VietBF

VietBF (https://vietbf.com/forum/index.php)
-   Member News | Tin thành viên (https://vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=189)
-   -   Trang của lính (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=1202507)

hoanglan22 11-04-2024 15:25

Khi đăng lính vào trung tâm nhập ngũ sổ ở sai gon các binh chủng đều khám sức khỏe lúc đó phải cởi truồng hết và khám đủ thứ etc ...BCD 81 quan trọng nhất về mắt , tai và đôi bàn chân cho nên rất khó mà gia nhập .khi chọn vào viễn thám lại qua một khóa học thường bị loại ra khá nhiều bởi v́ học khóa mưu sinh tự sống không được tiếp tế khi ở trong rừng

hoathienly19 11-26-2024 00:36


VINH DANH ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN


https://vietbf.com/forum/showthread....oogle_vignette


Cuối cùng th́ cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến.

Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp c̣n chưa được biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy v́ nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh.

Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước.


Chu vi pḥng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía.

Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng gh́ chặt tay súng, quyết một ḷng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của ḿnh.

Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông :

- “ Chết th́ chết chứ không lùi ”.


Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời ḿnh cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến.

Ông nhớ lại :


- Những ngày śnh lầy với Biệt Động Quân

- Những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn băo lửa ngửa nghiêng

- Những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dă, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mănh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dă.

Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này.



https://www.youtube.com/watch?v=Ls3U4j2tI5o



Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975,
gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.

Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng.

Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đă đưa Bà Hưng lên văn pḥng Bộ Tư Lệnh.


Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn.

Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn c̣n đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh.




https://www.youtube.com/watch?v=rcmewCwA8mc



Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đă nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm.

Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, v́ đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết th́ Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa công chính.

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đă đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa ṿng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không c̣n ǵ để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng.



https://www.youtube.com/watch?v=Fgcko7vUWUE



Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt.

Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng :

- ”Anh Cẩn, tội anh đáng chết v́ những ǵ anh đă gây ra cho chúng tôi”. Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.






Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đă có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta.

Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn th́ không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện.

Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn.

Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa.

Mỗi buổi sáng,
ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ.

Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng.

Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hăy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn.

Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của ḿnh. Chúa Jesus đă chẳng từng nói khi lên thập giá :

- “ Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm” đó sao.


Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đă đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lư lịch nhiều lần.

Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đă liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh t́m đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nh́n vào sang dăy tường rào kín bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đă t́m cách dẫn Đại Tá Cẩn ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo kư ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời c̣n lại của bà.

Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đă dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mă Lai.

Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.


https://www.youtube.com/watch?v=BI0fXsGNjFw



Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây.

Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, v́ là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử.

Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận :


- “ Sống chết nằm trong tay Chúa”.

V́ vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng.






Quân dân Miền Tây đă tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam.

Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút ĺa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn.

Bọn sói lang đă áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành h́nh người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Ḥa.

Bọn tiểu nhân cuồng sát thay v́ nghiêng ḿnh kính phục khí phách của người đối địch, th́ chúng lại lấy ḷng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đ̣i máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đ̣n tâm lư phủ đầu lên những người yêu nước nào c̣n dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng.

Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai c̣n phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, v́ sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.


Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành h́nh, mấy tên khăn rằn hung hăng gh́m súng bao quanh người chiến sĩ.

Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái:


- “Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi.

Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi.

Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân.

Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi.

Lịch sử sẽ phê phán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo Cộng Sản. Việt Nam Cộng Ḥa Muôn Năm”.

- “Tôi chỉ có một ḿnh, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”.


Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa măn. Đại Tá Cẩn c̣n muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đă bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại.

Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa măn cho người là không bịt mắt, để người nh́n thẳng vào những họng súng thù, nh́n lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi.






Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn.

Thiếu Tá Tiếp đă cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 th́ ông bị sa vào tay giặc.

Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn.
Ông đă từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đă gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này.

Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, th́ chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đă vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.


https://www.youtube.com/watch?v=9bKhd_s9BD0



Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đă dơng dạc hét lớn :

“Việt Nam Cộng Ḥa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản”!


Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn.

Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nh́n. Bà nghe trong cơi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa.

Khi bà mở mắt ra th́ thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.







Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, v́ người đă anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân.

Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đă bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đă tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người.

Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă thăng thiên.

Tên tuổi của ông đă đi vào lịch sử đến ngàn đời sau.
Xin người hăy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam c̣n đang ch́m đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hăy ban cho những người c̣n đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm.

Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.

Phạm phong Dinh

hoathienly19 11-28-2024 09:33



MỘT KỶ NIỆM VỀ ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN






Tôi thuộc ḷng bài thơ “Après la bataille” cuả Victor Hugo và luôn xem đó là hành trang vào đời khi nhập ngũ :

- “ Làm cách nào đối xử với con người cả bạn lẫn thù với ḷng nhân ”

Tuy nhiên những ǵ xảy ra ngoài chiến trường nhiều khi khác hẳn với thơ Victor Hugo.
Nhân vật chính (mon père …) trong bài thơ là một vị tổng chỉ huy, có toàn quyền quyết định về hành động của ḿnh c̣n tôi chỉ là Y Sĩ Trung Úy, một cấp bậc rất nhỏ, ngoài phạm vi chuyên môn ra, có rất nhiều hoàn cảnh không thể tự ḿnh quyết định được như câu chuyện sau đây :

Thời Chiến Tranh Việt Nam, thông thường các Sĩ Quan cao cấp đối xử với Bác Sĩ rất tốt, cả hai bên đều tỏ ḷng qúy trọng lẫn nhau.

Nhưng cũng có rất nhiều nghịch cảnh, một chuyện ai cũng biết là đôi khi có vài binh sĩ v́ sợ chết nên đă “tự huỷ hoại thân thể” bằng nhiều cách như :

– Chích mủ xương rồng vào ngón tay để gây gangrène (mất ngón trỏ bàn tay phải th́ sẽ được giải ngũ v́ không thể bóp c̣ súng)

– Tự bắn vào ḷng bàn tay

– Đào một cái hố, tḥ bàn chân vào trong rồi ném kíp lựu đạn xuống hố, tự hủy hoại bàn chân v…v

Đại khái có rất nhiều cách mà chỉ trong thời gian ngắn một Bác Sĩ có thể phân biệt được vết thương nào là thật, vết thương nào tự tạo

Tuy nhiên cái khó nhất là xử sự ra sao với t́nh trạng hủy hoại thân thể.

Trong phần lớn trường hợp, dù biết tôi cũng bỏ qua không báo cáo, vẫn cho xe cứu thương hoặc gọi trực thăng tải thương.

Lần đầu tôi phải đối phó với sự trớ trêu là tháng 8 năm 1974 khi đi hành quân tăng phái cho Tiểu Khu Chương Thiện, lúc đó Tỉnh Trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (Đại Tá Cẩn sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bị Việt Cộng kết án tử h́nh và xử bắn tại Sân Vận Động Cần Thơ).

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn hơn tôi khoảng 5 tuổi, có vẻ mặt thư sinh và nho nhă, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhưng trái với những huyền thoại về một chiến binh can trường, cách nói chuyện cuả ông lại rất từ tốn và chín chắn tuy ông vẫn lấy làm tiếc là không được học cao nhưng là một quân nhân đúng nghĩa, thương binh sĩ, chiến đấu hết ḿnh và rất trọng người có học.

Ông tỏ ra rất qúy mến tôi, mỗi buổi chiều thường mời ăn cơm chung và những lúc rảnh rỗi ông bỏ ra cả giờ để tâm sự về cuộc đời.

Nhưng một buổi sáng giao t́nh của chúng tôi đột nhiên trở nên căng thẳng khi ông “mời” tôi đến thăm “chuồng cọp”, nơi giam giữ các quân nhân bị kỷ luật và các quân nhân tự hủy hoại thân thể.

Đại Tá Cẩn chỉ một anh lính bị vết thương hoại tử (gangrène) ở mắt cá chân rồi hỏi tôi, rất lịch sự:

- “ Xin Bác Sĩ cho biết trường hợp này nếu đưa vào Bệnh Viện sẽ phải cưa chân tới đâu ?”


- “ Tôi thấy là phải tải thương anh ta ngay, c̣n cưa chân tới đâu th́ Bác Sĩ ở Bệnh Viện mới quyết định đươc”.

Rồi tôi cũng gần như quên chuyện này v́ quân nhân đó là thuộc cấp của ông ta, không thuộc quyền tôi.

Nhưng hai, ba hôm sau Đại Tá Cẩn lại mời tôi tới thăm “chuồng cọp” .

Tôi ngạc nhiên tới mức không c̣n phản ứng ǵ khi thấy vẫn là anh lính cũ mà vết thương đă nặng hơn nhiều, sốt cao và gangrène đă tới gần đầu gối, Đại Tá Cẩn vẫn nói rất từ tốn nhưng có vẻ hơi lạnh lùng:

- ” Bác Sĩ cho biết nếu bây giờ tải thương th́ cưa chân tới đâu ?”

Tôi trả lời :


- “ Xin Đại Tá cho tải thương ngay đi, v́ cầm chắc phải cưa tới đầu gối ”

- “ Vậy tôi nhờ Bác Sĩ mỗi ngày ghé qua đây một lần, khi nào cưa tới háng th́ báo cho tôi biết ”

Bây giờ th́ tới lượt tôi nổi nóng :

- “ Đại Tá có đùa với tôi không đấy? là y sĩ tôi không thể mất nhân tính như vậy được ”

Mặt ông ta đột nhiên đỏ bừng và chuyển thái độ xưng hô :


- “ Anh có biết là chưa có một ai trong Tỉnh này dám trái lệnh tôi không ?”

Và cũng là lần đầu tôi lớn tiếng với một Sĩ Quan cao cấp :

- “ Tôi biết, người đầu tiên dám trái lệnh ông là tôi, ngay từ bây giờ ông có thể kiếm bất cứ ai không dám trái lệnh ông mà hỏi, tôi sẽ không làm việc với ông nữa ”

Rồi cả hai chúng tôi đều quay mặt bỏ đi không nói với nhau thêm lời nào.





Một điều tôi biết chắc chắn là ngoài chiến trường những Sĩ Quan cao cấp và có toàn quyền như Đại Tá Cẩn, nếu muốn giết một Quân Y Sĩ như tôi rất dễ dàng, có thể sai bất cứ một thuộc cấp nào làm rồi đổ cho chiến tranh là xong.

Tối hôm đó khi trở về pḥng ngủ, mấy người lính Quân Y và người cận vệ lo ngại lắm, tổ chức gác ṿng trong ṿng ngoài nhưng tôi chỉ biết cám ơn và nói với họ :

- “ Nếu họ muốn giết ḿnh th́ canh gác được tới bao giờ ?”

Tôi ngồi viết một bản tường tŕnh nhờ người cận vệ cất giữ để “nếu có ǵ xẩy ra” sẽ trao cho gia đ́nh tôi.

Qua hai ngày như thế, tới đêm thứ ba th́ bỗng nhiên Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đích thân tới pḥng tôi mời lên tư dinh để “nhậu chơi” với thái độ rất ḥa hoăn và lịch thiệp

Trong bữa tiệc rượu chỉ có hai người, ông tâm sự :


- “ Bác Sĩ có thể xem thường tôi nhưng thử nghĩ xem, tôi là một quân nhân thuần túy, phải trừng phạt họ để cảnh cáo chứ tôi cũng biết đau ḷng, và nếu ai cũng hủy hoại thân thể th́ lấy ai đánh Việt Cộng ?

- “ Khi đất nước mất rồi th́ chúng nó “cưa đầu” tất cả anh em ḿnh thành ra cái chân của một thằng hèn đâu có nghĩa lư ǵ ?”


Tôi thật sự cảm động với thái độ hết sức lư lẽ của ông ta nên cũng đáp lại :

- “ Tôi cũng suy nghĩ nhiều mấy ngày hôm nay, tôi hiểu và cảm phục Đại Tá nhưng mong Đại Tá cũng hiểu cho là những ǵ tôi được dạy dỗ từ trong gia đ́nh tới học đường đều là đúng và tôi không thể thay đổi cách suy nghĩ được ”.

Đaị Tá Hồ Ngọc Cẩn đă đứng dậy bắt tay tôi rồi nói :

- “ Tôi thành thật xin lỗi việc vừa qua, sáng mai nhờ Bác Sĩ tải thương binh này sang Quân Y Viện ”.


Câu chuyện đă gần 40 năm mà mỗi tháng tư đến, tôi vẫn nhớ tới Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn như chuyện mới xảy ra hôm qua và rất khâm phục thái độ “quân tử” của ông.

Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn tiếc là ngày đó ḿnh c̣n qúa trẻ đầy tự ái và cao ngạo.

Đúng ra tôi phải t́m đến trước để nói chuyện với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn th́ mới phải lẽ !

Mong hương hồn Đại Tá xem đây là một lời tạ lỗi cuả tôi, dù có hơi muộn màng.

BS Nghiêm Hữu Hùng

hoathienly19 12-01-2024 09:07



MỖI GIA Đ̀NH MỘT THƯƠNG PHẾ BINH " THANKSGIVING 2024 ( NAM LỘC )



H́nh ảnh người Thương Phế Binh VNCH cô đơn ngay trên quê hương của ḿnh, luôn ấp ủ trong tim bóng Cờ Vàng thân yêu mà họ đă phải đổ bao máu xương để bảo vệ, nhưng trong ḷng lúc nào cũng cầu mong một đất nước ḥa b́nh, thể hiện tinh thần nhân bản của người lính VNCH.






Kính thưa quư vị ,

Thanksgiving là thời điểm mà người ta dùng để tạ ơn những sự tốt lành và ân ủng mà Thượng Đế đă ban cho chúng ta.

Nhưng cũng để tạ ơn ông bà, cha mẹ.

- Tạ ơn các ân nhân đă giúp cho ta được b́nh yên, may mắn, đưa ta đến bến bờ tự do.

Và có lẽ thực tế nhất là tạ ơn những người đă hy sinh một phần thân thể cho chúng ta được sống.

Đó, chính là các vị Thương Phế Binh VNCH


Mỗi năm cứ vào dịp Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh hay Tết Nguyên Đán, chúng tôi lại xin mạn phép nhắc nhở quư vị đồng hương, luôn quan tâm đến hoàn cảnh của các TPB, nhưng v́ bận rộn công ăn, việc làm, nên quên nhă ư mà ḿnh muốn giúp đỡ.

Qua chương tŕnh “Mỗi Gia Đ́nh, Một Thương Phế Binh” mà chúng tôi đă phát động từ nhiều năm qua, tính đến ngày hôm nay, đă có gần 4000 TPB/VNCH mỗi năm nhận được sự trợ giúp trực tiếp từ quư vị đồng hương ở khắp nơi trên thế giới.

Kể từ năm 2006,
khi được hân hạnh cộng tác với cố Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, Hội HO Cứu Trợ TPB/VNCH đă có danh sách vào khoảng trên 17 ngàn TPB.

Hàng năm, tùy theo số tiền gây quỹ nhận được qua các buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh, Hội HO/TPB đă gởi về VN giúp từ 8 cho đến 10 ngàn TPB mỗi năm.


Bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn phát biểu tại Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 7 ngày 28 tháng 7 năm 2013 tại Bắc California (photo: Trần Minh Vàng/Việt Tide)





https://thanhthuy.me/2017/04/19/ba-n...h-vua-qua-doi/


Vào năm 2017,
khi bà Hạnh Nhơn qua đời, th́ chúng tôi cũng xin từ nhiệm chức cố vấn của Hội HO/TPB, và chỉ c̣n tập trung vào chương tŕnh “Mỗi Gia Đ́nh, Một Thương Phế Binh”.

