tiền là $940.000 đô la. Bà Graham tâm sự: “Có một số tiến bộ sau vụ kiện này. Chúng tôi hy vọng sẽ không c̣n phải đem nhau ra toà, v́ đó không phải là điều lư tưởng để t́m sự thay đổi.”

Ngày nay, gần hai thập niên sau khi xảy ra vụ kiện, theo ông Golson phụ nữ chiếm tỉ lệ 40% ở cấp lănh đạo làm trong CIA. Kể từ năm 2011, người đứng hàng thứ ba trong hệ cấp lănh đạo CIA là bà V.Sue Bromley. Trước đó, có bà Stephanie O’Sullivan. Xuống thấp hơn là những người làm công tác phân tích, điều nghiên t́nh h́nh như bà Jen. Nhân vật đă giúp kết liễu khá nhiều lănh tụ cao cấp của tổ chức Al-Qaeda.

Sau vụ tập kích đánh vào nơi ẩn náu, và giết chết bin Laden, toán biệt kích SEALs được chở thẳng đến nhà kho máy bay của Mỹ ở Jalalabad, thuộc Afghanistan . Bà Jen cùng ngồi đợi với những đoàn viên khác trong lúc những người lính chuyển giao bao đựng xác tên lănh tụ khủng bố đi nơi khác. Theo tác giả Mark Owen, bí danh của người biệt kích SEALs bắn chết bin Laden kể lại, anh trông thấy bà Jen đang đứng giữa ṿng tṛn cùng với nhiều quân nhân khác theo dơi việc chuyển giao bao đựng xác tên bin Laden. Một lúc sau, tác giả Owen viết tiếp, trong chiếc phi cơ vận tải C-130 trở về Kabul , anh ta trông thấy bà Jen đang ngồi bó gối như một đưá trẻ trong mớ đồ đạc ngổn ngang trên sàn máy bay. Bà đang rấm rứt khóc v́ sung sướng thấy ḿnh đă làm xong công tác đến nơi đến chốn.

Trong quá khứ, cơ quan CIA t́m mọi cách không cho phụ nữ đi ra tiền tuyến. Bây giờ, họ t́m cách không cho bà Jen xuất đầu lộ diện. Nói về cuốn sách mới này của một người lính biệt kích SEALs, ông Golson cho rằng nó rất nguy hiểm khi kể rành rẽ một cá nhân nào đó làm một công tác đâc biệt. Nhất là khi nói bà này đă giúp t́m ra nơi trốn tránh của bin Laden. Ông nhấn mạnh: “Những cá nhân làm t́nh báo không bao giờ muốn nổi tiếng, hay được sự chú ư, và công luận Mỹ cũng đồng ư rằng những cá nhân này nên được dấu mặt trong bóng tối.”

Như bà Jen chứng tỏ với đồng đội rằng những người phụ nữ làm ngành điệp báo cũng có quyền tranh đấu cho quyền lợi của họ trong bóng tối.

Bài phóng sự điều tra của Eli Lake trên Newsweek

Nguyễn Minh Tâm dịch

hoanglan22 06-28-2019 14:24

GẶP MA
 
Chị Nga vừa mua một căn phố nằm trên đường Vơ Di Nguy nối dài. Mặt tiền đối diện với Lăng Cha Cả và cổng trại Phi Long. Chồng chị Nga là một trắc họa viên phục vụ tại phi trường Cần Thơ. Anh chị giao cho Ḥa cai quản căn nhà. Tầng dưới, bà Nghĩa mướn mở tiệm phở. Tầng căn gác dành cho Ḥa.


Lăng Cha Cả là phần mộ Cha Bá Đa Lộc. Những bia mộ mang tên Pháp, Bồ Đào Nha... nằm hiu quạnh trong khu nghĩa địa nhỏ sau Lăng. Đă từ lâu tiếng đồn có ma thỉnh thoảng xuất hiện trong lăng nầy. Thường là bóng một người đàn ông mặc áo thụng đen của ông cố đạo. Thoảng hoặc bóng một d́ phước mặc áo trắng đứng ủ rũ bên chân mộ vào lúc nửa đêm.


Lúc nhỏ Ḥa nỗi tiếng gan ĺ lại hay ṭ ṃ , thích nghe những mẩu chuyện kể về ma quái. Hắn từng lén lút đọc bộ sách Liêu Trai Chí dị của Bồ Tùng Linh nằm trong tủ sách mà cha Ḥa cấm đọc.Thuở ấy, vào những đêm tối trời, mỗi lần mẹ sai chị Nga qua nhà bác Hai xin trầu là chị đùn ngay cho Ḥa lấy cớ bận làm bài tập hay học bài thi. Thực ra chị Nga rất sợ phải qua nhà Bác Hai trong đêm tối.


Gia đ́nh bác Hai cách nhà Ḥa một khu vườn rộng. Cuối vườn có miếu thờ Thổ địa. Chiếc đèn dầu sáng leo lét trong am phủ đầy bóng tối âm u của cây đa cổ thụ. Chữ Thần màu đỏ viết bằng chữ Hán nét lớn trên bức b́nh phong chập chờn dưới cánh lá lay động trong đêm. Dù được tiếng là bạo dạn nhất nhà, nhưng mỗi lần qua đó trống ngực Ḥa cũng đập liên hồi như tiếng trống dục trong mùa đua ghe. Ḥa hăi nhất là tiếng tắc kè từ gốc đa cất lên bất chợt.


Giờ đây dù đă trưởng thành, tính ṭ ṃ cố hữu của Ḥa vẫn c̣n thúc đẩy hắn t́m xem tận mắt ma như thế nào. V́ vậy, những đêm đi kèm trẻ tại tư gia về khuya, Ḥa không quên đảo một ṿng quanh lăng mộ.


Căn phố sát vách Ḥa là tiệm may được trưng bày khá sáng sủa. Hiệu may rất đắt khách và nổi tiếng trong vùng. Chủ tiệm là một người đàn ông trung niên, góa vợ. Độ một tháng, sau ngày Ḥa dọn đến ở, người chủ hiệu may tổ chức lễ cưới thật linh đ́nh. Họ hàng, khách dự đều là những người sang trọng. Đám rước dâu có bốn chiếc xe hơi bóng nhoáng. Cô dâu nhỏ nhắn, khuôn mặt phúc hậu. Tuy trong ngày vui mà đôi mắt cô ấy ẩn chứa nỗi buồn sâu thẳm. Ngược lại chàng rể phốp pháp cười rạng rỡ đi bên cô vợ trẻ đẹp.


Đêm động pḥng của đôi tân hôn, người chồng ôm xác vợ chạy dọc theo dăy phố kêu cứu như điên như cuồng. Cô dâu uống thuốc ngủ quyên sinh. Hàng xóm giúp chú rể đưa nàng đến bệnh viện súc ruột, nhưng bất lực. Trái tim cô đă ngừng đập bởi liều thuốc quá mạnh. Trái tim chỉ dành cho người nàng yêu thương ,không tiền bạc, thế lực nào có thể cướp được trái tim chung t́nh đó.


V́ món nợ không trả nổi của cha mẹ, nàng đă ưng thuận lấy người chủ nợ. Giấy nợ được xé bỏ sau giờ rước dâu. Cô dâu tự hủy đời ḿnh trước giờ hợp cẩn. Điều đáng ca ngợi là nàng t́m cái chết để giữ lời nguyền ước với người yêu.


Chú rể chịu cảnh góa vợ thêm lần nữa. Ông buồn rầu đóng cửa hiệu, treo bảng bán nhà. Dăy phố đă vắng vẻ bây giờ càng vắng vẻ hơn.


Nơi tiếp giáp sân sau nhà Ḥa với hiệu may có cây trứng cá khá cao, cành lá sum suê tỏa mát trên hai sân rộng. Ḥa đă lợi dụng cây trứng cá với lan can căn gác làm trụ cho một xà đơn. Vào sáng sớm hay sau giờ học khuya, Ḥa thường treo ḿnh trên barre fixe ấy hít thở cho trí óc bớt căng thẳng.


Qua mười giờ đêm khu Lăng Cha Cả ch́m trong bóng tối. Vài ngọn đèn đường vàng nhạt không đủ sáng cho khu phố trong những đêm tối trời. Ánh đèn pha từ trạm gác chốc chốc quét một luồng sáng ma quái lướt trên khu nghĩa địa.

Sau cuộc chính biến năm 1963, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, Sài G̣n liên tiếp xảy ra những biến động chính trị. Đặc công Cộng sản lợi dụng t́nh h́nh rối ren tăng cường khủng bố. Lúc th́ rạp hát bị nổ ḿn, khi th́ nhà hàng bị đặt plastic. Mùi chiến tranh đă phảng phất giữa ḷng thủ đô. Riêng khu vực Lăng Cha Cả lại rất êm ả. Các nhà chứa mỗi ngày mọc nhiều hơn. Khách t́m hoa đêm nào cũng tấp nập.


* * *



Sau ngày cúng Thất tuần của cô dâu bạc mệnh, người ta phao tin hồn cô ấy cứ hiện về lởn vởn vào lúc quá nửa đêm, khi th́ mặc áo cưới, lúc bộ bà ba trắng. Con ma treo ḿnh trên cành cây trứng cá, vắt vẻo, đu đưa. Hàng xóm xầm x́ với nhau và nh́n Ḥa với ánh mắt ái ngại…


Đường lên căn gác là một cầu thang hẹp bắc dọc theo vách ngoài hiên nhà. Bên khung cửa sổ, là bàn học Ḥa ngồi hàng đêm. Ánh đèn điện rọi qua màn cửa, hắt vài luồng ánh sáng mỏng lên đám lá đen ng̣m của tàng cây trứng cá. Gió thổi đu đưa cành lá làm chao động vệt sáng trên cây tựa bóng người mặc áo trắng chập chờn.


Chỉ c̣n ba ngày nữa là Ḥa thi tốt nghiệp năm thứ hai Đại học Sư phạm. Chàng ôn tập bài vở đến một hai giờ khuya mới đi ngủ. Thân thể mệt nhoài, Ḥa vừa nằm xuống là giấc ngủ ập tới ngay.