Cho đến năm nay, theo chính các thiện nguyện viên TPB ở trong nước tường tŕnh, th́ gần một nửa đă qua đời trong 18 năm qua.

Danh sách TPB tính đến mùa Tạ Ơn 2024, chỉ c̣n lại khoảng trên dưới 8500 người , tất cả tuổi cũng đă gầ đất xa Trời, nếu không giúp họ bây giờ th́ chẳng c̣n bao lâu nữa, họ cũng sẽ lần lượt ra đi.

Rất may mắn là
chúng tôi vẫn tiếp tục nhận được sự hưởng ứng của đông đảo quư vị ân nhân ở khắp nơi trên thế giới, và được sự tiếp tay của các anh chị em thiện nguyện viên giúp kết nối từng gia đ́nh, từng hội đoàn hoặc từng cá nhân với quư vị TPB để các nhà bảo trợ tự gởi tiền về VN giúp cho họ.

Đặc biêt là năm nay ông bà NGUYỄN VƠ LONG cùng tổ chức PHONG TRÀO VIỆT HƯNG, mà chúng tôi là một thành viên đă có nhă ư bảo trợ nhiều hơn năm ngoái.

Danh sách TPB được ông bà nhận bảo trợ trong dịp Lễ Tạ Ơn 2024 đă lên đến 2600 người.

Trong khi đó một thân hữu khác của chúng tôi, ông bà NHÂN NGUYỄN tại San Jose cũng đă tặng 100 ngàn dollars cho Hội Tương Trợ TPB/VNCH để cộng vào số tiền mà chúng tôi đă tiếp tay gây quỹ trong năm qua, hội đang chuẩn bị gởi về VN giúp cho 1260 TPB.

Cạnh đó qua bài viết nhắc nhở ngày hôm nay, chúng tôi hy vọng con số hơn 500 vị ân nhân đă nhận danh sách TPB do chúng tôi chuyển đến vẫn tiếp tục giúp đỡ hàng năm khoảng 1000 TPB.

Đồng thời tổ chức “Mỗi Gia Đ́nh, Một Thương Phế Binh” tại Úc Châu cũng đang áp dụng phương thức này, và đặt mục tiêu giúp đỡ khoảng 500 TPB/VNCH trong thời gian sắp tới.


KHG Dương Nguyệt Ánh và Nam Lộc tại ĐNH Cám Ơn Anh 2008




Với kết quả nói trên, th́ tổng cộng sẽ có khoảng 5000 TPB sẽ nhận được quà trong mùa lễ hội này, tuy nhiên vẫn c̣n hơn 3500 người khác cần sự giúp đỡ.

Và hôm nay, qua bài viết chúng tôi lại xin thành tâm kêu gọi quư vị đồng hương ở khắp nơi trên thế giới, hăy bỏ một chút t́nh thương , và ḷng tri ân bằng cách bảo trợ từ một hay nhiều TPB tùy theo khả năng và hoàn cảnh của quư vị.

Cũng theo nguyên tắc của chương tŕnh “Mỗi Gia Đ́nh, Một Thương Phế Binh” , quư vị chỉ cần nhờ các dịch vụ gửi tiền, hoặc đích thân trực tiếp gửi về cho họ mà không cần phải qua trung gian của bất cứ một cá nhân hay hội đoàn nào.



https://www.youtube.com/watch?v=MCnhSmSmkiE



https://www.youtube.com/watch?v=vdlHfDKELig




Xin quư vị hảo tâm liên lạc ngay với chúng tôi qua địa chỉ email :

namlocnguyen@yahoo.c om để nhận danh sách.

Tất cả Thương Phế Binh mà chúng tôi giới thiệu đều đă được các thiện nguyện viên, cựu chiến binh QLVNCH kiểm nhận và xác định trước khi chúng tôi chuyển đến quư ân nhân để xin giúp đỡ.

Xin chân thành cám ơn và kính chúc toàn thể quư vị một Lễ Tạ Ơn cùng một mùa lễ hội tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.

Xin chân thành cám ơn và kính chúc toàn thể quư vị một Lễ Tạ Ơn cùng một mùa lễ hội tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.

Nam Lộc

PS: Xin đính kèm một vài h́nh ảnh trong số hàng ngày quư vị TPB đang cần được giúp đỡ. Xin liên lạc với chúng tôi để nhận được đầy đủ chị tiết (namlocnguyen@yahoo. com).




hoathienly19 12-02-2024 11:27




LỊCH SỬ QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG H̉A




(Trích trong phần sưu tầm trong trang mạng của Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH vùng Hoa Thịnh Đốn)













Những nhà nghiên cứu hải sử có mặt tại khúc quanh lịch sử Việt Nam, ngày 30 Tháng Tư năm 1975, đều thừa nhận mặc dù đột ngột tan hàng, song Hải Quân VNCH đă thực hiện trọn vẹn sứ mạng của Tổ Quốc Việt Nam giao phó bảo vệ tự do cho dân tộc trong suốt quá tŕnh ngăn chận làn sóng đỏ do Đảng cộng sản VN phát động thành một cuộc chiến nghiệt ngă huynh đệ tương tàn.

Suốt quá tŕnh 23 năm bảo vệ nước,
căn cứ vào những mốc thời gian quan trọng th́ thành quả đạt được của quân chủng có thể chia làm 3 giai đoạn ; đặc biệt chú trọng đến sự lớn mạnh của Giang Lực và Duyên Lực :

- Giai đoạn khó khăn h́nh thành

- Giai đoạn chậm chạp phát triển

- Giai đoạn nhanh chóng bành trướng





1. GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN H̀NH THÀNH (1952-1957)


Ngày lịch sử đau buồn mùng 1 Tháng Chín năm 1858 cũng là ngày đánh dấu khởi điểm suy tàn của triều đại Nhà Nguyễn, khi Đề Đốc (Hải Quân Thiếu tướng) Charles Rigault de Genouilly (1) chỉ huy :

- 2,500 lính viễn chinh Pháp và 1,000 lính thuộc địa Tây Ban Nha với 14 chiến hạm vào cửa Đà Nẵng bắn ch́m các chiến thuyền Việt Nam, chiếm các pháo đài bán đảo Sơn Trà rồi giao cho Hải Quân Đại Tá Toyon trấn giữ.


Đến ngày 11 Tháng Hai năm 1859,
De Genouilly lại dẫn các chiến hạm trên vô cửa Cần Giờ đánh tan các chiến thuyền và đồn bót do Đề Đốc Trần Trí đang tổ chức pḥng thủ tại vịnh Gành Rái.

(1) Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Sài G̣n thư xă 1962. Chương 7: Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ (từ trang 480 đến trang 492).







Thừa thắng tiến lên thượng nguồn, ngày 18 tháng 2 năm 1859 , quân Pháp lại tấn công đổ bộ qui mô từ bờ sông vào thành Gia Định.

Thành vỡ, Án Sát Lê Tứ và Hộ Đốc Vũ Duy Ninh đều tuẫn tiết.

C̣n lại Đề Đốc Trần Trí, Bố Chánh Vũ Trực cùng Lănh Binh Tôn Thất Năng rút tàn quân về cố thủ huyện B́nh Long.





Vào giữa thế kỷ thứ 19,
hạm đội Pháp được các sử gia Tây phương đánh giá là hạm đội tối tân nhất trong các cường quốc Hải Quân Châu Âu đang săn t́m thuộc địa.

Các chiến thuyền lỗi thời của thủy quân Triều Nguyễn hành thủy từ những năm vua Gia Long phục quốc thống nhất sơn hà 1802, nên không đủ khả năng đương cự lại.

Qua hai trận thủy chiến mà tương quan kỹ thuật tác chiến quá chênh lệch như vậy thành ra quân ta thất trận hoàn toàn và thủy quân triều Nguyễn coi như thật sự bị xóa sổ từ đây, dù rằng dưới triều vua Tự Đức việc huấn luyện thủy quân rất được chú trọng đến


https://www.youtube.com/watch?v=vnbpJfjzIQI



Giở lại những trang quân sử thành lập Quân Lực VNCH (2), nếu gác bỏ ra ngoài những tai tiếng không tốt mà đối phương đă tuyên truyền về nếp sống xa hoa của cựu hoàng Bảo Đại lưu vong, người đọc sẽ thông cảm được quyết tâm cao tạo dựng một quốc gia Việt Nam (QGVN) độc lập, qua quyển CON RỒNG VIỆT NAM, của vị vua cuối cùng triều đại nhà Nguyễn.

Trải qua nhiều giai đoạn thương thuyết rất cam go với chính quyền thực dân Pháp, cựu hoàng Bảo Đại hết sức kiên nhẫn với tập đoàn thống trị để họ chấp nhận một nước Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp được h́nh thành.

(2) Bộ Tổng tham mưu pḥng 5. Quân sử tập 4: Quân lực h́nh thành 1946-1955. Sài G̣n 1972.


Cựu hoàng Bảo Đại vận động thống nhất đất nước






Ngày mùng 5 Tháng Sáu năm 1948,
hiệp định sơ bộ Vịnh Hạ Long (dẫn đến hiệp định Elysée sau này) kư kết giữa Toàn Quyền Đông Dương Emile Bollaert và Thủ Tướng lâm thời Nguyễn Văn Xuân có cựu hoàng phó thư (countersign) trên chiến hạm Duguay Trouin thừa nhận nguyên tắc độc lập và thống nhất của nước Việt Nam với Quốc kỳ :

Cờ màu vàng 3 sọc đỏ và Quốc ca: Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước. (3).

(3) Đoàn Thêm. Hai mươi năm qua, việc từng ngày. Sài G̣n 1966, trang 44-45.





Nhưng rồi Quốc Hội Pháp cứ làm ngơ, viện cớ chưa t́m được qui chế thích hợp cho Nam Kỳ, măi đến ngày 8 Tháng Ba năm 1949 mới thuận cho Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại chính thức kư hiệp định Elysée chấp nhận nước Việt Nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp có tổ chức hành chánh riêng, tài chánh riêng, tư pháp riêng, quân đội riêng và Pháp sẽ ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc (4).

(4) Đoàn Thêm. Tài liệu đă dẫn, trang 52.






Như vậy, cực chẳng đă chính phủ Pháp đành phải trao trả nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ cho vị nguyên thủ của nước Việt Nam là Quốc trưởng Bảo Đại.

Dĩ nhiên hiệp định này đi ngược lại quyền lợi của nước Pháp, v́ thực dân Pháp chỉ muốn cai trị nước ta như trước kia mà thôi.





Thực thi Hiệp Định Elysée, thỏa ước quân sự Pháp-Việt ngày 30 Tháng Mười Hai năm 1949 về Hải Quân lại bị tŕ trệ kéo dài đến giữa năm 1951, Đô Đốc Ortoli, tư lệnh Hải Quân Pháp ở Viễn Đông mới được lệnh lập kế hoạch huấn luyện quân sự để chuyển giao đầu tiên 2 Hải Đoàn Xung Phong cho Hải Quân Việt Nam.

Chương tŕnh chuyển giao các :


- Trục lôi hạm (YMS)

- Giang pháo hạm (LSIL)

- Trợ chiến hạm (LSSL)… sẽ tiến hành vào những năm kế tiếp.

Nhưng khi nắm quyền tổng chỉ huy hành chánh lẫn quân sự tại Đông Dương, Thống Tướng Jean de Lattre de Tassigny (5) muốn Hải Quân Việt Nam hoàn toàn thống thuộc mọi mặt vào lục quân Pháp, chứ không phải là một quân chủng riêng như Đô Đốc Ortoli đă đề nghị.

Viên tướng 5 sao này cho rằng một quân chủng kỹ thuật như Hải Quân không thể nào đứng vững được v́ thiếu cán bộ và chiến cụ.

(5) Đoàn Thêm ghi nhận trang 82, tài liệu đă dẫn: Từ nay, quân đội VN thuộc hẳn quyền Quốc Trưởng Bảo Đại, nhưng có cơ quan liên lạc với quân đội Liên Hiệp Pháp.


Ngày 15 Tháng Tám năm 1951,
Pháp đồng ư cho tuyển mộ khóa 1 Sĩ quan Hải Quân gồm :

- 9 sinh viên ( 6 theo ngành chỉ huy và 3 theo ngành cơ khí )

– Phần đông là cựu sinh viên trường Thủy Văn Sài G̣n (Saigon Hydrography School)


- Khóa hạ sĩ quan có 50 và đoàn viên là 300.

C̣n về phía Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, dù bị chèn ép mọi mặt, Quốc Trưởng Bảo Đại vẫn kiên tŕ tranh thủ xây dựng nền tảng bắt đầu từ con số không cho Quân Đội Quốc Gia.



hoathienly19 12-04-2024 09:57




Kể từ sau ngày 24 Tháng Tám năm 1945
bị Hồ Chí Minh ép buộc thoái vị phải trao kiếm vàng cùng ấn ngọc cho đại diện Việt Minh Cộng Sản là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tại Ngọ Môn Huế, cựu hoàng hết sức thấm thía về việc hoàng triều không có một quân đội đủ mạnh để dẹp bỏ Việt Minh Cộng Sản trước rồi sau đó đẩy lui Phú-Lang-Sa và bảo vệ chủ quyền quốc gia trường tồn.






Cho nên trong thông điệp ngày 15 Tháng Năm năm 1948
gửi cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, cựu hoàng tán thành đề nghị thành lập Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời và giao cho Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng trấn Trung phần (sau này đổi tên là Thủ hiến Trung Việt) Phan Văn Giáo (6) trọng trách xây dựng một Quân Đội Quốc Gia Việt Nam gồm đủ cả Hải, Lục và Không Quân.

(6) Trần Hưng Đạo binh thư yếu lược – Nguyễn Ngọc Tỉnh. Paris 1988.


Cho đến năm 1949, Tổng Trấn Trung Phần Phan Văn Giáo đă thành công trong công tác tuyển mộ và huấn luyện cho tổ chức Việt Binh Đoàn tại Huế.

Sau Hiệp Định Elysée,
lần lượt Vệ Binh Nam Phần và Bảo Chính Đoàn Bắc Phần cũng được thành lập vào giữa năm 1950.

Chính những đơn vị này là hạt nhân cơ bản cho tổ chức quân đội chính qui QGVN (The Vietnamese National Army) ra đời ngày 30 Tháng Giêng năm 1951 (Dụ số 1 0D/VOP/DQT/TS) kèm theo 2 sắc lệnh cùng ngày (7).

(7)Hoạt động trong sông của Hải Quân VNCH. Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng, bài viết cho Hải sử 2000 (HS 2000)





Sinh sau đẻ muộn hơn 2 quân chủng Lục và Không Quân v́ nghị định thành lập Hải Quân bị đ́nh hoăn nhiều lần.

Nhưng rồi do nhu cầu chiến cuộc,
dụ số 2 đă cho phép Hải Quân ra đời ngày 6 Tháng Ba năm 1952, hồi tố đến ngày 1 Tháng Giêng năm 1952.

Vào thời điểm này, muốn thành lập một quân chủng kỹ thuật như Hải Quân mà[color=red] không có /color] một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp giỏi, không có các phương tiện huấn luyện nhân sự quả là một điều không tưởng

Không c̣n cách nào tốt hơn để đốt giai đoạn, ngoại trừ chính phủ QGVN dựa vào những cơ sở huấn luyện có sẵn của Hải Quân Pháp để đào tạo nhân viên tân tuyển của ḿnh.

Cho nên trong khoảng thời gian từ năm 1951 đến năm 1953, hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên tiên khởi của Hải Quân Việt Nam phải theo thực tập (On the job training) trên các chiến hạm, chiến đỉnh của Hải Quân Pháp đang hoạt động ngoài biển cũng như trong sông.


https://www.youtube.com/watch?v=e0MMyEEUUaI



Có thể nói những người t́nh nguyện gia nhập vào hàng ngũ Hải Quân Việt Nam trong hoàn cảnh quá khó khăn như vậy là những thanh niên quyết tâm bảo vệ quốc gia và ôm ấp mộng hải hồ.

Với tinh thần yêu nước cao độ,
nhẫn nhịn chịu đựng tập luyện vượt qua nhiều giai đoạn cực khổ, cuối cùng họ đă chứng tỏ được khả năng hoàn hảo về kỹ thuật, hành thủy và tác chiến để xứng đáng nhận lănh đầu tiên 2 Hải Đoàn Xung Phong Cần Thơ và Vĩnh Long vào giữa năm 1953 (8).

(8)Giang Đoàn Xung Phong 22, 25 và 29. HQ/Đại Tá Lê Hữu Dơng, bài viết cho HS 2000

Khóa 1 Hải Quân Nha Trang từ trái :



- Nguyễn Văn Lịch

- Chung Tấn Cang

- Lâm Ngươn Tánh

- Trần Văn Chơn

- Đoàn Ngọc Bích

- Trần Văn Phấn





Thái độ đối xử ḥa nhă cùng nhiệt t́nh làm việc của tân thủy thủ đoàn Việt Nam khiến cho một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp quên đi nỗi bất b́nh về lá cờ màu vàng 3 sọc đỏ đang phất phới bay trên các chiến đỉnh của họ mà họ c̣n nán lại phục vụ trong những ngày chót trước khi lên đường về nước.


https://www.youtube.com/watch?v=r8stXRNpjIQ


Giờ đây, Hải Quân Việt Nam là một thực thể trong ước mơ của những chàng trai trẻ ham ra khơi, thíchlướt sóng; nhất là viễn dương xuất ngoại du học.

Họ đă tạo được niềm tin vững mạnh cho Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm ban nghị định ngày 20 Tháng Tám năm 1955 thành lập Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ) và chính thức bổ nhiệm HQ/Thiếu Tá Lê Quang Mỹ vào chức vụ tư lệnh Hải Quân kiêm chỉ huy trưởng đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Riêng Hải Đoàn 2 Xung Phong (Dinassault N0 2) được Tướng De Lattre ra lệnh thành lập từ đầu Tháng Hai năm 1951 theo nhu cầu cuộc chiến tại miền Trung châu Bắc việt vẫn trực thuộc Bộ Chỉ Huy Giang Lực của Pháp (COFFLUSIC) và sát nhập vào Hải Đoàn 21 Xung Phong đầu năm 1955 khi vào Nam (9).

(9) Lược sử tổ chức Hải Quân VNCH. HQ/Trung Tá Vũ Hữu San, bài viết cho HS 2000



https://www.youtube.com/watch?v=k-la_EV03yo



*************

hoathienly19 12-06-2024 09:29


Đầu năm 1956,
tổng thống VNCH chấp thuận dự án Giang Lực dự trù thành lập 5 Hải Đoàn Xung Phong, mỗi hải đoàn sẽ được trang bị :


- 05 Trung vận đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)


Trung-vân-đĩnh LCM (Landing craft medium) có gắn bửng chống đạn (blindage) cho tất cả vũ-khí cộng-đồng như đại-bác 20 ly, đại-liên 50 và 30.





- 04 Tiểu vận đỉnh LCVP (Landing craft vehicle and personnel)

Tiểu-vận-đĩnh LCVP (Landing craft vehicle personnel), trang bị đại-bác 20 ly trước mũi, 2 đại-liên 30 trên mui và 2 đại-liên 30 hai bên hông, tất cả đều có gắn bửng chống đạn, mang theo dụng-cụ rà ḿn sau lái





- 05 Hô-bo vận tốc nhanh (Hors bord)

- 02 Quân vận hạm LCU (Landing craft utility)

- 02 Tàu kéo quân cảng YTL (harbor craft)

- 01 Giang pháo hạm LSIL (Landing ship infantry large) tăng phái.






Đó là các :


- Hải Đoàn 21 Xung Phong (hậu cứ tại Mỹ Tho)

- Hải Đoàn 23 Xung Phong (hậu cứ tại Vĩnh Long)

BRP Yakal AR-617, nguyên là Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ802.






- Hải Đoàn 24 Xung Phong (hậu cứ tại Cát Lái)


- Hải Đoàn 25 Xung Phong (hậu cứ tại Cần Thơ)


BRP Kalinga Apayao LT-516, nguyên là LST Cần Thơ HQ 801






- Hải Đoàn 26 Xung Phong (hậu cứ tại Long Xuyên).


Riêng về Hải Lực, đến cuối năm 1957,
số chiến hạm được Pháp chuyển giao lên 21 chiếc gồm :

05 Hộ tống hạm PC (Patrol Craft or submarine chaser) là :


- HQ01 – Chi Lăng

- HQ02 – Vạn Kiếp





- HQ03 – Đống Đa

- HQ04 – Tuy Động

- HQ05 – Tây Kết

Hộ tống hạm Vạn Kiếp HQ-02 (H́nh của phóng viên HQVNCH chụp năm 1960)






03 Trục lôi hạm YMS (Yard MineSweeper) là :


Họa đồ kiến trúc YMS

YMS = Yard Minesweeper hay Trục lôi hạm , có thể được xem là những chiến hạm đầu

tiên của Hải Quân Quốc Gia Việt Nam.


- HQ111 – Hàm Tử





Truc Lôi Hạm Chương Dương HQ-112 (YMS).

- HQ112 – Chương Dương





- HQ113 – Bạch Đằng.





02 Trợ chiến hạm LSSL (Landing Ship Support Large) là :



- HQ225 – Nỏ Thần (Nguyễn Văn Trụ)





- HQ226 – Linh Kiếm (Lê Trọng Đàm)





05 Giang Pháo Hạm LSIL (Landing Ship Infantry Large) là :


- HQ327 – Long Đao




- HQ328 – Thần Tiễn


GPH Thần Tiển HQ328 (H́nh của manhhai).






- HQ329 – Thiên Kích





- HQ330 – Lôi Công


Giang pháo hạm Lôi Công HQ330 và Trợ chiến hạm Đoàn Ngọc Tăng HQ228 (H́nh của manhhai).





- HQ331 – Tấm Sét.





04 Hải Vận Hạm LSM (Landing Ship Medium) là :



Bịnh viện hạm Hát Giang, HQ 400


- HQ400 – Hát Giang





- HQ401 – Hàn Giang






- HQ402 – Lam Giang






- HQ403 – Ninh Giang






01 Hỏa vận hạm YOG (Oiler) là:

- HQ470





01 Huấn luyện hạm AKL (Loại tàu vận chuyển) là :

- HQ451 – Quá Giang



**********

hoathienly19 12-07-2024 12:20




2 . GIAI ĐOẠN CHẬM PHÁT TRIỄN ( 1958-1967 )



Năm 1958
được chọn làm mốc thời gian v́ những sự kiện quan trọng sau đây:

Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang được Pháp chuyển giao toàn bộ lại cho Hải Quân Việt Nam.

Hải Quân Việt Nam tăng lên 5,000 người


Khóa 8 Sĩ qian Nha Trang (Đệ I Hổ Cáp) có 50 sinh viên nhập học với giáo sư, giảng viên và huấn luyện viên hoàn toàn là người Việt Nam.

Quân số Giang Lực gia tăng 50% cho :

- 5 Hải Đoàn Xung Phong trang bị 96 chiến đĩnh đủ loại.







Đầu năm 1960 ,
Bộ Tư Lệnh Hải Quân phúc tŕnh đặc biệt lên Bộ Tổng Tham Mưu về Tiểu đoàn 603 Việt Cộng tức Tập Đoàn Đánh Cá Sông Gianh đă lén lút xâm nhập vào Duyên khu Đà Nẵng.

Tổng Thống Diệm chấp thuận thành lập ngay 4 Đội Hải Thuyền đầu tiên :


- Đội 11 Cửa Việt

- Đội 12 Cửa Thuận An

- Đội 13 Cửa Tư Hiền

- Đội 14 Cửa Hội An.

HQ/Đại Úy Nguyễn Văn Thông
(khóa 3 Sĩ Quan Nha Trang) chỉ huy huấn luyện 400 tuần viên sơ khởi cho 80 ghe đủ loại.


https://www.youtube.com/watch?v=vd1W0xjs1bM



Năm 1962,
Hải Đoàn 22 Xung Phong được thành lập


HQ/Đại Úy Huỳnh Duy Thiệp (khóa 7 Sĩ quan Nha Trang) là chỉ huy trưởng đầu tiên.

Đến cuối năm này, lực lượng Hải Thuyền tăng lên 28 đội đóng dọc theo duyên hải với 800 tuần viên, rồi được cải danh thành Duyên Đoàn khi quân số tăng lên đến 4,000 người.






Đến đầu năm 1963,
HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân mở cuộc hành quân thủy bộ b́nh định Năm Căn : [/i][/color][/size][/b][b][size=4][color=blue][i]

- Chiến dịch Sóng T́nh Thương

Bước ngoặt chính trị năm 1963 :


Được sự ủng hộ của Đại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge (vua tổ chức đảo chánh), các tướng lănh Việt Nam đă làm cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963 giết chết Tổng Thống Diệm và chấm dứt nền Đệ I VNCH (11).


(11) Karnow, Stanley. Tài liệu đă dẫn, nhận xét về Tổng Thống Diệm: “… into South Vietnam’s military and Police machinery, leaving only small fraction for economie development; and he was less interested in building an army to fight Viet Cong guerrillas than in forming conventional units that would protect him against his rival in Saigon…” Karnow cựu thông tín viên cho các tờ Times, Life và The Washington Post kiêm chủ nhiệm The New Republic về vấn đề Đông Nam Á, nổi tiếng qua quyển “Mao and China” năm 1972 v́ những sự thật được phơi bày trong đó.

Nhưng đến quyển Vietnam a story xuất bản năm 1983, ông vấp phải nhiều sai sót nghiêm trọng, có lẽ v́ không được ở Việt Nam lâu bằng ở Trung Cộng.

Điển h́nh là ông không biết Liên Binh Pḥng Vệ dinh Tổng Thống có mấy Tiểu đoàn và Lực lượng Đặc biệt của Trung tá Lê Quang Tung có bao nhiêu đại đội thuộc Cần Lao?

Ông cũng không biết đến quốc sách 7 ngàn ấp chiến lược với 8 triệu dân quân đang ngày đêm trực diện chiến đấu với cộng sản tại nông thôn hẻo lánh. Thành thử ông nhận định hàm hồ như vậy cũng phải !

Trong cuộc chính biến này,
HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân cũng bị một sĩ quan đàn em chối bỏ truyền thống quân chủng ám sát chết (12).


12) Nghi phạm ám sát HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền (khóa 1 Sĩ quan Nha Trang) là HQ/Thiếu Tá Trương Ngọc Lực (khóa 2 Sĩ quan Nha Trang).

Các Tướng lănh tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963
đă sai lầm trong quyết định dùng một sĩ quan đàn em sát hại sĩ quan đàn anh mà không đếm xỉa ǵ đến truyền thống quân chủng Hải Quân.

Ngay khi nhận thấy hậu quả nghiêm trọng về cái chết của tư lệnh Hải Quân.

Hội Đồng Tướng Lănh vội vă thăng cấp trung tá Bộ Binh cho Lực rồi đẩy ra nước ngoài để tránh búa ŕu nguyền rủa của cả Hải Quân vào thời đó.





V́ không c̣n lănh tụ nào sáng giá hơn ông Diệm, nên t́nh h́nh chính trị miền Nam trở nên bất ổn.

Quân đội phân hóa, đảo chánh liên miên, sinh viên học sinh biểu t́nh hàng ngày.

Lợi dụng t́nh trạng rối ren tại thành phố và hoang phế 7,000 ấp chiến lươc tại nông thôn, Việt Cộng gia tăng cường độ ám sát khủng bố và bắt đầu tổ chức đánh lớn cấp trung đoàn.






Cuối năm này, Hải Quân mất luôn quyền chỉ huy Liên Đoàn Thủy Quân Lục Chiến khi binh chủng thống thuộc này trở thành lữ đoàn tổng trừ bị do Trung Tá Lê Nguyên Khang làm tư lệnh và bị áp đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu về mọi mặt giống như binh chủng Nhảy Dù của Không Quân.





Đến hết năm 1964,
Hải Quân cũng chưa thoát khỏi quỹ đạo lục đục trên đây, các sĩ quan khóa 2 Nha Trang gồm :

- HQ/Trung Tá Nghiêm Văn Phú, chỉ huy trưởng Hải lực

- HQ/Trung Tá Đỗ Quư Hợp, chỉ huy trưởng Giang Lực

- HQ/Trung Tá Khương Hữu Bá, chỉ huy trưởng Duyên Lực

- HQ/Trung Tá Đặng Cao Thăng, (khóa 1 Brest), giám đốc Hải Quân Công Xưởng đồng ḷng lật đổ Phó Đề Đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải Quân về vụ thủy cước.


https://www.youtube.com/watch?v=6_vLRelnHuc



Sau ngày 8 Tháng Ba năm 1965,
quân đội Hoa Kỳ đổ bộ lên hải cảng Đà Nẵng, Hải Quân có 7 Hải Đoàn Xung Phong.

Với bảng cấp số (SOP) mới 1965, Hải Đoàn Xung Phong được cải danh là Giang Đoàn Xung Phong (River Assault Group = RAG) có quân số 150 người.

Sáu trong bảy Giang đoàn loại này được trang bị :
• 01 Giang đỉnh chỉ huy (Commandement Monitor)

• 01 Chiến đấu đỉnh (Combat Monitor)

• 05 Trung vận đỉnh LCM6

• 06 Tiểu vận đỉnh LCVP

• 06 Xung kích đỉnh STCAN or FOM.

Riêng Giang đoàn 27 Xung Phong trang bị hơi khác biệt với 6 Giang đoàn kia :

- 01 Giang đỉnh chỉ huy + 01 Chiến đấu đỉnh + 06 Quân vận đỉnh LCM8 và 10 Tiểu đỉnh RPC (River Patrol Craft) (13).

(13) Tham chiếu quyết định của Hội Đồng Tu Chính Hải Qui do Phó Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh làm chủ tịch, BTL/HQ/P5 ban hành một tài liệu căn bản về việc định danh (đặt tên) cho các chiến hạm và chiến đỉnh vào Tháng Sáu năm 1971.

Tên các chiến đỉnh trong tập này được viết theo đúng tinh thần sự vụ văn thư đă phổ biến. Xin xem chương tŕnh ACTOV trong tập này, trang…


https://www.youtube.com/watch?v=k-la_EV03yo



Quân số Giang lực lúc bấy giờ tăng thành 1,150 người kể cả Bộ Chỉ huy Giang lực và 3 Ban Chỉ Huy hành chánh Liên Giang Đoàn (type).

Ngày 19 Tháng Sáu năm 1965
được gọi là Ngày Quân Lực do sắc lệnh của Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung ương (tương đương với thủ tướng chính phủ) Nguyễn Cao Kỳ ban hành để chấm dứt thời kỳ khủng hoảng chính trị kéo dài. (14).