“Anh , anh !” Trong giấc mơ, Ḥa nghe tiếng chim kêu lanh lảnh. “Anh , anh !” lại một âm thanh khác trầm đục như tiếng gơ vào miệng chum bằng sành. “Anh , anh , anh !” Tiếng kêu ngân lên như tiếng chuông nhà thờ dục con chiên đi lễ sáng.


- “Anh , anh !” Bây giờ không c̣n là tiếng chuông mà như tiếng vọng của hồn ma réo lên từ nhà mồ. Trong giấc ngủ u u minh minh, Ḥa nghe tiếng gọi “anh” mỗi lúc một rơ. Bàn tay chàng bị đè lên bởi một vật ǵ rất lạnh. Cái lạnh không phải của nước, của sương. Cái lạnh nhớp nháp nhờn nhờn như của loài ma trơi vất vưởng ngoài đồng! Cái lạnh ḅ dần vào cánh tay trong rồi toàn thân Ḥa bị một khối đen phủ lên đè nặng khiến chàng nghẹt thở. Chàng cố vùng vẫy nhưng bất lực, miệng ú ớ. Một cái lắc mạnh vai chàng:


- “Anh ! em đây, em đây mà!”


Rơ ràng là tiếng một người con gái. Ḥa mở mắt nh́n, kinh hăi: Một bóng ma! Bóng ma trắng nơn nà bên thành giường! Ḥa rút vội tay về và ngồi ngay dậy. Cơn say ngủ chưa tỉnh hẳn. Chàng c̣n ngỡ đó là ánh trăng. Trăng sáng lờ mờ rọi qua khung cửa sổ. Ánh sáng loang tỏa căn pḥng một màu trắng vàng lạnh, trung ḥa với màu trắng bóng ma! Ḥa giụi mắt, định thần. Bóng ma vạch mùng ngồi lên giường. Ḥa khiếp hăi thét lên:


- “Ai đấy?”


- “Em đây ”, giọng run run yếu đuối của người bị kiệt sức. Bóng ma tiến vào,


Ḥa lui sát vách tường. Bóng ấy tiến theo, Ḥa sợ quá thét lên: “Ngồi im đó”. Ánh trăng bây giờ sáng tỏ hơn và tỏa đều trên thân thể người con gái không một mảnh vải. Mái tóc đen dài xơa trên nửa khuôn mặt trắng xanh và che khuất một phần bộ ngực trắng ngần vun cao. Bây giờ đă hoàn toàn tỉnh ngủ, Ḥa với tay bật đèn. Người con gái vội cản:


- “Xin anh đừng cho sáng, em sợ ánh đèn lắm !”


Ḥa thầm nghĩ : “Chỉ có ma quỷ mới sợ ánh đèn, sợ ánh mặt trời và lửa. Đối diện với chàng chẳng lẽ là quỷ hiện h́nh? Quỷ trong thân xác của một người con gái?” Trí nhớ Ḥa vụt hiện ra khuôn mặt trắng bệch, thân thể mềm nhũn của cô dâu tự vẫn ở tiệm may bên cạnh. Toàn thân Ḥa bỗng dưng lạnh toát! Miệng chàng khô khốc, muốn la lên mà lưỡi th́ líu lại. Muốn chạy thoát khỏi giường nhưng đôi chân chàng lại tê cứng. H́nh như bóng người đối diện đoán biết cơn sợ hải của Ḥa vội vàng lên tiếng:


- “Xin anh b́nh tĩnh , em tên là Lài ở bên lầu bà Thúy.”


Lầu bà Thúy là nơi chứa gái hạng sang, ở vùng nầy ai cũng biết. Ḥa điềm tĩnh trở lại và nhủ thầm : “Từ Lầu bà Thúy th́ không cần hỏi lư lịch cũng biết cô gái nầy là ai! chàng vội vất tấm drap mỏng cho nàng che thân. Cô gái quàng vội tấm vải lên người rồi kể tiếp:


- “Em đang đi khách th́ bọn “Cớm” * ập vào pḥng. Em chưa kịp mặc áo quần đă phải vọt qua cửa sổ chạy băng qua các nóc nhà. Khi đến đây bị đuối sức em đă rớt từ trên cao xuống sân gạch. H́nh như em đă ngất đi một thời gian khá lâu, khi tỉnh dậy t́m đường thoát thân mà chẳng có lối ra. Cuối cùng, thấy căn gác nầy không đóng cửa, em đă đường đột vào đây, mong anh tha lỗi và cho em được trốn tránh qua đêm nay”.


Ḥa ngỏ ư bật đèn sáng để t́m cho nàng bộ đồ mặc tạm. Nàng ngăn lại và giải thích:

- “Thấy sáng đèn, cảnh sát sẽ nghi ngờ đến đây xét nhà. Thôi th́ cho em mượn bộ pyjama anh đang mặc cho đỡ lạnh. Em nằm ngoài sương ướt cả mấy tiếng đồng hồ rồi!” Cảm thương thân phận ả giang hồ, Ḥa không thể chối từ lời đề nghị đó.


Cô gái vừa mặc xong quần áo th́ tiếng gơ cửa soát nhà vang lên. Nàng vội vă nằm xuống, kéo mền che cả mặt. Sự sợ hăi quá độ khiến cô run bần bật như bệnh sốt rét bắt đầu lên cơn. Nắm lấy tay Ḥa, với đôi bàn tay hoàn toàn mất tự chủ, nàng lắp bắp van lơn:


- “Xin... cứu... em , nhận... em... là… vợ… anh... nhé...”


Tiếng gơ cửa thêm dồn dập. Với áo lót quần đùi, Ḥa vội vàng xuống nhà mở cửa. Nh́n ra trước lộ, chàng thấy lực lượng vơ trang đứng giăng hàng ngang dọc theo khu phố. Cảnh sát địa phương và ông khối trưởng yêu cầu cho xét nhà và kiểm tra tờ khai gia đ́nh. Ḥa cho biết gia đ́nh bà chủ tiệm phở không ở đây. Chàng chỉ là sinh viên thuê căn gác trọ học. Họ bàn thảo với nhau rồi bỏ sang nhà bên cạnh. Ḥa trở lên căn gác. Cô gái run sợ lúc năy, bây giờ hoàn toàn tươi tỉnh. Ḥa ngạc nhiên khi nh́n thấy cô nàng đă cởi bỏ hết áo quần từ bao giờ. Chàng hỏi:


- “Sao lại làm vậy?”


- “Nếu bọn chúng lên đây kiểm soát th́ em đóng vai là vợ anh!” Nàng vừa trả lời vừa ôm chầm lấy Ḥa và hôn tới tấp trên má, trên môi chàng.


Cô gái th́ thầm:


- “Anh đă cứu mạng em, anh là ân nhân của đời em!”


Nàng siết chặt Ḥa trong ṿng tay nồng nàn và sẵn sàng dâng hiến. Đôi vú căng đầy ép vào ngực Ḥa khiến cơn dục t́nh của họ trương lên cực độ và hai thân thể quyện lấy nhau.


Trời vừa hừng sáng, Lài đă đánh thức Ḥa dậy. Nàng van nài chàng cố gắng t́m một bộ đồ nữ. Giờ nầy, phố chợ chưa mở cửa vả lại, Ḥa chẳng có bà con hàng xóm nào gần gũi quen thân. Áo quần Ḥa th́ quá rộng cô bé không thể dùng được. Đang lúng túng, Ḥa chợt nhớ tới chiếc vali đựng tư trang của người bạn gái mang gởi trước khi về quê nghỉ Hè. Trong rương gồm ít sách vở, một bộ chemise quần, hai bộ áo dài đồng phục nữ sinh. Ḥa mừng rỡ định lấy ra cho nàng bộ chemise quần, nhưng cô bé ngỏ ư mượn bộ áo dài trắng, nàng bảo:


- “Anh vui ḷng cho em mặc bộ nầy, hôm sau giặt ủi tươm tất sẽ mang trả cho anh.”


Lài mặc chiếc áo dài rất vừa vặn. Trên ngực áo nổi bật bảng tên trường nữ trung học Gia Long - Trần Thị Phượng - 11A. Trước khi từ giă, nàng xin Ḥa cuốn tạp chí Phổ Thông cầm nơi tay. Với mái tóc thề ngây thơ, khuôn mặt thanh tú và chiếc áo dài trắng thướt tha, chẳng một ai nghi ngờ Lài là “gái làm tiền”. Bước chân ra đi vội vă, khuôn mặt nàng trở nên lạnh lùng, cứng cỏi mất hẳn nét yếu đuối của đêm qua.


* * *



Nhật báo ra ngày hôm sau có một bản tin đặc biệt đăng tải nơi trang nhất:

“Nhận được tin mật báo, vào lúc 12 giờ đêm ngày 13-6-1967, các đơn vị an ninh Đô thành và Gia Định đă phối hợp bao vây một cuộc họp của bọn VC nằm vùng tại căn lầu 120 đường Trương Minh Kư thuộc khu vực Lăng Cha Cả. Kết quả bắt được 5 tên. Trong số nầy có một đội trưởng Đặc công Biệt động Thành. Số khác chạy thoát. Bọn chúng giả dạng là khách “mua hoa” và gái “bán dâm” để qua mặt lực lượng Cảnh sát. Chủ nhà là bà Phan Thị Đăi, tên thường gọi bà Thúy hiện đang bị câu lưu để điều tra.”


Bản tin trên đối với Ḥa cũng như một số sinh viên, học sinh khác ở thủ đô chẳng có ǵ quan trọng. Họ rất vô tư trước thời cuộc. Ḥa xem qua để rồi quên lăng. Duy có một điều làm Ḥa bận tâm là chờ đợi cô gái tên Lài mang trả bộ áo quần.

Qua ba ngày, rồi một tuần lễ, cô gái vẫn biệt tăm. Ḥa không tin là Lài đă dễ dàng quên lời hứa và quên cả ơn cứu giúp của chàng nhanh đến vậy. Ḥa c̣n nhớ rơ thái độ rất nghiêm túc khi nàng ghi tên họ và số nhà của Ḥa vào một mảnh giấy.


Thường ngày, Ḥa về nhà rất khuya, phải mất ba tiếng đồng hồ kèm trẻ mỗi đêm. Hôm nay, ngày lễ Vu Lan chàng được về sớm. Vừa đặt chân đến đầu hiên nhà là Ḥa đă nghe tiếng mơ tụng kinh. Bà Nghĩa chủ tiệm phở đón chàng ở cửa, hỏi:


- “Mấy bữa nay em có thấy điều ǵ khác lạ không?”


Ḥa đang ngơ ngác, bà Nghĩa tiếp:


- “Cách đây mấy đêm, ma xuất hiện lẩn quẩn trong khu nầy. Hồn cô dâu hiện về khua động trên mái nhà. Hàng xóm thấy bóng một cô gái trần truồng – A Di Đà Phật – mái tóc của Ngài đen tuyền dài đến gót chân. Ngài đi lên chiếc cầu thang nầy đây, đến cửa ra vào th́ biến mất.” Bà Nghĩa vừa nói vừa chỉ chiếc cầu thang lên căn gác của Ḥa ở, rồi tiếp:


- “Hôm nay tôi mời thầy đến đây cúng cô hồn, đồng thời trừ yểm không để Ngài về quấy phá nữa.” Nói xong bà chắp hai tay trước ngực niệm: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát!”.


Bên gốc cây trứng cá là một bàn hương án có đủ lễ vật cúng cô hồn, lại thêm bộ áo cô dâu bằng giấy mă. Ḥa nhíu mày suy nghĩ: “Bóng con ma trần truồng” chẳng lẽ cô gái tên Lài là quỷ hiện h́nh? Cô từ lầu bà Thúy chạy băng trên nóc nhà rồi rớt xuống cái sân nầy. Ma và người làm sao có thể lẫn lộn được. Chàng nhớ khá rơ cái đêm hôm ấy. Thân thể Lài rất nồng ấm và nụ hôn cũng rất trần tục! Duy có một điều mà giờ nầy Ḥa c̣n ngờ vực. Cô gái rất vụng về trong lúc làm t́nh không như gái làng chơi đă từng điêu luyện trong nghề. Ḥa có cảm giác là cô bé lần đầu tiên biết thế nào là cơn tột đỉnh t́nh dục. Đôi tay bấu vào lưng chàng, đôi môi quyện lấy lưỡi chàng. Như thế, nhất định nàng không phải là ma, nhưng nàng có đích thực là gái điếm?


* * *

T́nh h́nh chiến sự ở Cần Thơ có phần nặng nề, chị Nga phải đưa bầy con về Sài G̣n. Bà Nghĩa, chủ tiệm phở phải trả lại nhà cho gia đ́nh chị ở. Việt cộng gia tăng cường độ pháo kích vào các phi trường, v́ vậy khu dân cư nằm quanh ṿng đai sân bay Tân Sơn Nhất , nhà nào cũng phải có hầm trú ẩn tránh pháo.

Những ngày cận kề Tết Nguyên Đán, các gian hàng quanh chợ Bến Thành nhộn nhịp. Tiếng rao hàng ḥa với điệu nhạc mừng Xuân càng thêm náo nức. Chợ hoa trên đường Nguyễn Huệ cũng tấp nập người là người. Những cành mai, cành đào, búp xanh mơn mởn. Những chậu kiểng được cắt tỉa công phu, đầy nghệ thuật và đủ các loại hoa tràn ngập cả một đoạn đường. Các chuyến xe đ̣ cũng đầy nghẹt khách về quê ăn Tết.

Khác với mọi năm, đă cuối ngày ba mươi tháng chạp mà đường phố ngoại ô Sài G̣n vẫn c̣n đông người qua lại. Họ rảo bước về một nơi nào đó như cho kịp chuyến xe cuối cùng. Một số khác, thoạt trông như những chàng tân binh trốn quân trường về nhà ăn Tết. Họ mặc quần áo lính trông lôi thôi lếch thếch. Khuôn mặt người nào cũng mang nét khẩn trương. Xe tuần tra của Quân Cảnh Mỹ-Việt cũng không thấy xuất hiện ở những khu phố có nhiều quán rượu như thường ngày.

Trời vừa nhá nhem tối, dăm ba bàn thờ lẻ loi được đặt trước hiên nhà chuẩn bị đón giao thừa. Anh rể của Ḥa nhắn tin không thể về ăn Tết v́ lệnh cấm trại vào giờ chót. Chị Nga cùng gia đ́nh ăn bữa cơm cúng rước ông bà trễ tràng và nguội lạnh.


Đường phố vắng lặng , chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa là đến giờ Giao Thừa , bỗng có tiếng người la lớn: “Việt Cộng bà con ơi!”

Anh thanh niên vừa báo động vừa chạy băng qua đường. Một loạt đạn AK từ trong lăng mộ bắn đuổi phía sau lưng, anh ngă xuống nằm sóng soải trên mặt đường, máu tuôn lênh láng. Từ cổng trại Phi Long, những tràng đại liên cũng bắt đầu quạt liên hồi. Tiếp theo là tiếng nổ của các loại súng, lựu đạn vang lên tứ phía. Cộng quân tấn công vào Bộ Tư Lệnh Không Quân trước giờ Giao Thừa.

Chị Nga hấp tấp lùa bầy con vào hầm trú ẩn. Ḥa ḅ ra cửa, nh́n qua khe hở. Điện đường tắt ngấm, phố xá lờ mờ. Hướng bên bờ thành cổng trại Phi Long, loáng thoáng nhiều bóng người đội nón tai bèo, vai quàng khăn dù núp sau bia mộ.

Tiếng súng bỗng dưng ngưng bặt. Sự yên ắng lạnh lùng bao trùm cả khu phố. Mọi người nằm thiêm thiếp trong hầm. Chợt có tiếng gơ cửa, rồi giọng nói của người đàn ông thúc bách:

- “Mở cửa, quân giải phóng đây !”

Không ai trả lời...!

- “Mở cửa, nếu chậm trễ sẽ giựt sập nhà!”

Chị Nga đẩy Ḥa vào ngách hầm, trấn những bao cát c̣n lại lên cao, chị ra mở cửa. Một nữ các bộ VC mặc bộ bà ba đen, vai mang một khẩu súng ngắn và túi dết bên hông. Theo sau là người du kích với áo quần màu xanh, nón tai bèo, hai tay gh́m khẩu AK. Một người khác đứng chắn ngang cửa.


- “Nhà có mấy người?” Người du kích trừng mắt hỏi.


- “Tôi và bốn đứa con.” Chị Nga trả lời.


- “Chúng nó đâu?”


- “Trong hầm!”


- “Gọi ra!”

Chị Nga theo lệnh vào hầm đẩy bốn đứa nhỏ ra đứng bên chị. Chúng nó sợ hăi, khuôn mặt đứa nào cũng đầm đ́a nước mắt.

Từ lúc vào nhà đến giờ, nữ cán bộ VC lặng lẽ quan sát mọi ngóc ngách trong nhà, chợt y thị hỏi:

- “Tên Hồ Phú Ḥa đâu?”

Chị Nga giật ḿnh nhủ thầm : “Sao nó biết tên em trai ḿnh?”

- “Nhà tôi không có ai tên Hồ Phú Ḥa.” Chị Nga điềm tĩnh trả lời.

Người du kích quát:

- “Cơ sở cách mạng nắm hết danh sách hộ khẩu, các người đừng ḥng che giấu.”

Khuôn mặt lạnh lùng của nữ cán bộ Việt Cộng khẳng định: “Tên Hồ Phú Ḥa là sinh viên trọ học tại nhà nầy.” Chị Nga lấy lại được b́nh tĩnh, tỏ vẻ thành thực hăng hái tiếp lời:

- “Ồ, đúng rồi, nó là sinh viên ở tận ngoài Trung, mướn căn gác nhà tôi trọ học. Nó về ngoài đó ăn Tết đă hơn tuần nay!”


Người du kích nghi ngờ, quét một đường pin sáng vào hầm rồi lên tiếng đe dọa:

- “Nói dối với cách mạng là bị trừng trị đấy.” Hắn quát lớn:

- “ Chuẩn bị ném bộc phá vào hầm!”

Chị Nga thất kinh, lạnh cả người. Chợt người nữ cán bộ bảo: “Không cần thiết”, rồi ra lệnh rời khỏi nhà. Y thị quay nhanh ra cửa, người cận vệ bước theo.

Nín thở trong hầm, Ḥa lắng nghe những mẩu đối thoại vừa rồi. Chàng để ư đến giọng nói nhè nhẹ êm êm của người nữ cán bộ VC. Giọng miền Nam rất quen thuộc, giống hệt tiếng nói của Lài, người con gái đă mượn bộ quần áo dài của Phượng cách nay sáu tháng.

Ngoài đường phố đột nhiên chân người chạy rầm rập. Bộ điện đàm của máy truyền tin kêu xè xè bên hông nhà. Đèn dù của máy bay thả sáng rực cả bầu trời Tân Sơn Nhất. Tiếng súng lại bắt đầu nổ đều khắp. Không riêng ǵ khu vực Ḥa ở mà hầu hết Sài G̣n. Pháo đón giao thừa ở Thủ đô thay bằng tiếng súng. Rượu nồng chúc Xuân chỉ c̣n là máu của lương dân vô tội! Đạn pháo kích của Cộng quân rít lên từng hồi rơi bừa băi trong khu đông dân cư. Máy bay trực thăng quần thảo trên bầu trời phóng từng đợt rocket vào những điểm tập trung của địch cùng những loạt đại liên không ngừng quạt xuống đám cộng quân ẩn nấp trong khu nghĩa địa.