(14) Trên thế giới, các quốc gia văn hiến chọn ngày truyền thống Quân Đội (Ngày Quân Lực) là ngày đề cao giá trị tinh thần bất khuất, anh dũng hy sinh và t́nh đoàn kết chiến đấu v́ mục tiêu cao cả của người chiến binh ḿnh. Úc Đại Lợi (Australia) chẳng hạn, Lưỡng Viện Quốc Hội Úc đă chọn ngày 25 Tháng Tư hằng năm làm ngày ANZAC.

Cái độc đáo của ngày Quân Lực Úc là ngày bại trận tổn thất đến 5,000 chiến binh nhưng lại nói lên tinh thần keo sơn đoàn kết, hào hùng chiến đấu của Liên Quân Úc và Tân Tây Lan trên chiến trường quá bất lợi Gallipoli (Thổ Nhĩ Kỳ) vào ngày 25 Tháng Tư năm 1915.

C̣n ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 1965 của nền Đệ II VNCH chỉ là ngày mà Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo Quốc gia Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đồng ư với nhau mà thôi, không làm đảo chánh nữa v́ đă loại bỏ chính quyền dân sự Phan Khắc Sửu (Tổng thống) và Phan Huy Quát (thủ tướng) rồi.

Ngày truyền thống của Quân Lực VNCH mà chỉ có hai người quyết định giống như trong thời kỳ quân chủ chuyên chế. Thật hiếm thấy thay!





************

hoathienly19 12-11-2024 10:12



Gần cuối năm 1965 ,
lực lượng Hải Thuyền 4,000 người được sáp nhập vào Hải Quân.

Tuần viên cải danh thành đoàn viên kèm theo cấp số chính thức cho mỗi duyên đoàn là 03 ghe chủ lực, 03 ghe di cư và 16 ghe chèo.

Trong 7 năm đầu,
Hải Quân tiến triển chậm chạp nhưng trong 3 năm sau, Hải Lực đă nhận thêm một số chiến hạm đáng kể :

03 Trục lôi hạm MSC (Mine Sweeper Craft) là :


-HQ114 – Hàm Tử II

- HQ115 – Chương Dương II


MSC-282 : HQ-115 Chương Dương II





- HQ116 – Bạch Đằng II


MSC-283 : HQ-116 Bạch Đằn





01 Hộ tống hạm PC là:

- HQ06 – Vân Đồn.

02 Hộ tống hạm PCE (Patrol Craft Escort) là :


- HQ07 – Đống Đa

Hộ tống hạm Đống Đa II HQ-07 (H́nh của Rod Allen, cựu chiến binh Úc).





- HQ12 – Ngọc Hồi

Hộ tống hạm Ngọc Hồi HQ-12 (H́nh của Naval History and Heritage Command)





04 Hộ tống hạm MSF (Mine Sweeper Fleet) là :

- HQ08 – Chi Lăng II


HQ 08 Chi Lăng II (MSF 239 USS Gayety)





- HQ09 – Kỳ Ḥa


Hộ Tống Hạm Kỳ Ḥa HQ-09





- HQ10 – Nhựt Tảo

Hô Tống Hạm Nhựt Tảo HQ-10





- HQ11 – Chí Linh

Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ-11






03 Hải vận hạm LSM (Landing Ship Medium) là :

- HQ404 – Hương Giang

- HQ405 – Tiền Giang

- HQ406 – Hậu Giang.


03 Dương vận hạm LST (Landing Ship Tank) là :


- HQ500 – Cam Ranh

- HQ501 – Đà Nẵng

- HQ502 – Thị Nại.

20 Tuần duyên hạm PGM (Patrol Gunboat) là :


- HQ600 – Phú Dự

- HQ601 – Tiên Mới

- HQ602 – Minh Ḥa

- HQ603 – Kiến Vàng

- HQ604 – Keo Ngựa

- HQ605 – Kim Quy

- HQ606 – May Rút

- HQ607 – Nam Du

- HQ608 – Hoa Lư

- HQ609 – Tổ Yến

- HQ610 – Định Hải

- HQ611 – Trường Sa

- HQ612 – Thái B́nh

- HQ613 – Thị Tứ

- HQ614 – Song Tử

- HQ615 – Tây Sa

- HQ616 – Hoàng Sa

- HQ617 – Phú Quư

- HQ618 – Ḥn Trọc

- HQ619 – Thổ Châu.

02 Hỏa Vận Hạm YOG là :


- HQ471

- HQ472

05 Trợ chiến hạm LSSL là :


- HQ227 – Lê Văn B́nh

- HQ228 – Đoàn Ngọc Tảng

- HQ229 – Lưu Phú Thọ

- HQ230 – Nguyễn Ngọc Long

- HQ231 – Nguyễn Đức Bổng

Như vậy, vào cuối năm 1967,
Hải Lực có tổng số chiến hạm là 64 chiếc


https://www.youtube.com/watch?v=k-la_EV03yo



********

hoathienly19 12-11-2024 11:54



3. GIAI ĐOẠN NHANH CHÓNG BÀNH TRƯỚNG (1968-1975)


Đầu năm 1968, Việt Cộng mở cuộc Tổng Nổi Dậy, công kích trên toàn lănh thổ VNCH ; Hải Quân với quân số 30,000, kể cả 7,500 sĩ quan, không những bảo toàn được lực lượng đông đảo như vậy mà c̣n yểm trợ hữu hiệu cho các đơn vị bạn tái chiếm nhiều vị trí bị lọt vào tay địch trong những ngày Tết Mậu Thân.

Cũng trong năm này, 3 trung tâm huấn luyện được phân nhiệm rơ rệt :


- Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang đào tạo sĩ quan

- Trung Tâm Huấn Luyện Cam Ranh dành cho hạ sĩ quan và đoàn viên

- Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc Sài G̣n trau dồi thêm kiến thức chuyên môn cho các cấp.


https://www.youtube.com/watch?v=vd1W0xjs1bM



Đến năm 1969, để theo kịp chương tŕnh “Việt Nam hóa chiến tranh” (Accelerated turnover to the Vietnamese = ACTOV),

Bộ Tư Lệnh Hải Quân tổ chức Hành Quân Lưu Động Biển và Hành Quân Lưu Động Sông.

Trong tổ chức Hành Quân Lưu Động Sông, 3 Lực lượng tác chiến trong sông được thành lập :

- Lực lượng Thủy Bộ, tổ chức hành chánh (type) đóng tại B́nh Thủy, khi trở thành Đặc Nhiệm (Task) gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 211.

- Lực Lượng Tuần Thám, tổ chức hành chánh đóng tại Mỹ Tho, khi trở thành Đặc Nhiệm gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 212.

- Lực Lượng Trung Ương, tổ chức hành chánh đóng tại Đồng Tâm, khi trở thành Đặc Nhiệm gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 214.



Lễ Thành Lập Lực Lượng Đặc Nhiệm Tuần Thám 212 Tại Saigon 1970






Tư lệnh Hải Quân vùng IV Sông Ng̣i
kiêm tư lệnh Hạm Đội Đặc Nhiệm 21 khi chỉ huy cả 3 lực lượng trên cùng 7 Giang Đoàn Xung Phong và các cơ sở tiếp vận trong vùng châu thổ [Sông] Cửu Long, quân số lên đến 10,500 người.


Giang Tốc Đĩnh (PBR - Patrol River Boat) 300 Chiến-Đĩnh từ HQ 7500 đến HQ 7825






Tư lệnh vùng III Sông Ng̣i có :



- 5 Giang đoàn Xung Phong cơ hữu, cũng được sự tăng phái của các lực lượng đặc nhiệm 211, 212 và 214. (15)


(15) Vùng III Sông Ng̣i có 5 Giang Đoàn Xung phong trực thuộc :

- Giang Đoàn 22 Xung Phong và Giang Đoàn 28 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn trú đóng tại Nhà Bè.





- Giang Đoàn 24 Xung Phong và Giang Đoàn 30 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn trú đóng tại Long B́nh.





- Giang Đoàn 27 Xung Phong, tăng phái thường trực cho Đặc khu Rừng Sát. Trú đóng tại Nhà Bè.




Vùng IV Sông Ng̣i có 7 Giang Đoàn Xung phong trực thuộc :





- Giang Đoàn 21 Xung Phong và Giang Đoàn 33 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Mỹ Tho.





- Giang Đoàn 23 Xung Phong và Giang Đoàn 31 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Vĩnh Long.




- Giang Đoàn 25 Xung Phong và Giang Đoàn 29 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Cần Thơ





Hoàn tất chương tŕnh ACTOV năm 1972, Hành Quân Lưu Động Biển đă nhận thêm 20 chiến hạm:

04 Dương Vận Hạm LST là :


- HQ503 – Vũng Tàu

- HQ504 – Qui Nhơn

- HQ505 – Nha Trang

- HQ800 – Mỹ Tho


Dương Vận Hạm (LST - Landing Ship Tank) HQ 501 Đà-Nẵng,





02 Cơ Xưởng Hạm LST là :


- HQ801 – Cần Thơ

- HQ802 – Vĩnh Long






01 Hộ Tống Hạm MSF là :

- HQ13 – Hà Hồi

01 Hộ tống hạm PCE là :


- HQ14 – Vạn Kiếp

03 Hỏa Vận Hạm YOG là :


- HQ472

- HQ473

- HQ475

02 Khu trục hạm tiền thám DER (Destroyer Radar Picket Escort) là :


- HQ1 – Trần Hưng Đạo

- HQ4 – Trần Khánh Dư

07 Tuần dương hạm WHEC (White High Endurance Cutter) là :


- HQ2 – Trần Quang Khải

- HQ3 – Trần Nhật Duật





- HQ5 – Trần B́nh Trọng

- HQ6 – Trần Quốc Toản

- HQ15 – Phạm Ngũ Lăo

- HQ16 – Lư Thường Kiệt

- HQ17 – Ngô Quyền

05 Hải đội Duyên Pḥng được chuyển giao 26 Tuần duyên đỉnh WPB (Coastal Patrol Boat) đánh số từ :


- HQ700 đến HQ725 và HQ107

Duyên tốc đỉnh PCF (Patrol Craft Fast).






Cuối năm 1972,
quân số Hải Quân VNCH tăng thành 41,000 người.

Theo Jane’s Fighting Ships 1972-1973, HQ/Đại tá John More xếp sự lớn mạnh của lực lượng Hải Quân VNCH vào hàng thứ 9 trong các cường quốc Hải Quân trên thế giới.

Đầu năm 1975, lực lượng Hải Quân VNCH gồm :


- 05 vùng Duyên hải với 133 chiến đỉnh và 500 ghe đủ loại

- 02 vùng Sông ng̣i và 03 lực lượng tác chiến trong sông với trên 950 chiến đỉnh đủ loại

- Hạm đội Biển với 84 chiến hạm

- Quân số : 43,000 người


Tuần Duyên Hạm (PGM - Patrol Gunboat Motor)HQ 604 Keo-Ngựa






Giữa Tháng Tư năm 1975 , ngay sau khi trở lại nhậm chức tư lệnh Hải Quân lần thứ hai, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang chỉ định :

- HQ/Đại Tá Lê Hữu Dơng thành lập cấp tốc :

- Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 với sự phối hợp của các :

- Giang đoàn 22 Xung Phong





- Giang đoàn 42 Ngăn Chặn và Giang Đoàn 59 Tuần Thám gồm khoảng :





- 50 chiến đỉnh để giải tỏa áp lực địch trong phạm vi trách nhiệm của Hải Quân





Nguyễn Văn Ơn



TÀI LIỆU CHỌN LỌC THAM KHẢO



Tập này không có phần phụ đính danh mục (Index) để đồng nhất và dễ dàng tra cứu, tên các tác giả nước ngoài sẽ được ghi HỌ trước rồi mới đến TÊN giống như tên các tác giả Việt Nam, trong phần ghi chú.

1. Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim. Sài G̣n Thư xă 1962.

2. Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam – Nguyễn Hợp Minh. Melbourne 2000, tập 6.

3. Quân sử – Bộ TTM/Pḥng 5 1972, tập 4 quân lực h́nh thành Sài G̣n 1972.

4. Hai Mươi Năm Qua, việc Từng Ngày 1945-1964 – Đoàn Thêm. Sài G̣n 1966.

5. Tôn Ngô binh pháp – Ngô Văn Triệu. Sài G̣n 1973.

6. Trấn Hưng Đạo binh thư yếu lược – Nguyễn Ngọc Tỉnh. Paris 1988.

7. Hoạt động trong sông của Hải Quân VNCH. Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng, bài viết cho Hải sử 2000 (HS 2000)

8. Giang Đoàn Xung Phong 22, 25 và 29. HQ/Đại Tá Lê Hữu Dơng, bài viết cho HS 2000

9. Lược sử tổ chức Hải Quân VNCH. HQ/Trung Tá Vũ Hữu San, bài viết cho HS 2000

10. Giang Đoàn 26 Xung Phong. HQ/Trung Tá Trần Đỗ Cẩm, bài viết cho HS 2000

11. Trận Ba Rài. HQ/Trung Tá Phan Lạc Tiếp, bài viết cho HS 2000.

12. Trung Đoàn U Minh Hạ. Độc Hành. Việt Luận số 297 Sydney 5/1988.

13. Hồi kư 20 năm binh nghiệp. Trung tướng Tôn Thất Đính. CA Chánh đạo 1988.

14. Cuộc chiến dang dở. Tướng Trần Văn Nhựt. CA 2003.

15. Việt Nam Máu Lửa. Nghiêm Kế Tổ. Mai Lĩnh Sài G̣n 1954.

16. Kinh nghiệm chiến trường chống đặc công thủy. Ban Hải sử. BTL/HQ/P5 Sài G̣n 1970.

17. 1945 Lạc đường vào lịch sử. Nguyễn Manh Côn. Giao điểm Sài G̣n 1965.

18. Đường ṃn trên biển. Nguyễn Tư Đương. Hà Nội 2002.

19. The Ford Foundation Fellowship USA and France – Cao Thế Dung 1976.

20. Reassessing the ARVN – Lewis Sorley. VN Magazine April 2003.

21. Nation in arms – Greg Lockhart. Australia 1989.

22. The Vietnam war for dummies – Ronald B. Frankum, Jr and Stephen F. Maxner. Wiley Publishing Newyork 2003.

23. Vietnam war almanac – Harrys Summer Jr. USA 1982.

24. Vietnam a history – Stanley Karnow. Viking Newyork 1983.

25. Encyclopedia of the Vietnam war – Spencer C. Tucker. London 1999.

26. Vietnam: A visual encyclopedia – Philip Gutzman. London 2002.

27. The brown water navy – Victor Croizat. Blandford Press UK 1984.

28. The naval war in Vietnam – Anthony Preston. USA 1985.

29. Brown water, Black berets – Thomas J. Cutler. USA 1988.

30. Dictionary of the Vietnam war by Marc Leepson with Hanaford. USA 1996.

31. Victory at any cost – Cecil B. Currey. Great Britain 1997.



**************

hoathienly19 12-15-2024 10:13



CON NGỰA XÍCH THỐ CUẢ GIANG LỰC HẢI QUÂN VNCH






Trong suốt hơn 20 năm hoạt động cuả HQVNCH, các chiến hạm cũng như các chiến đĩnh, dù do Pháp giao lại, hay sau này do Mỹ chuyển giao, đều do Mỹ sản xuất.

Chỉ riêng chiếc Scan/Fom, tiếng Việt gọi là Tuần Giang Đĩnh, là do Pháp đóng.