Đồng hồ vừa điểm bốn giờ sáng. Mọi khi, giờ nầy đă nghe tiếng gà gáy bên căn nhà số 80 của ông Tư gà đá. Hôm nay, gà cũng tắt giọng v́ khiếp sợ.

Tiếng súng giao tranh từ hướng Bộ Tổng Tham Mưu vọng về càng lúc càng dữ dội. Riêng khu vực trại Phi Long, trận chiến dần dần lắng dịu. Từng tốp trực thăng rầm rập bay lượn trên bầu trời.

- “Chi Lăng gọi Quyết Thắng! Chi Lăng gọi Quyết Thắng!”

- “Quyết Thắng nghe Chi Lăng.”

- “Quyết Thắng báo cáo t́nh h́nh khu vực trách nhiệm. Nghe rơ trả lời.”

- “Quyết Thắng nghe rơ năm trên năm.”

Ḥa nhận ra tiếng điện đàm truyền tin quen thuộc của lính Cộng ḥa. Chàng kêu chị Nga dậy và báo tin mừng là quân ta đă giải tỏa khu phố ḿnh. Ḥa vội vàng hé cửa nh́n ra đường, trời đă hừng sáng. Lực lượng Biệt Động Quân đă chiếm lĩnh toàn thể khu vực Lăng Cha Cả và trại Phi Long. Nh́n bóng dáng của người lính chiến nơi chiến trường c̣n vương khói súng, ḷng Ḥa xúc động. Khuôn mặt chị Nga đẫm lệ và nước mắt Ḥa cũng rưng rưng. Nước mắt của nỗi vui mừng và ḷng biết ơn dâng tràn. Nước mắt của niềm xúc động sâu xa trước tinh thần quả cảm của người chiến sĩ. Ḥa muốn mở cửa chạy băng qua đường để bắt tay tri ân những chàng trai hào hùng đó. Các anh sẵn sàng hy sinh cả tánh mạng, nhận lấy bao gian nan, khổ ải để dân chúng hưởng hạnh phúc ngày Xuân. Chợt tỉnh ngộ – Ḥa cảm thấy xấu hổ bởi ḷng vị kỉ của ḿnh.


- “A lô ! a lô! đồng bào chú ư. Cộng sản Bắc Việt đă lợi dụng giờ hưu chiến Tết Mâu Thân đồng loạt tấn công vào Thủ đô Sài G̣n và nhiều nơi khác. Đồng bào hăy b́nh tĩnh. Quân đội đă giải tỏa toàn thể khu vực Tân Sơn Nhất, nhưng vẫn c̣n nhiều tên VC đang lẩn trốn trong khu phố. Yêu cầu đồng bào cảnh giác, ở yên trong nhà. Quân đội đang lục soát, truy lùng tàn quân Bắc Việt trên toàn vùng”.

Đó là nội dung bản thông cáo được phát ra từ chiếc loa phóng thanh của toán Chiến tranh Tâm lư. Ḥa mở rộng cửa, ánh nắng ban mai chóa ḷa. Nh́n sang phía sau lăng mộ, bất chợt, Ḥa trông thấy một góc tà áo dài trắng vắt qua tường thành nghĩa địa. Vạt áo phất phơ theo từng cơn gió xuân thổi về đă gợi tính ṭ ṃ của Ḥa. Bất giác, chàng chạy băng qua đường, nhảy qua tường rào. Trước mắt Ḥa là xác một cô gái mặc áo dài trắng dựa lưng vào góc tường. Máu đọng vũng quanh nàng ướt đẫm chiếc quần bà ba đen, một đoạn ruột trào ra nơi bụng nàng . Mái tóc đen dài kẹp chúm vắt qua vai phủ lên ngực áo. Đầu ngả sang một bên che một phần khuôn mặt trắng bệch. Đôi mắt mở trừng trừng, hiện rơ nốt ruồi đen nằm giữa hai hàng lông mày giáp nhau. Ḥa giật ḿnh nhận ra khuôn mặt của Lài. Chàng hất tung lọn tóc phủ trên ngực, bảng tên nữ sinh trường Gia Long c̣n đậm nét hiện ra trên ngực áo : Trần Thị Phượng -11A. Ôi! Chiếc áo của Phượng bạn gái chàng. Chiếc áo đă giúp cho nữ cán bộ Việt cộng nầy qua mặt được lực lượng Cảnh sát truy lùng sáu tháng trước đây. Ḥa đă che giấu nàng và hai người đă qua một đêm ân ái.


Một niềm thương cảm bỗng dưng tràn ngập ḷng Ḥa. Chàng định đặt xác nàng nằm xuống ngay bên cạnh, chợt thấy trên ngôi mộ đối diện có chiếc khăn dù, Ḥa nhặt lên rồi trải trên khoảng đất bằng phẳng. Đoạn, chàng nâng đầu tử thi kéo về hướng có chiếc khăn dù. Bỗng – đoành – tiếng nổ xé trời, khói tỏa mù mịt ! Ḥa ngă xuống.

Trước khi tháo chạy, đồng đội được lệnh cấp trên đặt dưới lưng xác người nữ Cán bộ Biệt động Thành một quả lựu đạn đă rút chốt an toàn.Một sự thật tàn độc của Việt Cộng mà người dân bình thường như anh sinh viên tên Hoà không hề biết đến.

Bóng ma thoáng qua óc Ḥa rồi dần dần lịm tắt!


Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

hoanglan22 07-26-2019 22:43

Một tiếng kêu “Thầy”
 
1 Attachment(s)


1.
Hồi tôi mới lên đại học là năm 1967, học lớp dự bị Triết trường Văn Khoa, có lần một ông anh rể đă dẫn tôi đi chơi, tập tành nhậu nhẹt với một loại rượu b́nh dân nhưng rất đả. Đó là nhăn rượu Vĩnh Sanh Ḥa, c̣n gọi là Vĩnh Tồn Tâm, chai thủy tinh vuông 1 lít, uống với Soda th́ tuy thoang thoảng mùi thuốc Bắc nhưng ngon không thua cho lắm nếu so với whisky soda, chẳng hạn như Bee Hive, Johnny Walker.

Để uống Vĩnh Ṭn Ten – dân bợm thường gọi tếu như thế – ông anh đă dẫn tôi khu Chợ Cũ, cuối đường Hàm Nghi, Quận Nhứt Sài G̣n thời đó, vào một tiệm nước của người Tàu, đối diện hơi chếch bên kia đường là tiệm bánh danh tiếng Như Lan. Gọi rượu và soda xong, ông anh bước qua đường, vào một tiệm Tàu bán đủ thứ thịt quay: heo quay, gà vịt, vịt quay, ḷng phá lấu, xá xíu…, nhưng bởi là tư chức lương thấp, anh tôi chỉ gọi một thứ… tổng hợp, toàn là cổ, chân, cánh gà vịt quay, lổn nhổn trong miếng lá chuối, bọc thêm giấy báo tiếng Tàu bên ngoài.

Nhấm rượu, gặm cổ, chân vịt một lát, tự nhiên từ bản kế bên một ông khách hơi trọng tuổi cầm ly bước qua, giọng Nam bộ thật chơn chất, vui vẻ nói một hơi:

“Xin lỗi hai chú em, nảy giờ tui ngồi một ḿnh bàn bển thấy hai chú em cũng lịch sự, nói chuyện nghe thiệt đàng hoàng, mà cũng có ‘gu’ thích Vĩnh Ṭn Ten như tui nữa. Thôi th́, tui xin phép cất qua bên cái mớ lá chuối này, rồi ḿnh ngồi chung nhậu thịt quay tui mời cho vui nhe, được hôn mấy chú em?”.

Không có cách nào khác hơn, chúng tôi cùng lịch sự gật đầu “Dạ, mời anh”. Ông khách cười hể hả, trở về bàn đem qua tiếp dĩa thịt heo quay bự xự cùng gói thuốc Craven A rồi ngồi xuống hô liền: “Dô chớ!”.

Sau vài tua cụng Vĩnh Ṭn Ten, ông khách cho biết ḿnh ‘thứ tư’ và hỏi chúng tôi ‘thứ’ mấy. Xứng thứ xong xuôi th́ ở đây, tại bàn rượu này, tôi chợt được có tên mới là “chú Hai” v́ anh Tư–taxi mới quen không hề để ư chút nào đến tên Hùng trong câu trả lời của tôi, rằng “Dạ em tên Hùng, thứ hai”. Ynhư vậy, ông anh của tôi bắt đầu có tên tại bàn là “chú Năm”, c̣n tên Huy anh có xưng ngay từ đầu th́ cũng bị người nghe thông qua luôn.

Vậy đây là anh Tư-taxi bởi anh đang chạy taxi kiếm sống. Bữa nay chạy cũng khá nên sau khi nghỉ đón khách, anh Tư đă cho phép ḿnh trên đường về nhà ghé tiệm ở khu Chợ Cũ này để xả hơi, tức làm vài ly Vĩnh Ṭn Ten với soda như sở thích lâu nay, và mới làm một ly th́ bắt gặp anh em tôi ở bàn bên…

Đến lúc nghe tôi tự giới thiệu chưa đi làm, chỉ là sinh viên học năm đầu đại học, anh Tư chợt có vẻ rất chú ư, hỏi liền:

“Sinh viên tức là có bằng tú tài hai, phải hôn chú em?”

Tôi đáp “Dạ, ai cũng vậy, đậu tú tài hai rồi th́ được ghi danh học đại học, anh Tư”.

Anh Tư chợt cười he he, cầm ly lên:

“Vậy chú Hai là ông thầy rồi. Tui học hành ít mà run rủi tụi ḿnh gặp nhau ở đây th́ thiệt là hên. Vô cái đi rồi tui sẽ nói muốn nhờ chú Hai một chuyện… Coi ông thầy có nhận hôn nhe!”.

Sau đó, anh Tư-taxi kể vắn tắt là có người em ruột, cũng “học hành ít”, vô cảnh sát làm đă lâu mà không thể lên lương bậc ǵ hết, bởi đă không có bằng tiểu học để nộp. Trong khi đó, theo qui định của ngành cảnh sát quốc gia, chỉ cần người có bằng tú tài hai dạy rồi làm giấy chứng nhận, rằng cho anh cảnh sát viên đă học hết chương tŕnh tiểu học của Bộ Giáo dục do ḿnh dạy, nhớ kèm theo là bản photo bằng tú tài. Với tờ chứng đó, anh cảnh sát viên đem nộp là được chấp thuận tăng một bậc lương.

Vậy là “tứ hải giai huynh đệ”, trong lúc gă trai trẻ 18 tuổi là tôi ngượng ngùng, không dám nhận danh xưng “ông thầy” – trên đời, tôi chưa từng được ai gọi như vậy dù tôi đă từng đi kèm trẻ tại tư gia- th́ anh Tư-taxi, thay v́ để ông chủ tiệm tiếp tục đến bàn đong, rót từng shot rượu theo kiểu khách kêu từng ly – đă gọi thêm nguyên chai Vĩnh Sanh Ḥa,…

2.
Chẳng bao lâu, đúng hẹn là anh Tư taxi dẫn chúng tôi đến nhà anh cảnh sát viên, một căn phố nhỏ nằm trong hẻm ở vùng Phú Nhuận. Tên anh chủ nhà là ǵ th́ đă quá lâu rồi, tôi chỉ nhớ mang máng qua lúc làm giấy tờ nhưng chắc chính xác, đó là Trần Văn Tốt. Thôi th́, lại kêu theo kiểu Nam bộ, đây là Sáu Tốt, em anh Tư-taxi. Mở đầu th́ không thể có ǵ khác hơn là một chầu nhậu ‘bộ tứ’ ngồi dưới sàn gạch bông, bia lon Hamm’s của Mỹ với mồi màng hậu hĩnh, ê hề. Sáu Tốt cũng chơn chất, hể hả y như anh ḿnh, lớn hơn tôi cả chục tuồi mà cứ gọi tôi là “ông thầy” hay “thầy” hoài khiến tôi rất ngượng.

Khi tôi viết xong và trao cho anh tờ giấy chứng nhận cùng tờ bản sao bằng tú tài – có dấu đỏ sao y bản chánh đàng hoàng của ủy ban hành chính xă B́nh Ḥa, quận G̣ Vấp, sát bên lăng Ông, Bà Chiểu thời đó, Sáu Tốt rất xúc động, không hề đọc qua tờ chứng dù tôi đă nhắc mấy lần:

“Cám ơn, cám ơn ông thầy nhe. Đọc ǵ chớ, thầy viết là đúng chắc cú luôn rồi. Để tui…”

Sáu Tốt tự nhiên ngừng nói, đứng phắt dậy, cầm tờ giấy cẩn thận cất lên tủ thờ ngay sau lưng ḿnh, nói liền khi ngồi xuống trở lại:

“Xin lỗi, em cất giấy đàng hoàng vậy cho chắc ăn, để dưới này lỡ đỗ bia th́ ướt tèm lem hết sao! Dạ mời mấy anh, mời thầy Hai vô chớ, c̣n khui lon mới…”.

Bữa nhậu rôm rả tiếng cười, hết sức vui vẻ như đánh dấu một công việc lớn vừa hoàn thành, giúp chủ nhà cởi bỏ được một gánh nặng, một nỗi lo suốt bấy lâu nay.

Đang cười bỗng Sáu Tốt nghiêm mặt nói:

“À, xin phép anh Tư, anh Năm, xém nữa Sáu này quên. Mang ơn thầy Hai nhiều quá rồi, xin gởi thầy vài ngàn, chút đỉnh gọi là cám ơn…”

Tôi lập tức ngắt lời Sáu Tốt. Cậu trai mới lớn đă uống chắc cũng 5, 6 lon Hamm’s, giọng đă có vẻ hơi hơi dân chơi, hơi hơi giang hồ, c̣n vỗ vào đầu gối chủ nhà cái “đét” khi nói – một cử chỉ suồng să hiếm thấy nơi cậu SV mới năm dự bị:

“Hổng được nghe anh Sáu, tôi hổng nhận đâu. Tụi tôi mới biết anh Tư, anh Sáu đây thôi nhưng t́nh thương mến thương, giúp được ǵ cho anh Sáu th́ tôi ráng hết ga thôi. Đừng chíp bụng để tâm nghe. Nè, mà đừng kêu tôi thầy nữa, tôi nhỏ hơn anh cả chục tuổi…”

Sáu Tốt lại lè nhè ngắt lời tôi:

“Đâ…âu được. Thầy Hai có học hành cực khổ th́ phải kêu bằng thầy chớ. Mà… nhận dùm tui đi, xin gởi thầy đây là hai ngàn, chút đỉnh coi như tiền giấy mực thôi mà.”

Thời năm 1967 ấy, tôi nhớ giá một chiếc honda C50 dame khoảng 32,000 – 35,000 đồng VNCH, c̣n chiếc Yamaha dame cũng 50cc tôi đang đi học th́ ba má tôi mua hết 29,000 đồng. Và ḱa, dù là tiền thù lao, tiền tạ ơn, tiền giấy mực ǵ đó th́ BỐN TỜ TRẦN HƯNG ĐẠO xanh mướt lúc ấy đều không thể nói là nhỏ hay chẳng có chút nghĩa lư nào đối với một cậu sinh viên con nhà nghèo.

Nhưng rốt cuộc, cũng có thêm ư kiến “Nên” của anh Tư-taxi và ngược lại là “Không nên” của anh rể tôi, tôi đă không nhận món tiền cũng-có-ư-nghĩa ấy.Trong ḷng vui ngút ngàn, một nỗi phấn khích bay bổng bởi cảm giác tự hào là vừa làm được việc tốt cho đời, anh thầy 18 tuổi liên tục hưởng ứng những cái “vô”. “vô” từ phe chủ nhà đến say mèm, đến độ khi tàn cuộc phải để ông anh chở…

Phạm Nga
Sydney, đông 2019

tbbt 08-22-2019 04:41

Cô Giáo "Ngụy"


Nữ sinh Trường Trung Học Công Thanh. Ngôi trường được xây dựng với sự hợp tác của Lữ Đoàn 173 Không Vận Hoa Kỳ và người dân, ngày 12 Tháng Mười, 1967. (H́nh: Flickr manhhai)

“…Tôi đă thấy điều đẹp đẽ trong một xă hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đă mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này…”

Một đứa học tṛ la lớn. Bọn con trai, mấy đứa con trai đang quây quần ở cuối lớp chơi tṛ “dích” h́nh, đứa nào đứa nấy vội vă thâu tóm lại mấy tấm h́nh màu bằng b́a cứng có in h́nh sặc sỡ. Bọn con gái đang tụm ba tụm bảy nói chuyện nô đùa cũng vội vàng quay về chỗ cũ.
Cô giáo Mai lễ mễ ôm phần chia nhu yếu phẩm của cô tháng này, gồm mấy trăm gram thịt, mấy trăm gram đường bước vào lớp. Cô bước vào lớp, tất cả học sinh đứng lên chào. Sau khi để gói thịt, gói đường cẩn thận vào trong giỏ. Cô mỉm cười:
-Cô cho các tṛ ngồi xuống. Các tṛ làm chi ồn rứa bộ định làm loạn giống…

Mai định nói làm loạn giống “Việt Cộng” như thói quen cô vẫn nói khi la rầy học tṛ trước kia, nhưng cô ngưng lại kịp. Sau khi nghe em lớp trưởng điểm danh, cô bắt đầu khảo bài. Học tṛ của cô phần nhiều thuộc những gia đ́nh mà chính quyền mới gọi là thành phần có nợ máu với nhân dân hoặc có vấn đề với “cách mạng.” Hầu hết cha của các em đang bị cầm tù trong các trại tập trung “cải tạo.” Thêm vào đó có khoảng một vài em thuộc gia đ́nh cán bộ Cộng Sản cao cấp mới vào Nam.

Phần đông các học tṛ miền Nam những năm đầu sau khi bị “giải phóng” các em học tṛ miền Nam c̣n rất ngoan và kính trọng thầy cô, và ngược lại thầy cô miền Nam cũng c̣n coi công việc gơ đầu trẻ là một thiên chức chứ không phải thuần túy là một nghề để sinh nhai. Mai ra trường Sư Phạm Đà Nẵng đi dạy được hai năm th́ miền Nam mất. Cô được chính quyền mới cho đi dạy lại v́ theo họ lư lịch của cô tương đối khá sạch, từ ông bà xuống tới cha mẹ không có ai làm lớn trong chính quyền cũ.

Sáng nay như thường lệ sau khi khảo bài cũ cô bắt đầu dạy bài mới. Trước bảng đen Mai nắn nót viết bài học Pháp văn cho tiết học hôm nay trên bảng đen.
“Mardi 26 Septembre 1977/ Conjuguez le verbe ‘Etre’ Je suis, Tu es, Il est …”
Bỗng một tiếng thét lớn:
-Thưa cô tṛ Hùng cú đầu con!
Mai nhịp nhịp cái thước gỗ vào bảng không trả lời, cả lớp lại im lặng như tờ chỉ có tiếng bút mực sột soạt trên giấy. Cô tiếp tục viết bài học lên bảng đen. “Elle est…”
-Thưa cô tṛ Hùng bóp… cu con…!
Cũng là cái giọng học tṛ hồi năy, và lần này cả lớp phá lên cười như ong vỡ tổ. Cô Mai nghiêm mặt quay lại bảo:
-Hùng, Quang hai em lên đây!
Hai đứa học tṛ lớp Sáu, ngồi cạnh nhau một đứa đen đủi nhỏ thó tướng tá loắt choắt nghịch ngợm, áo bỏ ngoài quần và một đứa mặt mũi trắng trẻo dáng điệu mảnh khảnh. Cả hai lấm lét bước lên phía trên. Tuy có hơi giận v́ học tṛ tinh nghịch, nhưng cô Mai vẫn chậm răi hiền từ:
-Có phải Hùng phá Quang không?
Hùng cúi đầu không đáp, cô Mai lại hỏi lần này giọng nghiêm khắc hơn:
-Có phải em phá bạn làm mất trật tự trong lớp không?
Hùng nh́n lên trả lời lí nhí:
-Không ạ!
Lần này th́ thằng Quang la lớn:
-Nó xạo, nó cú đầu con rồi bóp…

Mai đưa một ngón tay lên môi ra hiệu cho Quang đừng nói nữa không th́ cả lớp lại cười như vỡ chợ. Có nhiều tiếng nhao nhao:

-Tṛ Quang nói đúng đó cô, thằng Hùng nó có làm đó,… nó c̣n viết bậy lên lưng áo em nè…
Thằng Hùng chợt đưa tay làm thành nắm đấm đôi mắt căm hờn:
-Chúng ông sẽ cho tụi mày biết tay nhé… chúng ông cho bố bọn mày đi “cải tạo” cứ là đờ người nhé…
Lần này th́ cô Mai thật sự giận dữ:
-Trong lớp của cô hay bất cứ nơi đâu em cũng không được phép hỗn láo vô phép với người lớn nghe chưa? Nghe rơ chưa? Em Hùng đến góc kia quay mặt vào tường cho đến hết buổi.