Đây là một chiến đĩnh có nhiều đặc tính và tỏ ra rất công hiệu trong việc tuần tiễu trên sông rạch vùng Cửu Long Giang.

Việt Cộng đă nhiều phen kinh hăi trước sự xuất hiện cuả loại chiến đĩnh này.

Trong sinh hoạt cuả các giang đoàn, chiến đĩnh này được gọi tắt là Fom.

Hỏi tại sao lại gọi như thế, nhiều người đă trả lời, v́ khi chạy máy tầu nổ rất ṛn kêu “fom, fom” . Nghe cũng có lư.

Nhưng đúng tên cuả nó là do chữ Scan/Fom (Service Technique des Constructions et Armes Navals Frances Outre–Mer).

Một loại tầu được đóng để Hải Quân Pháp hoạt động ngoài nước Pháp, đặc biệt cho Đông Dương.


Tiền phong đỉnh Monitor Combat và Tuần giang đỉnh Fom tuần tiểu trên sông






Chiến đĩnh này dài 36 bộ, rộng độ 7 bộ, mũi nhọn, đáy tầu cũng nhọn, chạy nhanh xé nước tạo thành một vùng trũng khiến cho toàn thân tầu gần như thấp hơn mặt nước, tránh được các loại súng lớn từ bờ muốn bắn vào phần thân tầu.

Cũng v́ mũi nhọn, đáy nhọn, khi bị thủy lôi , sức công phá cuả thủy lôi tạt qua một bên , (khác hẳn với các loại chiến đĩnh đáy bằng, khi bị thủy lôi là cầm chắc đáy tầu bị phá).

Loại Fom này, được trang bị :

- Một đại liên 12.7ly tại mũi, với dàn pháo tháp bằng thép bao quanh, đại liên này có tầm hoạt động mạnh , xa tới 5 cây số, và ṿng hoạt động 220⁰ về phía trước và hai bên.

Trên nóc tầu có 2 đại liên 30, và sau lái 1 đại liên 30 nữa, chưa kể các loại súng nhỏ như M16, M79.

Thường mỗi chiếc chỉ có 4 nhân viên.

Tầu bao giờ cũng đi hai chiếc, do một hạ sĩ quan làm thuyền trưởng trông nom cả cặp tầu.

Sự lanh lẹ, gọn nhẹ cuả chiếc Fom được ví như “con ngựa Xích Thố cuả Giang Lực” .

Để có một cái nh́n sống động hơn về hoạt động cuả chiến đĩnh này, xin theo dơi bài bút kư viết về những kỷ niệm, những nguy nan cuả các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam một thời vùng vẫy trong khu chiến Tiền Giang, qua trận đánh tại Ba Rài.


Tuần giang đỉnh Fom sơn màu nguỵ trang






*********

hoathienly19 12-15-2024 10:53



ĐƯỜNG ĐI KHU CHIẾN


Tôi bị ra Hội Đồng Kỷ Luật trong một trường hợp thật ngộ nghĩnh, và bị đưa đi đơn vị tác chiến :


- Giang Đoàn 21 Xung Phong, khu chiến Tiền Giang.





Mới tới đơn vị, tin tức các nơi liên hệ đến các cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Cộng và các tầu tuần tiễu mỗi lúc một tăng. Sự thương vong mỗi lúc một lớn.

Quả thật là tôi có “rét” thật.

“Rét”
nên tôi cố gắng t́m hiểu, học hỏi các kinh nghiệm cuả các bạn sĩ quan cùng khóa tại đơn vị, và nhất là các kinh nghiệm cuả các anh em đoàn viên đă lặn lội nhiều năm tại vùng sông nước nguy hiểm này.

Lúc ấy, năm 1965,
anh Nguyễn Đức Bổng, khóa 10, trên tôi một khóa, làm duyên Đoàn trưởng Duyên Đoàn 33 bị nội tuyến, địch giả dân đánh cá làm quen với đơn vị, rồi giữa trưa làm lễ cúng Hà Bá, mời cả Duyên Đoàn dự tiệc, rồi đùng một cái họ nổ súng, bắn chết khá đông. Anh Bổng ở trên ghe chủ lực, cũng bị bắn chết.

Tràng đạn xuyên nát ngực. Khi chúng tôi đến lấy xác anh, trời đă chiều.

Con rạch Sọ Dừa,
cái tên oan trái, là nơi xác anh nằm vắt vẻo bên sàn ghe. Xác anh Bổng xám ngắt và tóp lại như một đứa trẻ, v́ máu ra quá nhiều.

Xác anh nằm ở sàn tầu, phủ bằng một tấm chăn dạ lính. Máu từ thân thể anh vẫn tiếp tục chảy dài xuống sàn tầu và ḅ ngoằn ngoèo ra mé cửa sổ chiến đĩnh.






Hỏa châu từ nơi nào đó bắn lên dọi sáng một vùng trời. Tôi lại nghe anh sắp sửa lấy vợ nữa. Tôi thương anh và càng thấy sợ.

Tôi th́ vừa lấy vợ. Hai vợ chồng hai nơi, Sài G̣n và Mỹ Tho...

Tôi thương vợ tôi lắm, nên nhủ ḷng :

- “ Phải cẩn thận tối đa.”





Lúc rỗi, tôi lên Pḥng Hành Quân theo dơi bản đồ Trận Liệt, ghi các vùng nguy hiểm vào sổ tay.

Nh́n cho kỹ địa thế.
Đọc thật kỹ kư hiệu nơi có rừng cây, nơi có dừa nước. Các nơi đă từng đụng độ.

Và tôi nhận ra rằng :


- Đa số các nơi diễn ra cuộc đụng độ mà phần thiệt hại về ta, là các khúc sông hẹp, uốn khúc. Địch nấp trong hầm bắn ra.

Ta hỏa lực hùng hậu, tầm đạn xa, lại có cả loại đạn công phá, nổ khi chạm vật cứng như sắt, thân cây lúc này trở nên ít hữu hiệu.

Và thời điểm các cuộc đụng độ,
đa số vào khoảng 4, 5 giờ chiều. Giờ mà theo thói quen, quân ta đă lo sửa soạn ra về, máy bay khi cần khó gọi, có đến cũng khó can thiệp.

Giờ cuả địch,
như thế kể như từ 4, 5 giờ chiều cho đến 4, 5 giờ sáng.

C̣n các cuộc bắn tầu, như kinh nghiệm các bạn kể lại, thường là vào ban đêm.

Lúc ấy, nếu tinh ư, ta sẽ thấy “sao mà đất trời lạnh ngắt”.

Lạnh ngắt v́ khi bờ sông có người phục kích, chim muông không dám xà xuống đậu.Có xà xuống thấy người lại chới với bay lên.

V́ thế cảnh vật bỗng trở nên vắng lặng, rờn rợn.

Lúc ấy,
nếu thấy một ngọn đèn thắp lấp lánh bên bờ sông, ta có nhiều phần chắc đó là ngọn–đèn–nhắm.

Việt Cộng thắp ngọn đèn bên kia sông, chúng nằm bên này sông, trời tối càng tốt.

Khi tầu lướt trên mặt sông, án ngữ tầm nh́n cuả ngọn–đèn–nhắm là bên này sông, chúng đă gờm súng sẵn, cứ việc bấm c̣. Chắc như bắp . Chỉ trừ khi tên xạ thủ run tay, chậm trễ, đạn mới vượt qua sau lái.

Lúc như thế, ta mới thấy chiếc Fom hữu hiệu như thế nào.






Fom, như trên đă viết, chạy nhanh, có bị bắn, đạn đi trên tầm nước, khó ch́m.

Thấy đèn nhấp nháy khả nghi, Fom, loại tầu đi trước và đi sát mé sông, xả tốc độ, quay 90⁰, bỏ đèn nhắm cuả địch sau lái, lấy đại liên 12.7ly bắn như mưa vào bờ đối diện.

Đâm thẳng vào. Đạn đan kín trời tràn ngập nơi địch trú ẩn. Tới gần, hai đại liên 30 trên nóc tầu xả đạn quanh điểm khả nghi. Đồng thời dùng M79 bắn vào.

Đạn nổ bùng. Việt Cộng bạo th́ nằm dí đó, ăn đạn nát thây. Vụt chạy th́ khó tránh được rừng đạn 12.7ly và đại liên 30 bắn đuổi theo như mưa bấc.






****************

hoathienly19 12-23-2024 15:07



ĐỨC RÂU , KẺ TỬ THÙ CỦA VIỆT CỘNG



Trung Sĩ I Lê Phước Đức





Người cho tôi kinh nghiệm về chiến thuật phản xạ này là Trung sĩ I Lê Phước Đức, tục
gọi là Đức Râu.

Anh thâm niên quân vụ khá bộn, đâu như xuất thân từ khóa 1, khóa 2 Đoàn Viên, ngành Thủy Chiến Binh (Fusilier), do Pháp huấn luyện.

Bạn bè anh đă có người có đai vàng trên mũ. Anh vẫn chỉ có ba chữ V trên vai áo. Anh người Nam, to con,mặt hơi rỗ, râu hàm xanh ngắt.

Lúc nhàn rỗi, anh ngồi lầm ĺ trên tầu, bên cạnh là một thùng bia Quân Tiếp Vụ, uống t́ t́, mặt đỏ râu dựng, không nói một câu.

Ít ai biết về gia cảnh anh. Lúc nhàn rỗi đă thế, khi đụng trận, vừa ngồi trên nóc tầu, hai chân tḥng xuống bánh lái. Một tay bấm c̣ đại liên 30, một tay cầm ống liên hợp điều động chiếc Fom bạn,ủi đầu vào nơi địch vừa khai hỏa.

Những lúc như thế, trời chiều đă gần tắt, mây đỏ đầytrời. Anh lẫm liệt lao vào lửa đạn, uy dũng lừng lững, như Quan Vân Trường với thanh Long Đao trên ḿnh con ngựa Xích Thố.

Lúc ấy, đoàn tầu cứ việc nhẹ nhàng tiến, và lặng lẽ theo dơi cặp Fom cuả anh làm cỏ hai bên bờ.

Có lúc tôi đă hỏi anh :

- “ Sao cứ ở đây hoài, đi tầu biển cho nó thay đổi cuộc sống chăng ”?anh tợp một hơi bia và nói :

-“Ông thầy! Mấy thằng fusilier (chiến binh) đi tầu là loại lính–mỡ.”

Tôi phân vân hỏi :

- “Lính mỡ là...?” Anh đáp :

- “ Mang tiếng là chiến binh mà đi tầu biển chỉ có việc lấy mỡ xoa vào ṇng súng cho khỏi sét, chứ lính ǵ tụi nó...”

Anh ví von đến là hay, tuy có phần hơi cường điệu...

Trong đơn vị, anh là người có nhiều huy chương nhất, anh chỉ đeo có nhành dương liễu mà thôi.


Các ngôi sao vàng, sao bạc, anh bảo :

- “ Đồ ăn giỗ đó mà ông thầy...”

Trong các cuộc hành quân tuần tiễu, có khi chỉ có một chiếc soái đĩnh, hai Quân Vận Đĩnh và hai chiếc Fom, biệt phái cho một vùng nào đó.

Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom cuả anh Đức . Bạn tôi, Trần Hữu
Khánh, tay tŕ cuả Giang Đoàn nói :

Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom cuả anh Đức.

-“ Có Đức đi theo ḿnh yên trí lắm. Có đụng mới thấy ngựa hay...”

Tôi ở Giang Đoàn có mấy tháng, đă thấy mấy lần đụng độ. Đức lúc nào cũng
được nhắc đến, với các chiến lợi phẩm. Khi th́ mấy khẩu CKC, Bá Đỏ...

Chiến công lặt vặt ấy, anh bảo:

- “Thôi để cho mấy đứa em. Dù nó có ở khẩu 30 sau lái, cũng là đụng trận
chứ. Cho nó có chút xanh, chút đỏ cho vui. Tôi đeo đủ rồi.


https://www.youtube.com/watch?v=IAer8DiNZJA



Vào giữa năm 1965,
một buổi trưa, một đoàn tầu đi tuần trên kinh Chợ Gạo. Con kinh huyết mạch để đoàn ghe gạo, cá từ Vùng IV về Sài G̣n qua đó.

Kinh Chợ Gạo, ṿng đai an toàn cho Mỹ Tho, B́nh Phục Nhất, nơi mà “ḿnh vừa đi qua, là tụi nó ló mặt ra liền” ,chính nơi này, Đức Râu và cặp Fom cuả anh đă làm Việt Cộng điên đảo.

V́ là tầu nhỏ,một tầu tiến vào lạch, kéo theo chiếc Fom khác quay mũi trở ra.

Như thế lạch hẹp, tầu phải vừa đi vừa vén lau mà lủi, không thể xoay sở, chẳng thể quay đầu.






V́ thế Việt Cộng tin là :


- “ Lạch hẹp, bố bảo tụi tầu cũng không dám vào đây”. Vậy mà Đức Râu bảo :

- “Ông thầy cứ nằm ngoài kinh. Để tôi vào.”

Vào sâu nằm đó, khi ở ngoài kinh đoàn tầu đă đi.

Trong lạch um tùm, hai chiếc Fom nằm im khe
.

Tụi Việt Cộng ló ra, chèo ghe đi lại. Cho thật chắc, để chúng xuất hiện đông, là Fom khai hỏa . Chúng chạy đâu cho thoát.

Lúc ấy chiếc Fom buộc sau chiếc Fom đi đầu, mở máy chạy, kéo theo chiếc thứ nhất trở ra kinh lớn... Sự gan dạ và thông minh ấy cuả Đức Râu, đă làm địch khiếp vía.

Bao nhiêu xác địch đă bị bỏ lại trên bờ kinh. Bao nhiêu gạo, muối, đồ tiếp liệu cuả địch đă tịch thu được, một phần không nhỏ là do Đức với cặp Fom đem về .


https://www.youtube.com/watch?v=d5imE2o0IJw



Rồi một hôm, giữa năm 1965 cũng chính từ chiếc Fom của Đức HQ 5001,HQ 5002 gọi về, giữa trưa:

- “Tôi bị bắn, lạ lắm. Lửa phát ra xanh lè. Đạn xuyên từ bên trái tầu, qua luôn thành bên phải, ghim vào bờ kinh nổ bùng. Chúng bắn xong lủi rất nhanh vào khúc quẹo”.


Cả Giang Đoàn bàn tán. Các chi tiết ấy đă được sĩ quan Ban 2 ghi lại, gửi về Bộ Tổng Tham Mưu.

Sau này mới hay đó là loại súng mới rất lợi hại của địch: B40.


B40 trên chiến trường Việt Nam.





Và cũng từ đó,
thay v́ chỉ là súng ngựa trời, CKC, bá đỏ, Việt Cộng có loại AK 47, nhẹ, bắn liên thanh.

Cũng từ lúc ấy, tin đồn Việt Cộng treo giải, ai giết được Đức râu sẽ được thưởng 200 ngàn đồng, số tiền tương đương với nhiều lạng vàng. Một gia sản lớn.

Nghe thế, đọc các truyền đơn ấy, Đức râu chỉ cười. Ngồi thừ trên mũi Fom, uống rượu t́ t́.

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N. Côxưghin và Thủ tướng Phạm Văn Đồng





Ở lâu quá một con tầu không nên, cần phải thuyên chuyển qua tầu khác để có kinh nghiệm mới , và cũng là dịp cho nhân viên khác lên thay, để có cơ hội học hỏi thêm.

Đức râu được lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh (Monitor Combat), HQ 6001.