Buổi dạy học tưởng như b́nh thường sáng hôm đó đem đến cho Mai nhiều chuyện bất ngờ sau này.
Vài ngày trong khi lớp Pháp văn của cô đang làm bài kiểm tra, người tùy phái đến lớp của cô mời cô xuống văn pḥng hiệu trưởng có chuyện cần. Mai hỏi:
-Có chi quan trọng rứa bác Tam? Lớp tôi đang làm bài thi làm răng mà bỏ đi? Bác nói đợi tới hết giờ rồi tôi sẽ xuống bác hỉ!
Người tùy phái già trả lời:
-Dạ tui cũng nói như rứa với bà hiệu trưởng và ông khách, nhưng họ có chịu nghe mô. O xuống nhanh đi, nghe nói ông khách nớ làm lớn lắm.
Mai đáp:

-Bác Tam à, tôi không thể xuống được ngay bây chừ, bác xuống văn pḥng giải thích dùm tôi…

Ông Tam quày quả đi ra. Khoảng vài phút sau một người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen, tay đeo cái đồng hồ Seiko5 vàng sáng chói, nước da men mét, hàm răng hơi vổ, mặc quân phục rộng thùng th́nh, vai đeo xà cạp, ngang nhiên bước thẳng vào lớp, theo sau là ông Tam. Con Trang lớp trưởng sau một vài giây ngỡ ngàng v́ người khách vào lớp bất ngờ, nhanh nhẹn hô lớn “Nghiêm!” Cả lớp buông bút viết, đứng thẳng chào khách. Lần này th́ đến lượt người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen ngỡ ngàng và ngạc nhiên đến độ lúng túng, cô giáo Mai đứng trên bục giảng lễ độ hỏi:
-Thưa ông có việc ǵ cấp thiết không ạ?
Người đàn ông nh́n lên lúng búng trả lời:
-À không, tôi chỉ muốn nói chuyện với cô một vài vấn đề, nhưng bây giờ tôi sẽ đợi cô dưới văn pḥng.
Cô Mai từ trên bục gỗ bước xuống từ tốn:
-Dạ cám ơn ông, xin ông thông cảm, lớp đang làm bài kiểm tra tôi không thể tiếp chuyện ngay với ông.

Hết giờ Pháp văn, cô Mai vội vă xuống văn pḥng hiệu trưởng. Bước vào cô hơi ngạc nhiên khi chỉ thấy có ông khách đang chễm chệ ngồi sau bàn giấy của bà hiệu trưởng. Ông khách đưa tay mời cô ngồi. Ông ta vẫn c̣n đeo đôi kính Rayban đen trong căn pḥng không có cửa sổ. Cô Mai bất giác muốn ph́ cười, nhưng ngăn lại kịp. Ông khách tự giới thiệu:
-Chắc cô không biết tôi là ai, nên không xuống gặp tôi ngay.
Cô Mai trả lời ngay:
-Dạ thưa tôi biết ông là người rất quan trọng nhưng v́ bài kiểm tra này quan trọng đến kỳ thi học kỳ của các em…
Ông khách ngắt lời:
-Ô! Không, không tôi có ư phiền trách ǵ cô đâu, thực ra th́ lúc cô không xuống ngay tôi giận lắm, v́ ngoài Bắc mỗi khi tôi vào trường con tôi học là giáo viên phải đến gặp tôi chứ tôi không bao giờ phải lên kiếm giáo viên cả.
Cô Mai trả lời:
-Dạ trong ni chắc c̣n lạc hậu, không biết bao chừ mới theo được bằng ngoài nớ…
Cô Mai không biết ông khách đang nghĩ ǵ và ánh mắt phản ứng ra sao sau cặp kiếng đen. Ông trầm ngâm một chút rồi nói:
-Bây giờ th́ tôi hết giận rồi cô ạ. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Thượng Tá Trần Ḱnh, chính ủy của Trung Đoàn Không Quân Tiềm Kích 935 đóng tại căn cứ Không Quân Đà Nẵng. Con tôi là Trần Hùng học trong lớp của cô, vài hôm trước đây nó có phản ánh phê b́nh cô có khuynh hướng bảo vệ bọn con cái thành phần chống cách mạng. Cô Mai nghĩ sao?

Mai thật sự ngạc nhiên, dầu miền Nam đă bị chiếm đóng hơn hai năm, bởi một đạo quân nói cùng một ngôn ngữ và cùng chung màu da với cô nhưng cô vẫn chưa thật sự chưa hiểu hết về cách suy nghĩ, giao tế của người Cộng Sản. Cô trả lời chậm răi:
-Thưa ông Ḱnh, tôi không biết phải trả lời ông ra sao. Tôi là một người thầy giáo chuyên nghiệp, tôi dạy bất cứ học sinh nào được giao phó cho tôi, tôi không phân biệt đối xử các em theo thành phần gia đ́nh… hơn nữa các em khi sinh ra cũng không có sự lựa chọn về lư lịch của cha mẹ. Lư lịch cha mẹ các em theo ư tôi không thuộc phạm vi học đường. C̣n việc tôi phạt em Hùng là v́ em đă phá rối trật tự trong giờ dạy học của tôi. Tôi bảo đảm không có vấn đề bênh vực thành phần giai cấp ǵ đó….
Người đàn ông tên Ḱnh, ngồi thẳng lên đan hai bàn tay vào nhau:
-Đó là tư duy của tôi cách đây nửa giờ cô Mai ạ. Sau khi tôi lên lớp của cô thấy việc các em lễ phép chào khách, bàn cô giáo có lọ hoa, các em quần áo chỉnh tề tôi rất lấy làm ấn tượng. Tôi thành khẩn với cô nhá, tôi chưa thấy trường nào ngoài Bắc học tṛ có văn hóa như lớp của cô. Tôi rất mừng thằng Hùng được cô dạy. Thôi th́ thế này nhé, cô cứ công tác tốt, tôi sẽ bảo với đồng chí hiệu trưởng bỏ lời phê b́nh tiêu cực của tôi về cô đi. Coi như không có sự cố ǵ cô Mai nhé.
Mai mỉm cười:
-Dạ nếu ông đă dạy thế th́ tôi rất vui. Nhưng tôi không dám nhận hết lời khen của ông, v́ trong Nam này trường nào lớp nào cũng đứng nghiêm, chào khách chào thầy cô. C̣n chuyện trang hoàng lọ hoa cho bàn thầy cô th́ quả thật là công khó của các em học sinh nữ của lớp tôi đă tự ư hái hoa đồng cỏ dại trang điểm cho lớp học, không phải do tôi dạy bảo.
Ông Ḱnh cười:
-Cô không tuyên truyền cho miền Nam đấy chứ ? Ồ! Tôi chỉ đùa thôi cô ạ, vâng tôi tin cô nói sự thật. C̣n vấn đề này nữa, sao tôi không thấy lớp cô Mai treo ảnh Bác nhỉ?

Mai thán phục sự quan sát của người đàn ông này, chỉ có ít phút trong lớp mà ông Ḱnh đă nhận xét được biết bao nhiêu là chuyện. Cô có biết đâu ngoài Bắc người ta treo h́nh bác Hồ cũng như trong Nam người ta treo cái gương chiếu yêu trước cửa nhà, để xua đuổi ma quỷ. Việc treo h́nh của ông Hồ là một điều bắt buộc, nhà nào cơ quan nào mà không có gương mặt lom lom, cười cười của ông Hồ là có vấn đề lớn. Thành thói quen, nhiều người treo h́nh bác Hồ như một sự thông báo cùng hồn ma bóng quế nhà tôi có chúa quỷ ở đây nhá! Các ngài ma quỷ hồn ma bóng quế tép riu liệu mà xéo đi… Mai ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
-H́nh như một năm trước đây tôi nhớ có treo, nhưng v́ lớp học xây dựng bằng phương pháp tiền chế, vật liệu là sắt và tôn ximăng cho nên đinh đóng vào tường không chắc, bức h́nh lộng kiếng của Bác bị rơi xuống vỡ nát ông ạ.
Ông Ḱnh hỏi:
-Thế th́ sao không báo cáo và thay ngay đi, hồi trước giải phóng các thầy, các cô trong Nam treo ảnh Thiệu ra sao mà bây giờ lại nói đóng đinh không được?
Cô Mai cười x̣a:
-Trước giờ trong này không có lệ treo h́nh lănh tụ trong nhà riêng hay trong lớp học.