Tiền phong đĩnh Monitor Combat sơn màu nguỵ trang.





Tiền Phong Đĩnh c̣n gọi là Thiết Giáp Đĩnh, là loại chiến đĩnh được trang bị hùng hậu nhất trong các chiến đĩnh hoạt động trên sông, dài 60 bộ, rộng 17 bộ.

Trước mũi là đại bác 40 ly, pháo tháp dày.

Ở giữa chiến đĩnh có một súng cối 81 ly, hai đại liên 12 ly và hai đại liên 30, và nhiều súng nhỏ, kể cả súng phóng lựu M 79.

Hai máy dầu cặn, hai chân vịt nên xoay sở dễ dàng, tốc độ 8 gút.

Nhân viên cơ hữu độ mười người.

Khi cuộc hành quân quy mô, thường có các sĩ quan trưởng toán hiện diện tại đây.





Đức râu được biết “phải” rời cặp Fom cuả anh để lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh HQ 6001.

Anh không muốn lên, v́ như nhiều người biết, ở đây gần mặt trời, lại là chiến đĩnh lớn, khó tung hoành. Nhưng anh không thể từ chối. V́ thâm niên công vụ, anh sẽ đeo lon Thượng Sĩ nay mai, không thể ở măi trên tầu nhỏ được.

Làm quen với chiến đĩnh này, cũng không khó đối với anh. Với tướng mạo hùng dũng ấy, các tay đàn em sợ một phép.


************

hoathienly19 12-26-2024 12:43



LỤC QUÂN VNCH HÀNH KHÚC - South Vietnam Army March



https://www.youtube.com/watch?v=oLerrZEWWt0

hoathienly19 12-29-2024 07:17



TRẬN BA RÀI 29/9/1965



Con rạch Ba Rài bắt nguồn từ Quận Lỵ Cái Bè dài trên 10 cây số, chảy ra sông Cửa Tiểu theo hướng Bắc Nam.



https://www.youtube.com/watch?v=JxAKg9P819Q



Ḷng rạch hẹp, nơi rộng nhất ở ngă ba Ba Rài–Cửa Tiểu, hai bên bờ rạch không quá 100 mét.

Con rạch cắt một góc chéo 25⁰ rồi uốn khúc, tạo thành một doi đất, bề ngang doi đất không quá 600 mét.

V́ thế từ cửa rạch không thể nh́n thấy phía trong. Hai bên bờ cây rậm rạp, những hàng dừa đứng chen nhau như thành.

Suốt cả chiều dài cuả bờ rạch như thế, nên cuộc đụng độ giữa một đơn vị chủ lực Việt Cộng với các đơn vị cuả Sư đoàn 7 Bộ Binh, có cả Thủy Quân Lục Chiến từ mấy ngày qua.

Hai bên cứ cầm chân nhau, không bên nào tiến lui được.

Hai bên đều nh́n thấy nhau, chỉ cách mấy hàng dừa.

Quá gần cho nên không thể gọi pháo binh tác xa.

Quá rậm nên không có chỗ để trực thăng đổ quân tiếp viện.

V́ thế, Sư Đoàn 7 Bộ Binh đă trông cậy vào Hải Quân :

- Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong.

Giang Đoàn 21
là một đơn vị kỳ cựu, nhân viên và sông nước quen nhau, và cả địch lẫn ta quần nhau cũng lắm.

Riêng Giang Đoàn 27 Xung Phong vừa mới thành lập, dưới quyền chỉ huy cuả Hải Quân Đại úy Trần Văn Triết, một sĩ quan mới từ đơn vị biển đổi về sông.

Sau mấy tháng huấn luyện, đây là lần đầu tiên Giang Đoàn 27 Xung Phong đem toàn lực ra quân, với tất cả các chiến đĩnh cuả Giang Đoàn 21 Xung Phong.





Nhiệm vụ cuả cuộc hành quân này là Hải Quân tiến vào rạch Ba Rài, hỗ trợ cho các đơn vị Bộ Binh rút từ Xă Xuân Sơn, phía Đông rạch Ba Rài sang bên kia rạch.

Hải Quân, cả hai Giang Đoàn đă tiến vào. Dưới hỏa lực hùng hậu cuả các giang đĩnh, Việt Cộng đă án binh bất động.

Đơn vị bạn đă rút an toàn, và dùng tầu Hải Quân băng qua bên kia bờ.

Tất cả đă diễn ra êm ả, từ 2 giờ cho đến 4 giờ chiều. Đoàn tầu bắt đầu rút, nước đă xuống. Tàn cây che phủ ḷng sông, tối, lạnh.

Việt Cộng đă phục sẵn tại doi đất gần cửa rạch và bắt đầu tấn công vào đoàn tầu cuả ta.

Đây là một cuộc thử lửa khốc liệt giữa một đơn vị chủ lực cuả Việt Cộng và hai Giang Đoàn được coi là tinh nhuệ cuả ta.



Chiến đỉnh ATC (Tango).





Dù trận chiến đă diễn ra trên 30 năm, nhưng may mắn thay, các nhân sự ṇng cốt cuả cuộc thử lửa này, hiện ở Mỹ c̣n nhớ được, và đă thuật lại qua các câu trả lời trên giấy hoặc qua các cuộc điện đàm mới đây.


Đó là anh :



- Nguyễn Ngọc Giang lúc ấy là trung úy, lên lon tại mặt trận tŕnh bày ở phần trên ; và anh Diệm, Đặng Diệm, người lăn lộn với Giang Đoàn 21 Xung Phong rất nhiều năm.






Giang kể :

“Cuộc hành quân dựa theo tin t́nh báo cuả SĐ7BB theo đó Trung Đoàn chính quy BV có trang bị vũ khí nặng đă có mặt trong vùng.


SĐ7BB đă mở cuộc hành quân bao vây trước đó một ngày, lực lượng gồm nhiều Tiểu Đoàn TQLC và Bộ Binh SĐ7.

Lực lượng này đă bị cầm chân và không rút được, phi cơ cũng không can thiệp được v́ rừng cây dầy đặc.

Phía ngoài, tại cửa sông lớn đi vào, địch đă để một thành phần súng lớn để diệt tầu Hải Quân (sau này, khi đụng độ mới biết, v́ chúng ngụy trang và bất động).

Do đó SĐ7BB yêu cầu Hải Quân mở cuộc hành quân phối hợp thăm ḍ tiếp theo để có thể can thiệp cho kế hoạch :

Rút quân và để phi cơ oanh tạc.

Giang Đoàn 21 Xung Phong và 27 Xung Phong do HQ Đại úy Trần Văn Triết chỉ huy, mở cuộc hành quân thay cho HQ Thiếu tá Huỳnh Huy Thiệp, đi họp ở Cần Thơ.

Đoàn tầu đi tới vùng hành quân khoảng 2 giờ chiều.

Tất cả nằm ngoài sông lớn.

Riêng toán cuả tôi gồm Monitor Combat 6001 và hai Fom 5001–5002 được chỉ định đi vào kinh nhỏ bắt liên lạc với bộ binh.



Tiền phong đỉnh Monitor Combat và Tuần giang đỉnh Fom tuần tiểu trên sông.






Toán cuả tôi chỉ huy gồm thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức (Râu) và Trung sĩ Sụn (Fom). Chúng tôi đă tiến sâu vào trong kinh và bắt liên lạc trực tiếp với lực lượng trên bờ tại xă Xuân Sơn.

Tôi báo cáo ra ngoài cho Đại úy Triết biết.

Đại úy Triết bèn cho một Monitor Command với hai RPC hộ tống đi vào, và toán cuả tôi tiến ra yểm trợ.

Tất cả đều yên lặng, không có cuộc chạm súng nào, nhưng không khí căng thẳng, v́ với kinh nghiệm cho biết, tôi đoán, địch sẽ đánh.


Lúc trở ra. Thông thường, bất cứ cuộc hành quân vào sông rạch nào lúc vào không nguy hiểm bằng lúc trở ra ; do đó thường tránh đi về cùng một đường.

Nhưng trường hợp này không áp dụng được v́ độc đạo.





Khi quay trở ra, tiếp tay được với toán Đại úy Triết, tôi nằm lại giữ an ninh thủy tŕnh, và Đại úy Triết cho 3 giang đĩnh tiến sâu vào tiếp giáp với bộ binh trên bờ.

Khi Hải Quân gặp Bộ Binh, địch không kềm chân Bộ Binh nữa v́ sợ Hải Quân phản công.

V́ thủy tŕnh quá dài, nên toán tôi giữ an ninh khúc giữa Đại úy Triết cho monitor combat 6007 cuả Trung úy Bảo vào giữ an ninh khúc ngoài.

Khoảng 4 giờ chiều,
một phi cơ quan sát cho biết một tầu Hải Quân bị cháy phía ngoài đầu kinh.

Đại úy Triết liên lạc với Trung úy Bảo không được và chỉ thị toán cuả tôi ra tiếp cứu.

Khi gần tới tầu Trung úy Bảo th́ tôi bị tấn công bằng đủ mọi loại súng nặng. Chiếc monitor combat HQ 6007 cuả Trung úy Bảo là mục tiêu đầu tiên cho địch khai hỏa . Bảo bị thương nặng.

Tầu bốc cháy và ch́m. Tôi cho lệnh 3 chiến đĩnh ủi thẳng vô bờ phản công.

Địch đă xuất hiện với quân phục ka–ki vàng, nón cối rất đông.

Chúng mở cuộc tấn công với mục đích cướp tầu, nhưng chúng không thể nào tiến tới gần tầu được.

Cuộc giao tranh rất khốc liệt.


Toán giang đĩnh cuả Đại úy Triết tiến trở ra bị ngay mấy du kích hai bên bờ bắn tỉa làm Thiếu úy Hiền và Đại úy David tử thương.

Đại úy Triết bèn ra lệnh cho tất cả rút ra ngoài sông lớn nhưng toán cuả tôi vẫn nằm ĺ ở lại, v́ đang đối đầu quyết liệt với địch.

Chúng tôi đă tận dụng hỏa lực 40ly, 20ly, đại liên 50, 30, FM Bar.

Địch quân không thể tiến lên được và chúng gục xuống sau những tiếng hô đồng nhất " xung phong ".

Khẩu đại liên 30 bên trái ngưng nhả đạn, tôi quay qua sờ thấy đầu Trung sĩ Đức gục xuống, anh đă hy sinh.


https://www.youtube.com/watch?v=rcmewCwA8mc



Tôi được lệnh Đại úy Triết phải rút ra ngoài.

Tôi báo cáo t́nh h́nh và cho biết tầu tôi bị trúng rất nhiều đạn súng lớn, trong đó có bị một lỗ lớn, nếu rút ra sẽ bị ch́m.

Về nhân viên, có Trung sĩ Đức hy sinh, Trung sĩ Thức thuyền phó monitor bị thương nặng ở chân.

Một phóng viên AP bị một viên đạn vô ngực, ông ta rất tỉnh, nhưng báo sự nguy hiểm sẽ đến với ông ta. Vài phút sau khi gặp th́ ông ta cũng ra đi.

Số c̣n lại tất cả đều bị thương, nhưng vẫn c̣n chiến đấu hữu hiệu . Chúng tôi phải tận lực mới đẩy lui được những đợt tấn công cướp tầu cuả địch.

Khoảng 11 giờ đêm,
tiếng súng thưa dần. Tôi yêu cầu Đại úy Triết cho vô tiếp cứu, nhưng vô hiệu.

Nằm lại một ḿnh cho đến khi im tiếng súng, chúng tôi 9 thầy tṛ đă chuẩn bị tất cả vũ khí cá nhân, lựu đạn để nếu tàu bị ch́m, không ở lại tàu được th́ sáng hôm sau sẽ t́m đường bộ về Cái Bè.

Nhưng nhờ trước đó chúng tôi đă cho cột dây an toàn từ bít sau lái lên gốc cây trên bờ, nên tàu không bị vô nước, nhờ đó mới kèm kéo về an toàn...”





***********

hoathienly19 01-03-2025 08:42


Đặng Diệm, người lăn lộn với Giang Đoàn 21 Xung Phong rất nhiều năm.

Đặng Diệm kể :


-“Như anh biết, tôi cũng chẳng gan dạ ǵ, nhưng việc tới tay th́ phải làm. Vùng sông nước này tôi hoạt động khá lâu nên khá rơ.

Lúc đoàn tầu bị tấn công, tôi ở trên chiếc Monitor Command. Đại Úy Davis và Thiếu Úy Hoàng Hiền cũng ở trên tầu này.

Hiền bị đạn, lăn lộn dữ lắm, mấy người ôm anh ấy để tránh rớt xuống sông.


Lúc đă rút ra ngoài sông lớn, Đại Úy Triết đi Cái Bè họp với bên Bộ Binh.

Trong Lúc ấy hệ thống truyền tin vẫn mở, tiếng Giang báo cáo, kêu cứu, tất cả các tầu đều nghe.

Tôi kiểm chứng mật mă riêng với Giang. Giang trả lời rất nhanh.

Tôi gọi 4, Giang đáp lại ngay 9, để 9+ là 13. Con số 13 chỉ có hai đứa tôi biết mà thôi.

Tôi tin là Giang không bị địch áp đảo. Giang tiếp tục kêu tiếp cứu gấp rút . Các thuyền trưởng họ cùng mở máy nghe, họ nóng ruột quá.

Chỉ huy Trưởng th́ đă đi họp. Tôi bèn lấy quyết định một ḿnh vào cứu Giang, và yêu cầu ai t́nh nguyện th́ theo tôi. Phải nói là lúc đụng trận th́ ḿnh không sợ, ḿnh phản ứng tự nhiên.





Giờ cuộc đụng độ đă tàn. Nhớ lại lúc Đại Úy Davis ngă xuống và Hoàng Hiền lăn lộn đầy máu, tôi cũng cảm thấy hăi chứ. Mà chắc ǵ địch không phục ở cửa sông. Có thể là chỗ tầu Giang đă yên, yên thật, hay yên giả.

Nhưng làm sao khác được, tôi lấy một chiếc Command, 2 LCM và 2 chiếc fom trở lại rạch Ba Rài. Tôi nói với Giang :

- “ Khi nào nghe tiếng tầu tôi th́ lấy đèn pin làm hiệu...”

Phải nói là liều chứ anh, run lắm, sĩ quan chỉ có ḿnh tôi. Con rạch tối om, lạnh ngắt. Khi nghe Giang báo cáo :

- “ Tôi đă nghe tiếng tầu” là lúc tôi thấy ánh đèn pin lập ḷe của Giang vẫy vẫy. Tôi cho hai chiếc fom khai hỏa phía bờ đối diện.





Tầu tôi cặp vào tầu Giang.
Đón được Giang và các nhân viên trên chiếc Combat qua tầu tôi, tất cả chúng tôi đều bê bết náu.

Tầu tôi lùi ra, để cho hai chiếc LCM cặp vào chiếc Combat kéo về. Lúc trở ra. Trời đă khuya lắm, có lẽ đă quá nửa đêm. Vừa đi vừa bắn.

Về đến cửa Mỹ Tho, như anh biết là 4 giờ sáng.

May mà không có sự ǵ xẩy ra, nếu tụi nó phục sẵn, ḿnh làm sao mà không bị thiệt hại. Lúc ấy thật khó nói...”





Trong khi cả hai giang đoàn hầu như dốc toàn lực cho cuộc hành quân này, th́ riêng tôi được phân nhiệm đem một chiếc LCM và hai LCVP , chở theo một trung đội bộ binh, đổ bộ bên tả ngạn sông Tiền Giang, đối diện với vùng hành quân trên để nghi binh.

Tiểu vận đĩnh LCVP tuần tiểu trên sông.






Tôi c̣n được chỉ thị kỹ chỉ cần đổ quân gần bờ, bắn cho có tiếng súng, đừng vào sâu, và phải rút về lúc quá trưa, để c̣n liên lạc với bên Tiểu Khu lo việc làm lễ gắn huy chương cho vị cố vấn tiền nhiệm, và cũng là lễ giới thiệu Đại Úy Davis, tân cố vấn.

Như đă dự trù, tôi đem mấy chiếc tầu về đến căn cứ lúc 2 giờ, nằm ngủ một lát để lát nữa qua Tiểu Khu mượn ban nhạc, th́ anh Trung Sĩ Vô Tuyến gơ cửa, tôi bảo “vào đi” . Anh ta nói, mặt xám ngắt :

- Ông thầy xuống Pḥng Vô Tuyến đi.

Tôi chạy xuống ngay, đóng cửa lại, và mở cả hai hệ thống truyền tin. Tiếng súng vọng lại từ mặt trận dội về xen lẫn các cuộc đối thoại giữa các chiến đỉnh trên hệ thống chỉ huy.

Có Lúc tiếng nổ dội về, và hệ thống âm thoại tắt.. .Đúng là đụng to rồi. Tôi ra lệnh cho đóng cổng trại, cấm trại 100%, để sẵn sàng nhận lệnh từ mặt trận gọi về. Tất cả đă diễn tiến như anh Giang đă tả”.

Khi tiếng anh Diệm êm ả gọi, cho hay :

- “ Tụi này sẽ về đến căn cứ độ 40 phút nữa. Sẵn sàng xe cứu thương và y tá...”

Tôi khoác áo ấm đeo súng Colt và đèn pin đứng đợi tại cầu tầu cùng với xe cứu thuơng và cáng.

Đoàn tầu đă nh́n thấy lấp lánh tiến về từ từ cặp vào cầu tầu.

Diệm bước lên đầu tiên, d́u Giang theo.

Dưới ánh đèn vàng, chỉ thấy toàn người Giang đầy máu. Giang vẫn đi lại được.

Tất cả nhân viên trên chiếc Tiền Phong đỉnh cuả Giang lên ngồi kín chiếc xe Hồng Thập Tự. Sau đó, một xe khác chở cái băng ca, xác cuả Đức Râu vàng khè và toàn thân sũng máu...

Tất cả lặng lẽ di chuyển qua Bệnh Viện Dă Chiến.


Các nhân viên c̣n lại, kể cả dưới tầu, trên căn cứ xúm lại lấy ống bơm xịt, rưả chiếc tầu vừa từ mặt trận về.

Trời sáng dần, mặt sông đă óng ánh bóng nắng, và cũng là lúc tôi nhận thấy nước từ trên chiến đỉnh chảy xuống vẫn đẫm đẫm máu đỏ.

Trời sáng hẳn, cả cầu tầu đă trở lại êm ả, sạch sẽ như thường lệ.


https://www.youtube.com/watch?v=4fEXLhWvmqQ



************

hoathienly19 01-04-2025 19:48



TỔNG KẾT TRẬN BA RÀI



Được chỉ huy bởi một vị sĩ quan vừa từ biển đổi về sông, kinh nghiệm chiến trận kể như c̣n “ lỏng tay ” , đây là một cuộc tranh hùng khốc liệt. Dù địch đă chuẩn bị sẵn chiến trường, có đủ yếu tố bất ngờ, và giờ giấc thuận tiện :

Lúc 4 giờ chiều, giờ của họ, nước thấp, chúng ở trên cao bắn xuống. Nhưng ta đă “đáp ứng”ngon lành.

Không ai có con số chính xác về tổn thất của địch, nhưng xác địch nổi trên mặt sông nhiều gấp 3,4 lần bên xác của ta, đó là chưa kể số thương vong trên bờ mà địch đă vội vă mang đi chắc cũng không dưới 100, v́ 57 súng đủ loại để lại là một chứng minh cụ thể.

Bên ta tuy có một tầu ch́m, số thương vong chưa quá 20. Và vũ khí được bảo toàn.


h́nh minh họa


Tại đơn vị, những phái đoàn lên xuống tấp nập . Đầu tiên là các cô nữ xă hội của Thiếu Úy Sa. Các cô đem dầu gió, vải trắng làm khăn tang..

Lần lượt là thân nhân của nhân viên đơn vị. Tất cả ngồi chật ních, rũ rượi ở Câu Lạc Bộ. Hải Quân Đại Tá Trần Văn Chơn, Tư Lện Hải Quân cũng có xuống.

Ông xuống thăm chiếc monitor combat HQ 6001.


Ông nh́n lỗ thủng do đạn địch bắn vào, ông x̣e bàn tay che chưa kín lỗ đạn, và nói với Giang :

- ” Có bàn tay trời che chở cho anh…”.





Trong lúc ấy tại khúc sông con rạch Ba rài, Bộ Binh đóng đầy.

Những đám khói hương cắm dọc theo mé sông, những vũng máu đen đặc, tanh nồng. Vũ khí địch bỏ lại tất cả là 57 khẩu đủ loại.

Dưới nước, tầu của ḿnh ủi băi. Nước vẫn lên xuống điều ḥa. Lâu lâu từ dưới đáy sông lại trồi lên một xác.

Tầu ḿnh ghé lại lật xác lên nhận diện. Bạn th́ vớt lên, lấy mền đắp lại.

Địch th́ đẩy ra cho trôi theo gịng nước.

Mấy ngày sau, xác Bảo mới nổi lên. Trước khi nổi có một đám bọt xủi, rồi một cánh tay nhô lên trước. Tay phải. Bàn tay c̣n cầm cái bút nguyên tử mầu vàng…


Bây giờ sau hơn 30 năm đă qua, tôi chẳng c̣n nhớ được kỹ. Chỉ biết chắc là Trung Sĩ Thinh từ nhà xác về, đem theo các thẻ bài là tôi kư giấy khai tử cho các người chết, kèm theo các thủ tục xin quan tài kẽm và lệnh di chuyển cho các quân nhân tháp tùng.


https://www.youtube.com/watch?v=QKspueKpE7w




* * * * *


Một buổi trưa ngày nghỉ, tôi trực nhật, ngồi từ trên lầu pḥng ngủ sĩ quan, nh́n qua bên kia Cù Lao Rồng. những mái nhà xen giưă mấy lùm cây. Trẻ con nô đuà dưới mé nước.

Lấy ông nḥm nh́n kỹ vào phiá trong, có những ông già ngồi trước hiên nhà đang lặng lẽ uống rượu. Đàn vịt, đàn gà chạy loanh quanh. Mấy bà già và các cô gái đun nấu gần đó. Cảnh trí êm ả, thanh b́nh.

Nhưng tôi nghĩ :

- ” Rất có thể các ông già kia là các mật báo viên cuả phiá bên kia. Địch lăn lộn, trà trộn với dân thật là xảo quyệt.


Tôi đảo ống nḥm về phiá cầu tầu.

Một đoàn chiến đĩnh nằm như ngủ. Riêng chiếc Tiền Phong đĩnh HQ 6001, tầu cũ cuả Đức Râu, có mấy người lính đi lại. Tôi theo dơi, và tôi thấy họ xếp một điă đồ nhậu ra sàn tầu, một thùng bia Quân Tiếp Vụ. Tôi nghĩ :

- ” Lại nhậu cho đỡ buồn đây…” Nhưng không phải thế. Mấy nhân viên ăn mặc đàng hoàng, ngồi sau các thứ họ vưà bầy ra, rồi bật diêm, đốt nhang, cắm vào một ly gạo. họ đang làm lễ, và tôi chợt nhớ, hôm nay 49 ngày cuả Đức Râu rồi đây. Tôi muốn xuống với họ, xong tôi nghĩ :

- ” Thôi để họ tự nhiên.”






Cũng xung quanh thời gian ấy,
một hôm cụ bà, thân mẫu của anh Hoàng Hiền t́m tới đơn vị để nhận lại các di vật của con. Cụ muốn lên căn pḥng cũ, nơi HQ Thiếu Úy Hoàng Hiền đă ở.

- ” Dạ, đây là giường nằm của anh ấy.”

Cụ ngồi xuống mé giường, lặng lẽ. Cụ x̣e bàn tay gầy vuốt lên mặt nệm. Đôi Lúc bàn tay cụ dừng lại như lắng nghe, như t́m chút hơi ấm nào của con c̣n sót lại. Cụ ngồi khá lâu rồi đứng lên. Cụ nói :

- ” Nhà tôi cũng bị chết v́ Việt Cộng, giờ lại đến nó…”

Cụ nói êm ả điều ḥa như chuyện của ai. Mảnh sân đơn vị nắng bỏng. Cụ bước đi thong thả. Trên đầu cụ cuốn một mảnh khăn trắng dài, phủ xuống sau lưng. Bóng cụ đổ trên nền sân, cụ nắm chặt cây kiếm Hải Quân của cậu con trai trong ḷng bàn tay nhăn nheo của cụ.






Bây giờ, đă cuối năm 1998, đọc cuốn Vietnam, the Decisive Battles, ( Những Trận Chiến Quyết Định tại Việt Nam), Tác giả, ông John Pimlott, có nói đến trận Ba Rài.

Tôi đọc kỹ, đây là một trận đánh khác, nhưng cũng xảy ra tại nơi trên, nhưng thời gian trận sau diễn ra vào ngày 15 tháng 9 năm 1967, trước hai tuần lễ đầy hai năm sau trận mà hai Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong đă chạm địch.

Trong trận sau, các chiến đĩnh của Hoa Kỳ, loại mới, tối tân hơn (ATC), đă đụng với Tiểu Đoàn 263 D của Việt Cộng.

Phải chăng đơn vị này của địch đă đụng với Hải Quân Việt Nam trước đó.
Trận sau , dù địch có yếu tố t́nh cờ và địa thế đă chọn sẵn, địch cũng đă để lại 79 xác chết.


https://www.youtube.com/watch?v=Bl3FwXrA2z8

hoathienly19 01-06-2025 07:12




ĐỐI PHƯƠNG ĐĂ NÓI G̀ VỀ TRẬN BA RÀI ?


Trong tập tài liệu lưu hành nội bộ nhan đề :

- “ Những Trận Đánh của Lực Lượng Vơ Trang Đồng Bằng Sông Cửu Long”,
do nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, năm 1997, trận Ba Rài đă được viết lại tỉ mỉ, và chiếm một số lượng trang từ 104 đến 126, người viết đề tên Trung Tá Nguyễn Thanh Sơn.

Đây là một bài viết công phu, từ những nhận định địa h́nh, thời tiết, t́nh h́nh lực lượng hai bên, t́nh h́nh dân chúng, những giả thuyết trận liệt, rồi diễn tiến trận đánh và cuối cùng là kết quả và ư nghĩa của trận này.

Từ đó ta biết rằng đơn vị đối đầu với ta tại Ba Rài ngày 29 rạng 30 tháng 9 năm 1965, là tiểu đoàn 261.

Tiểu Đoàn này đă được trang bị vũ khí nặng.

Riêng "Đại Đội Bộ Binh 1" của Việt cộng, có nhiệm vụ "chận đánh tầu địch trên sông Ba Rài", có :

- 3 khẩu DKZ 57 ly , 2 khẩu 12ly 7, và ba khẩu B 40.


Trận đánh đă diễn ra ác liệt, phù hợp với những ghi nhận của phía HQVN ta.


Súng thượng liên 12 ly 7 và súng DKZ 75







Có điểm kết quả trận đánh th́ chúng khoác lác rất lạ , Việt Cộng viết nơi trang 119 rằng :

- " Sau một ngày chiến đấu, ta đă tiêu diệt 500 tên địch.

- Bắn cháy và ch́m tại chỗ 5 tầu chiến (có một tầu đầu hàng).

- Thu một cối 81 ly

- 1 súng 12,7 ly

- 2 đại liên

- 8 cac bin

- 1 máy vô tuyến điện và nhiều quân trang quân dụng khác.

Phá hủy một DKZ 5 ly,1 súng 12,7 ly. Bắn rơi 5 máy bay.

Ta hy sinh :


- 18 đồng chí (có 3 cán bộ trung đội).

Bị thương :


- 32 đồng chí.

Bị phá hỏng :

-1 B 40 và 4 súng tiểu liên".


Thưa anh Nguyễn Thanh Sơn, không biết anh đă căn cứ vào đâu để có kết quả như trên ?

Nếu có th́ giờ, anh hăy lục lại loạt bài nhan đề :

” Đoàn Tầu Đi Vào Cơi Chết Để T́m Ra Lối Sống”, đăng liên tục nhiều ngày khoảng đầu tháng mười năm 1965, trên nhật báo Tiền Tuyến, Sài G̣n, người viết đă ghi lại đầy đủ chi tiết về phía Quân Lực Việt Nam.

Có đầy đủ các thiệt hại, và tên tuổi của người đă nằm xuống trong trận này.

Đó là một trận đánh quả có gây xúc động tới các giới chức cao cấp của chúng tôi, v́ trận này sĩ quan Hải Quân chết nhiều nhất :

- Hai người là Trần Ngọc Bảo và Hoàng Hiền.

Phía Mỹ, Đại Úy Davis, vị tân cố vấn vừa đáo nhậm, đây cũng là lần đầu tiên các anh đă xử dụng B 40 đánh phá đoàn tầu.

Một loại vũ khí mới và rất công hiệu.





Và chúng tôi rất tiếc, “Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực” , Trung Sĩ I Lê Phước Đức, người mà phía các anh đă khiếp hăi, đă treo giải” ai giết được Đức Râu th́ sẽ được trọng thưởng...”.

Đó là nỗi đau đớn, thiệt hại của chúng tôi.

Quả các anh có bắn cháy và ch́m 1 chiếc tầu, trên có Bảo, bạn tôi chỉ huy.

Tầu ch́m, rồi chúng tôi lại vớt lên, kéo về.







Một chiếc khác bị thiệt hại nặng, trên đó có Giang điều động.

Chiếc tầu đó có thủng, không chạy được, nhưng đă không ch́m.

Phía các anh đă nhiều phen vừa hô “xung phong” vừa ào lên định cướp tầu. Mỗi lần như thế, lại một lần phía các anh gục xuống.







Chỉ riêng với chiếc tầu này, khách quan mà nói, con số 20 người chết về phía các anh, có lẽ là con số quá nhỏ. Làm ǵ có chiếc tầu nào hàng các anh đâu ?

Trong khi đó, như bài viết ở trang 113 , các anh đă phải đối đầu với :

- " 7 tiểu đoàn bộ binh, 8 khẩu 105 và 155 ly trực tiếp chi viện.

Trên sông có 12 chiếc tầu chiến.

Ngoài ra c̣n có phi cơ các loại tập trung chi viện cho cuộc hành quân càn quét này".

Thưa anh Sơn, có thể các anh đă ước định sai số quân bên phía chúng tôi.

Xin hăy giả thử chỉ một nửa quân số nói trên, họ lại là một loại binh chủng mà các anh kêu là “ác ôn, lính thủy đánh bộ,” họ đâu có phải là hàng chuối ở vườn, đứng im cho các anh tới hạ.

Nếu quả các anh có một may mắn nào đó, tiêu diệt được độ một trăm người, tôi nghĩ cũng đă là oanh liệt lắm.

Chiến công ấy do ai chỉ huy, ai là những ” xạ thủ ngoan cường” của các anh, sao không thấy các anh nhắc đến ?