Điều này th́ ông Ḱnh có thể tin, v́ khi Trung Đoàn 935 tiếp thu căn cứ Không Quân Đà Nẵng ông cũng hơi ngạc nhiên khi thấy không có văn pḥng, cơ sở nào có treo h́nh Tổng Thống Thiệu cả. Nhưng ông đă tự giải thích rằng chắc cũng như ảnh Bác là biểu tượng thiêng liêng bọn “Ngụy” khi di tản đă đem ảnh của Thiệu theo để tỏ ḷng yêu kính lănh tụ, như cái đồng chí ǵ đấy ở ngoài Bắc, nhà cháy nhưng đồng chí ấy cố xông vào để cứu ảnh Bác, trước khi cứu con trai ruột của ḿnh… Ông chợt thốt lên:
-À, công tác chính trị đảng cầm quyền của Thiệu yếu nhỉ!… À này tôi có xem lư lịch của cô, khá trong sạch và cũng thuộc thành phần cơ bản đấy, cha cô là công nhân sở điện, mẹ làm cho hăng dệt, không hiểu sao trường chưa cho cô vào đối tượng Đoàn? Để tôi giúp cho nhé?
Mai im lặng một chút rồi nói:
-Chuyện hơi dài ông ạ, sợ kể ra đây làm mất th́ giờ của ông, nhưng đây không phải chi bộ Đoàn sơ xuất đâu mà là hoàn toàn do tôi cả.
Ông Ḱnh hơi nhổm người về phía trước:
-Tôi không dám ṭ ṃ, nhưng nếu cô muốn kể th́ tôi không sợ mất th́ giờ cô ạ, tôi muốn t́m cách giúp cô. Cô Mai yên lặng một lúc, ánh mắt cô trở nên xa xăm, rồi cô chậm răi kể.

Chuyện xảy ra cũng gần một năm về trước. Mai gặp lại người bạn học cũ, Đoàn Đ́nh B́nh, B́nh đă theo cha vô bưng sau cuộc “tổng khởi nghĩa” thất bại của Cộng Sản tại Huế năm 1968. Cả lớp của Mai khi ấy không biết B́nh đi đâu hay đă bị chết thảm dưới bàn tay của Việt Cộng khi B́nh về ăn Tết ở Huế.

Đầu năm 1976, B́nh được bổ về làm bí thư chi bộ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản tại trường của Mai đang dạy. Lúc đầu hai người không nhận ra nhau, nhưng Mai nhớ ngờ ngợ cái tên người bạn cũ Đoàn Đ́nh B́nh, nên sau một lần họp giáo viên Mai hỏi phải B́nh hồi nhỏ có học trường tư thục B́nh Minh tại Đà Nẵng không? Hai người nhận ra nhau, rồi trở nên đôi bạn thân. Mai rất trân quư những kỷ niệm và bạn học của ngày xưa thời học tṛ. C̣n B́nh th́ cũng vui mừng được gặp lại người bạn xưa của ngôi trường đầy tuổi thơ êm đềm trước khi phải ra Hà Nội để bị hấp thụ một nền giáo dục rất ư “vô giáo dục.”

Qua một thời gian, B́nh âm thầm yêu Mai và muốn tiến xa hơn với Mai, nhưng trước hết phải giới thiệu được cho Mai vào đối tượng Đoàn, th́ việc xin lănh đạo chấp thuận cho cưới Mai sẽ dễ dàng và vinh dự hơn nhiều. Không hỏi ư kiến Mai, v́ muốn dành cho bạn một sự ngạc nhiên mà theo ư B́nh đây cũng là một vinh dự cho Mai. B́nh mời Mai tham dự một buổi họp Đoàn và tuyên bố đề nghị cho Mai được làm đối tượng Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, sau khi đă đọc lư lịch trích ngang trích dọc của Mai trước mặt mọi người để minh chứng Mai thuộc thành phần tốt. Về phần Mai khi nhận lời dự buổi họp chỉ v́ nể B́nh và cũng có đôi chút ṭ ṃ muốn biết khi họp Đoàn ngựi ta rù ŕ rủ rỉ cái chi. Mai không ngờ việc xảy ra như thế. Khuôn mặt của Mai từ trắng chuyển sang hồng, Mai im lặng. Cả pḥng họp nghĩ là Mai quá xúc động trước cái đặc ân to lớn kia. Một lúc sau Mai mới run run nói:
-Cảm ơn anh B́nh đă giới thiệu Mai, nhưng Mai không hoàn toàn thuộc thành phần tốt như cách mạng định nghĩa đâu, và cũng không đủ tiêu chuẩn vào Đoàn. Mai đă có chồng, mặc dầu chưa chính thức trên giấy tờ. Chồng của Mai là phi công của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Câu sau cùng Mai nói chậm, dơng dạc từng chữ như lời tuyên bố.
-Lỗi tại Mai, Mai đă không kể cho anh B́nh nghe, v́ Mai nghĩ đó là chuyện riêng tư, nhưng bây giờ th́ bắt buộc Mai phải nói. Cả pḥng họp lặng thinh, không ai biết phải phản ứng như thế nào, c̣n B́nh đứng sững như trời trồng bên cạnh Mai. Một hai phút sau đó anh lắc đầu và bỏ ra ngoài. Mai chạy theo B́nh ra đến khoảng sân vắng nói khẽ với B́nh.
-Mai xin lỗi nhé, nhưng nếu Mai không nói th́ suốt đời Mai sẽ áy náy lắm…
B́nh quay lại hằn học:
-Tại sao Mai không cho tôi biết, Mai làm tôi ngượng trước mặt bao nhiêu người, mà những điều Mai nói là thật hay bịa đặt vậy? B́nh đă hỏi thăm người ta ở chỗ Mai thường trú họ nói là Mai chắc chắn c̣n độc thân mà… B́nh thật không ngờ, không ngờ. Mà nếu điều Mai nói là sự thật Mai có yêu thằng đó – xin lỗi – anh đó không?

Mai ngạc nhiên về thái độ gần như ghen tương của B́nh, Mai không nói ǵ từ từ kéo sợi dây chuyền từ trong cổ và tháo ra một chiếc nhẫn, loại nhẫn mà phi công sau khi ra trường bên Mỹ thường đeo. Mai nói thong thả:
-Mai có chồng thật chứ, nhẫn cưới của anh ấy trao cho Mai đây này…
B́nh bưng hai tai không muốn nghe thêm chạy thất thểu ra khỏi cổng.

Ông Ḱnh, chép miệng:
-À ra thế, thế th́ gay đấy, Đoàn hay Đảng có quyền từ chối đối tượng chứ có ai có gan dám từ chối vào Đoàn vào Đảng… À anh chồng của cô bây giờ ở đâu? C̣n ở đây hay di tản rồi?
Mai nhớ lại câu chuyện các thực tại chưa xa lắm, vào một ngày cuối Tháng Ba năm 1975. Anh Nguyễn Bé Tư, phi công F-5E biệt phái từ Biên Ḥa ra. Hai người quen nhau từ mùa Xuân 1974 trong một buổi văn nghệ ủy lạo, trường của Mai tổ chức để ủy lạo chiến sĩ. Năm 1975, một ngày trước khi Đà Nẵng bị thất thủ, anh đă gặp Mai. Anh không nói ǵ nhưng qua nét mặt âu lo của anh, Mai biết là t́nh h́nh chiến sự ngày càng xấu đi. Anh dẫn Mai đi ăn tối ở nhà hàng Bạch Đằng trên bờ sông Hàn, hai người cố tránh không nói ǵ về chiến tranh để được một lần hẹn ḥ trọn vẹn. Gần lúc chia tay, anh rút chiếc nhẫn ra trường bên Mỹ đeo vào ngón tay Mai và nói:
-Anh muốn cùng em sống đến cuối cuộc đời, em có thuận làm vợ của anh không?


Mai không nói được ǵ, chỉ khe khẽ gật đầu nước mắt bắt đầu tuôn v́ xúc động và vui sướng. Mai đă là phu nhân của Nguyễn Bé Tư từ ngày ấy. Trong buổi tối ngắn ngủi đó hai người đă vẽ ra biết bao nhiêu là mộng đẹp, về ngày cưới về gia đ́nh tương lai… Đêm đó anh Tư phải vào trực tác chiến trong phi đoàn. Ngày hôm sau th́ Đà Nẵng mất, Mai t́m cách về Sài G̣n vào hỏi Bộ Tư Lệnh Không Quân về tin tức của anh Tư. Mai c̣n nhớ mấy người lính Không Quân ai cũng lắc đầu nh́n chị thương cảm ái ngại. Kể từ đó cái tên Nguyễn Bé Tư mộc mạc đối với Mai như thuộc về một kiếp nào rất gần mà rất xa xăm. Nhưng cô lúc nào cũng tự nhận là người vợ âm thầm của người phi công Nguyễn Bé Tư.

Câu chuyện cô Mai từ chối vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản được đồn ra, được thêm thắt, và từ đó học tṛ gọi đùa cô Mai là “Cô giáo ‘Ngụy.’” Cô nghe nhưng không bao giờ la rầy các em v́ biết các em không có ư xấu, ngược lại các em từ đó rất kính nể cô, mấy đứa con trai có cha anh là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, nói cô Mai chịu chơi và “ch́” lắm. Mỗi khi nghe ai kêu “Cô giáo ‘Ngụy’” Mai mỉm cười hạnh phúc tự nhủ: “Ừ, ‘Ngụy’ th́ ‘Ngụy’ ḿnh thua th́ người ta gọi ḿnh là giặc. Ngày xưa Gia Long cũng gọi Bắc B́nh Vương Quang Trung, Tây Sơn là ‘Ngụy’ đó thôi!”

Giáng Sinh 1980

Sau nhiều lần vượt biên hụt, Mai bị đuổi không cho dạy nữa. Cô sinh sống bằng việc lấy mối rau quả và bán ở chợ. Một buổi chiều ông Ḱnh ghé ngang hàng của cô lựa lựa mấy bó rau hồi lâu. Cô không nhận ra ông v́ bây giờ ông coi có da thịt hơn trước nhưng lại già hẳn đi, và không c̣n đeo cặp kính Rayban nữa. Đến khi hết khách ông mới khẽ bảo:
-Gớm! Cô không nhận ra tôi à? Ḱnh đây, tôi kiếm măi mới biết cô bán hàng ở đây, tôi có thể gặp riêng cô để nói một chuyện quan trọng không? Tôi sẽ dàn xếp chỗ gặp, cô nhớ đến nhé.
Buổi chiều hôm đó tại một căn biệt thự, ông Ḱnh đề nghị cô Mai dẫn Hùng con ông đi vượt biên ông sẽ lo mọi chuyện.
Mai dường như không tin vào tai của ḿnh:
-Ông không nói đùa chứ?
Ông Ḱnh nh́n cô cười:
-Tôi nghĩ là cô sẽ nói thế. Lời đề nghị của tôi rất nghiêm túc nói như người Sài G̣n là “một trăm phần dầu” cô ạ. Sau năm năm ở miền Nam tôi thấy chế độ Cộng Sản đă làm băng hoại mọi sự cô ạ. Những năm chiến tranh th́ người ta c̣n có thể biện minh nhưng khi vào miền Nam th́ tôi nhận xét thấy giá trị đạo đức nói chung là trong Nam ưu việt hơn ngoài Bắc. Sau năm năm th́ tôi thấy con người Cộng Sản đă làm cho miền Nam ngày càng tồi tệ, càng ngày càng giống như miền Bắc. Tôi đă thấy điều đẹp đẽ trong một xă hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đă mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này. Nếu cô hứa dẫn nó đi, chăm sóc nó đến năm 18 tuổi tôi sẽ lo tất cả mọi chi phí phương tiện ra đi cho cô.

Lư do tôi nhờ đến cô v́ thứ nhất tôi biết cô muốn ra đi và thứ hai cô là người rất thật thà, chung thủy. Ngay cả trong người thân tôi cũng không thể thố lộ kế hoạch này hay nhờ ai v́ lư do an ninh và tính mạng của tôi, chỉ có cô mới giúp được tôi. Chuyến vượt biên của cô do công an Đà Nẵng tổ chức bến băi, nên việc ra đi phải nói là rất chu đáo.

Chuyến đi thật suôn sẻ. Tàu vượt biên của Mai sau năm ngày lênh đênh đă cập bến Hương Cảng b́nh yên vô sự. Tại đây Hùng gặp lại gia đ́nh một người bà con xa ở Hải Pḥng đă đến Hương Cảng trước đó một tháng. Hùng muốn nhập chung form định cư với họ. Mai không đồng ư, qua một người trung gian cô gửi thư về Việt Nam hỏi ư kiến ông Ḱnh. Vài tuần sau, Mai được ông cho biết là ông bằng ḷng cho Hùng “tách form” với cô, và coi như lời hứa của cô đối với ông đă hoàn thành.

Khi được Cao Ủy phỏng vấn, cô giáo Mai chọn thành phố Sydney xinh đẹp của quốc gia Úc Đại Lợi làm nơi định cư. C̣n Hùng th́ theo bà con định cư tại Canada. Cô Mai đi học lại lấy bằng kỹ sư điện toán, cô rất nhân hậu nhă nhặn nên được rất nhiều người khác phái theo đuổi, nhưng không có ai có thể thay được h́nh ảnh của người phi công ngày nào.

Trong những năm gần đây khi các hội thân hữu Không Quân QLVNCH được thành lập tại Úc, người ta thường thấy cô trong những buổi họp mặt. Mai tham gia mọi sinh hoạt, báo chí văn nghệ. Câu hỏi đầu tiên cô hỏi những người lính Không Quân mà cô gặp lần đầu lúc nào cũng là: Có ai biết tin tức ǵ về anh Nguyễn Bé Tư phi công F-5E biệt phái ở Đà Nẵng hay không? Cô Mai không biết là lần thứ mấy đă hỏi câu hỏi đó, cô hỏi nhưng chính cô rất sợ câu trả lời về số phận của một người mất tích đă hơn hai mươi lăm năm.

Tháng Tư, 1998

Hùng đứa học tṛ ngày xưa của cô từ Canada qua thăm cô giáo Mai. Hai thầy tṛ gặp nhau mừng mừng tủi tủi sau mười bảy năm. Hùng bây giờ là một thanh niên tuấn tú lễ phép, rất chững chạc và là một bác sĩ y khoa. Hùng báo cho cô Mai biết là ông Ḱnh đă giải ngũ về hưu, và ông đă tỉnh ngộ hẳn giấc mơ Cộng Sản và sống rất an phận tại Hà Nội.

Trước lúc chia tay, Hùng đưa cho cô Mai một phong thư niêm kín, “Em cũng chẳng rơ có cái ǵ trong ấy mà bố em rất cảnh giác không dám gửi qua bưu điện, hay gửi qua người quen đi nước ngoài, chỉ khi em về Việt Nam bố mới trao cho em và dặn là phải đưa tận tay cho cô, và cho cô rơ là phải khó khăn lắm mới lấy được tư liệu này… Bố em dặn cô đọc xong đừng phổ biến, không th́ rắc rối lắm cô nhé!”

Trong phong thư là bản sao của tờ phúc tŕnh tổn thất của sở tác chiến không quân Quân Đội Nhân Dân. Tờ phúc tŕnh như sau: “Thể theo chỉ thị số… Đại Tướng Văn Tiến Dũng được lệnh từ Trung Ương Binh Chủng Không Quân Nhân Dân phải hạ quyết tâm khẩn trương làm chủ và tạo điều kiện hồi phục sử dụng sân bay Đà Nẵng để thành lập bộ phận trinh sát và pḥng thủ mặt Nam đề pḥng bọn Mỹ có thể quay trở lại can thiệp. Theo tinh thần trên, vào sáng ngày 30 Tháng Ba, lúc 5 giờ 15 sáng giờ Hà Nội một phi đội tiêm kích cơ hỗn hợp gồm hai máy bay chủng loại Mig21 và một Mig 17. Phi đội mang bí số KK10 được lệnh cất cánh từ Đồng Hới để trinh sát sân bay Đà Nẵng xem xét khả năng bố trí pḥng không và máy bay tiềm kích của quân đội ta sau này. Tiểu đoàn trinh sát TS5 báo cáo là căn cứ Đà Nẵng của quân đội Ngụy đă bị bỏ ngỏ hoàn toàn vào lúc 2 giờ sáng 30 Tháng Ba. Khi phi đội KK10 đă băng qua Xepon Lào và bắt đầu tiến vào Đà Nẵng từ hướng Tây Bắc, th́ bất ngờ một tiềm kích cơ của Không Quân Ngụy chủng loại F-5E xuất phát từ Đà Nẵng bất th́nh ĺnh tiến công. Giặc lái Ngụy sau khi dùng hai tên lửa loại AIM-9B bắn hạ hai chiếc Mig-21 của ta, hắn c̣n ngoan cố đuổi theo dùng súng bắn hạ thêm một máy bay Mig-17 của ta. Các đồng chí lái của quân đội nhân dân đă kiên cường bất khuất chống trả suốt gần 7 phút. Các đồng chí lái, Lai Như Hạch, Hồ Mạc Dịch, Đỗ Mai Quốc đă hy sinh oanh liệt. C̣n chiếc tiềm kích cơ địch đă bị tên lửa của ta bắn hạ. Tên giặc lái Ngụy nhảy dù đă bị quân dân ta bắt được. Tên giặc lái ác ôn này tên là Nguyễn Bé Tư, cấp bậc trung úy số quân… Trung Ương đă ra lệnh giải quyết thích đáng tên giặc lái này cương quyết không để những thông tin xấu lọt ra ngoài về sự kiện ba máy bay của không quân nhân dân anh hùng bị một tiềm kích cơ địch bắn hạ trong ṿng 7 phút. Bọn địch có thể lợi dụng để nói xấu Không Quân Nhân Dân. Đồng chí Thượng Tá Nguyễn Công Tâm chánh án, kiêm công tố viên ṭa án nhân dân đă tuyên án tử h́nh tên giặc lái Nguyễn Bé Tư. Tên Trung Úy Ngụy Nguyễn Bé Tư đă đền tội vào ngày 5 Tháng Tư, 1975.”
Trên góc trái của tờ phúc tŕnh có hàng chữ TUYỆT MẬT – không bao giờ được công bố.

Mai bâng khuâng, nhưng cô không thấy buồn, cô cảm thấy rất hănh diện và thanh thản như người lữ hành đă về lại nhà ḿnh. Từ lâu cô đă chấp nhận là con người mang cái tên Nguyễn Bé Tư đă không c̣n có mặt trên cơi đời này nữa, cô linh cảm là anh đă đền nợ nước một cách anh dũng, điều cô linh cảm bây giờ đă thành sự thật trên giấy trắng mực đen. Cô kiêu hănh về anh Nguyễn Bé Tư, anh đă chết hào hùng như anh đă sống. Cô thương mến người phi công ấy chẳng phải v́ anh hào hoa phong nhă như người ta thường nói về những người lính Không Quân VNCH. Cô thương anh v́ anh mộc mạc, thứ mộc mạc của loại đá bọc kim cương.

Anh Nguyễn Bé Tư “Ace” đầu tiên của Không Quân QLVNCH một ḿnh hạ ba phi cơ địch trong ṿng 7 phút, thế mà cuộc đời lại không có quyền biết đến anh. Bọn Cộng Sản run sợ và kính nể khi nhắc đến cái tên hiền ḥa của anh, chúng sợ đến nỗi phải giết anh.

Đêm nay Mai thấy ḷng ḿnh thật ấm áp dường như có sự hiện diện của anh Nguyễn Bé Tư đâu đây, dường như anh đang nói với cô đừng buồn đừng giận anh. Xoay xoay chiếc nhẫn Không Quân quanh ngón tay, Mai khe khẽ gật đầu không nói nên lời như đêm cuối cùng năm xưa c̣n ngồi bên anh. Bên ngọn đèn Mai vuốt lại mái tóc đă điểm sương, thấy ḿnh lại là cô giáo trẻ năm nào đang choàng hoa cho người phi công khu trục anh hùng của QLVNCH.

Thần Long


All times are GMT. The time now is 02:22.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.21368 seconds with 9 queries