Những luận cứ vu vơ đó chỉ làm cho tập tài liệu của các anh trở thành một tṛ cười, không c̣n một chút khả tín nào nưă.







Chỉ có “18 đồng chí hy sinh,” vậy th́ 57 khẩu súng đủ loại bỏ rải rác hai bên bờ sông Ba Rài là của ai.

Các vũng náu đen đặc, và những xác chết nổi lên không đếm được trên sông Ba rài, các xác đều mắc quần áo Kaki Nam Định, là xác chết nào hở anh Sơn ???






Thưa anh Sơn,

Khi cuộc chiến c̣n đang tiếp diễn, các anh cần thổi phồng chiến công để tuyên truyền, chúng tôi đọc đến nỗi phải ph́ cười nhưng vẫn c̣n thông cảm được.

Nay cuộc chiến đă tàn. Cả khối Cộng Sản đă vỡ. Các anh đă phải mở cửa để long trọng đón kẻ thù cũ là ” Đế Quốc Mỹ” vào như một thượng khách.

Sự thực về cuộc chiến đă được từ từ phơi bầy.


https://www.youtube.com/watch?v=eeLpTRS1iiY



Lẽ ra đây là lúc các anh phải thật khách quan, t́m hiểu, đối chiếu tường tận để trả sự thật cho sự thật. Đó mới là thái độ trí thức của người viết sử. Anh đă không làm thế. Các anh đă không làm thế.

Riêng anh, anh Sơn, anh viết bừa băi, cẩu thả, đă đành.

Trên anh c̣n có ông Phó Tiến Sĩ Phạm Gia Đức , người chịu trách nhiệm xuất bản.

Ông Đức có lẽ đă không thèm nh́n lại bài viết của anh. Hoặc có đọc mà không có khả năng suy xét, nhận thức. Phải chăng ông ta là một ông tiến sĩ giấy ?

Học vị càng cao chỉ càng làm cho tṛ cười thêm lớn.





Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, chính sự ngộ nghĩnh nghịch lư nói trên đă giúp phía chúng tôi ít phải mất th́ giờ so sánh, biện bạch.

Và bên cạnh đó, anh Sơn c̣n dẫn một câu (mà không nêu rơ danh tánh) rằng :

- ” Trận đánh này chỉ huy tiểu đoàn bộ binh 261 đă xác định lực lượng nguy hiểm trực tiếp trước mắt là đoàn tầu chiến trên sông Ba Rài” (trang 123). Thế là đủ.







Tôi xin dừng ở đây nghe anh Sơn.

Trước khi bài này được in và chuyển ngữ, chúng tôi sẵn sàng đón nhận ư kiến từ mọi phía, kể cả tác giả bài viết của nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.





***************

hoathienly19 01-09-2025 22:45



ÔI NHỮNG ANH LINH BÊN D̉NG SÔNG CŨ



Bây giờ, tính từ năm 1967 đến nay, đă trên 30 năm. Cuộc chiến cũ đă nhạt nḥa. Người chiến binh Mỹ đă trở lại Việt Nam du lịch. Những con thuyền gỗ có mái che, chở các du khách lướt trên mặt nước đục ngầu Cửu Long Giang được in trên các báo Mỹ.

Và tôi chắc, từ hải ngoại, có lẽ đă không thiếu bà con, bằng hữu chúng ta trở lại thăm thân nhân, chốn cũ.

Có ai đă tới Mỹ Tho không ?

Trước khi đến Mỹ Tho, từ Sài G̣n đi xuống bằng Quốc Lộ 4, chúng ta gặp tỉnh lộ 29 xuôi Nam.

Qua Mỹ Hạnh Trung, vào Tỉnh Lộ 20, tới Long Điền, rẽ trái vào Tỉnh Lộ 12 ta sẽ đi qua một vùng đau khổ cũ.

Phía mặt là Cẩm Sơn, phía Nam là Hiệp Đức, Xuân Sơn, ta sẽ gặp con rạch Ba Rài ở giữa đoạn đường này, tính từ Long Điền đến An Phú.

Nơi đây vườn cây xanh tốt. Mận ở vùng này nổi tiếng ḍn, đỏ au như xác pháo hồng mùa Xuân.



https://www.youtube.com/watch?v=X6xK7ImDYxw



Con rạch Ba Rài ấy có các con thuyền đi lại. Các cô thiếu nữ má hồng trong áo bà ba tươi mát, quần Mỹ A óng ả. Dưới sông trẻ nhỏ bơi tắm nô đùa.

Các cô gái và trẻ em này được sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến đă tàn.

Họ có biết đâu rằng, dưới ḷng con rạch này,chắc c̣n có những nắm xương nằm từ bao năm cũ.


Và hàng cây bên sông, cây già trăm tuổi, có c̣n nhớ một thời khói lửa đă bùng lên, và nếu ai tỉ mỉ, xem lại các thân cây, những vết đạn cũ, chắc có những đầu đạn sản xuất made in USA, và có cả những đầu đạn từ Nga Sô, Trung Cộng đem lại.


https://www.youtube.com/watch?v=28fGCF_zsGY



Những người trai của cả hai bên trận tuyến, có khi là anh em một nhà, bạn bè một quận… đă phải ào ạt giết nhau.

Những linh hồn oan khuất chắc c̣n lẩn khuất bên các gốc cây xưa.

Ôi những anh linh kẻ Nam Người Bắc

Chết là oan cho một cuộc tương tàn

Là quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, chúng ta đă làm tṛn xứ mạng được trao cho.

Thời cuộc đă gọi, ta nhập cuộc. Chúng ta đă anh dũng hành động. Bạn bè ta đă anh dũng hy sinh. Các bạn đích thực là những kẻ anh hùng.


Tôi ao ước có một ngày về thăm chốn cũ. Tôi sẽ ngồi bên bờ con rạch Ba Rài, dưới bóng mát của các cây ăn trái, tôi sẽ cầu nguyện, sẽ đọc một thời kinh Giải Oan cho những người năm xuống tại nơi này.

Hỡi Nguyễn Ngọc Bảo, hỡi Hoàng Hiền, hỡi Lê Phước Đức, tức Đức Râu, và bao nhiêu người nữa. Tôi ngưỡng mộ các anh. Xin các anh hăy lắng ḷng nghe kinh mà siêu thoát. Tổ Quốc ghi công các bạn.

Phan Lạc Tiếp

* Bài viết này được cô đọng qua các cuộc phỏng vấn bằng thư, bằng điện thoại giữa người viết và anh Nguyễn Ngọc Giang, Đặng Diệm, trong phần có dấu ngoặc kép” ” là nguyên văn lời các anh ấy phát biểu.

( Forumpost: Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực Hải Quân VNCH )




**************

hoathienly19 01-10-2025 11:16



HOÀNG SA PHIM TÀI LIỆU HẢI CHIẾN VNCH



https://www.youtube.com/watch?v=81SLD7X9QTo







******************

hoathienly19 01-15-2025 11:13



ĐẶC TÍNH CHIẾN HẠM THAM DỰ HẢI CHIẾN HOÀNG SA, HQ 10, HQ 4, HQ 5, HQ 16



1.- KHU TRỤC HẠM TRẦN KHÁNH DƯ – HQ 4


– Kích thước :


- Dài 93,3 m (306 ft) / ngang 11,2 m (36,6 ft) / tầm nước 4,3 m (14 ft)

– Trọng tải :


- 1590 tấn (tiêu chuẩn), 1850 tấn (tối đa) dựa theo Jane’s fighting ships 1974-1975.

Dựa theo www.navsource.org 1200 tấn (tiêu chuẩn), 1590 tấn (tối đa)

– Máy chánh :


- 2 máy dầu cặn Fairbanks-Morse, công suất 6000 mă lực / 2 trục chân vịt, hầm nhiên liệu chứa đến 310 tấn dầu cặn

– Máy phát điện :


- Công suất 580 kw

– Vận tốc :


- Tối đa 21 knots.

• Với vận tốc 12 knots, tầm hoạt động 9100 hải lư (theo www.navsource.org)

– Vũ khí :


• 2 khẩu đại bác 76,2 ly tự động (pháo tháp ở phía trước và lộ thiên ở phía sau)

• đại bác 20 ly (không rơ số lượng)

• 2 khẩu đại liên 50 (tả và hữu)

• 1 khẩu súng cối 81 ly (theo Combat fleets of the world 1980/1981)

• 6 ống phóng thủy lôi Mk-32 đường kính 0,324 m

• 1 dàn phóng thủy lựu đạn Hedgehog (theo Jane’s 1974-1975 và Combat fleets of the world 1980/1981)

– Thủy thủ đoàn :
170





2.- TUẦN DƯƠNG HẠM TRẦN B̀NH TRỌNG-HQ 5 và TUẦN DƯƠNG HẠM LƯ THƯỜNG KIỆT-HQ 16



– Kích thước :


- Dài 94,8 m (310 ft 9) / ngang12,5 m (41 ft) / tầm nước 4 m (13ft 18) [1]

– Trọng tải :


- Tối đa 2529 tấn [1] (tối thiểu 1766 tấn, tối đa 2800 tấn theo Jane’s 74-75)

– Máy chánh :


- 2 máy Fairbanks-Morse, công suất 6400 mă lực [1], 2 trục chân vịt.

– Khả năng :


- Tốc độ tối đa 18,2 knots tầm hoạt động 8000 hải lư. [1]

- Tốc độ tiết kiệm 10 knots tầm hoạt động 18050 hải lư. [1]

– Radar :


SPS-51, SPS-29/Sonar SQS-1 [1]

[1] dựa theo tài liệu chính thức của Lực lượng Tuần Duyên Hoa Kỳ trong năm 1966.

Phần trang bị vũ khí dựa theo HQ Trung Úy Trương Văn Liêm K.1 OCS, phục vụ trên HQ 5 khi xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa.

– Vũ khí :

• 1 khẩu đại bác 127 ly sân trước mũi

• 1 khẩu đại bác 40 ly đôi phía trước boong trên

• 2 khẩu đại bác 20 ly (tả, hữu) ngang pḥng lái

• 2 khẩu đại liên 50 (tả, hữu) boong trên

• 2 khẩu đại bác 40 ly đơn (tả, hữu) phía sân sau.

Khi bàn giao cho Hải quân VNCH, dàn phóng chống tàu ngầm Hedgehog (Mk10 Mod 1) và 2 dàn ống phóng thủy lôi (Mk38 Mod 5) đă bị tháo gỡ , c̣n lại 1 khẩu đại bác 127 ly và đại liên 50.

Sau khi tiếp nhận HQVN đă thiết trí thêm đại bác 40 ly và đại bác 20 ly.

– Thủy thủ đoàn :


- Khoảng 200 người.








3.-HỘ TỐNG HẠM NHỰT TẢO- HQ 10


– Trọng tải :


- 650 tấn (tiêu chuẩn) / 945 tấn (tối đa).

– Kích thước :


- Dài 56,2 m (184,5 ft) / ngang 10 m (33 ft) / tầm nước 3 m (9,75 ft).

– Máy chánh :


- 2 máy dầu cặn (Cooper Bessemer), 2 trục chân vịt, 1710 mă lực.

- Vũ khí :


• 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm xa tối đa 14000 yds, tầm hữu hiệu 7500 tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút.

• 2 khẩu đại bác 40 ly (tả và hữu) phía sân sau có tầm xa tối đa 11000 yds, tầm hữu hiệu 4000 yds, tác xạ với tốc độ 140 phát/phút.

• 2 đại bác 20 ly đôi 2 phía sau pḥng lái, tầm xa tối đa 4,800 yds, tầm hữu hiệu 2,000 yds, tác xạ với tốc độ 450 phát/phút.

• 2 khẩu đại liên 30

• súng cối 81 ly (không rơ số lượng)

(dựa trên tài liệu Vietnamese Navy Fleet Command Ships của Cố vấn HQ/HK)

• Vũ khí chống tàu ngầm :


Với nhiệm vụ tuần tiễu và hộ tống các dụng cụ rà ḿn đă được tháo gỡ và thay vào đó là 2 dàn thủy l lựu đạn (depth charge rack) được thiết trí ở phía sau lái, ngoài ra c̣n có 1 dàn phóng thủy lựu đạn (hedgehog) ở phía sân trước.

– Vận tốc :


- Tối đa 14,5 knots.

Với vận tốc tiết kiệm là 8 knots tầm hoạt động 6,500 miles

– Thủy thủ đoàn :
83








http://themsonha.blogspot.com/2025/0...hai-chien.html


****************

hoathienly19 03-01-2025 19:53

"CÙ LẦN BIỂN " - " BUỒN VUI CHUYỆN CŨ "
 



"CÙ LẦN BIỂN" - "BUỒN VUI CHUYỆN CŨ"






[b]

"Khoảng đầu năm 1973
[/]bkhi tôi phục vụ ở Căn Cứ Hải Quân / Mỹ Tho ( CCHQ/MT) , một hôm có người Bạn học cũ là Sĩ Quan Liên Lạc T́nh Báo (SQ / LLTB) với HK ( NILO ) vào báo cho tôi tin là :

- " VC định đánh đắm 1 chiến hạm của ta ở cầu tàu CCHQ/MT " .


Tin đúng vào lúc chiếc Y Tế Hạm HQ 400 ( hay HQ 401) vừa xong công tác dân sự vụ ở thượng nguồn sông Tiền ( Tân Châu , Hồng Ngự ... ) .

Trên đường trở về Sài G̣n đă ghé Mỹ Tho , có lẽ để cho nhân viên xả hơi và đi chợ mua thực phẩm tươi .

Tôi yêu cầu người Bạn gửi cho 1 công điện chính thức , đồng thời lên tŕnh ngay cho Chỉ Huy Trưởng CHT sự việc , tôi xin tăng cường việc ném lựu đạn và gửi công điện báo cho chiếc Y Tế Hạm cùng 2 đơn vị Bạn đồn trú trong CCHQ/MT là :

- Giang Đoàn 56 Tuần Thám ( GĐ56TT) ( Bạn M làm CHP )

- Giang Đoàn 42 Ngăn Chận ( GĐ42NC ) ( Bạn N.T.V là CHP ) .

B́nh thường mỗi hôm chúng tôi chỉ xử dụng 10 ( 15 ) trái thuỷ lựu đạn MK3A2 ném không theo giờ giấc nhất định .

Hôm đó số lựu đạn được tăng gấp đôi .

Tin t́nh báo của người Bạn NILO thật chính xác .


Hai tên đặc công thuỷ của VC định đánh đắm chiếc Y Tế Hạm v́ bị lựu đạn ném nhiều hơn thường lệ nên chưa dám mạo hiểm mà chỉ thả giữa gịng chờ khi thuận tiện .

Xin được nói sơ về Đặc Công Thuỷ (ĐCT) của VC
.

- Chúng không có nhiều phương tiện như Người Nhái của ta .

Để chống lạnh ,
chúng chỉ dùng mở ḅ trộn lọ nghẹ thoa khắp châu thân và uống thêm ít nước mắm .

- Để thở , chúng không có b́nh dưỡng khí , nên dùng 1 ống cao su để ló trên mặt nước khoảng 1 tấc nhờ xuyên qua 1 vật nổi như chiếc dép cao su .

- Chất nổ th́ chúng cột vào bộp dừa nước chế biến sao chỉ lơ lững dưới nước nhưng không ch́m lĩm .

Với những phương tiện đơn sơ như thế nhửng tên đặc công thuỷ VC có thể lặn hàng giờ dưới nước .





Không may cho 2 tên đặc công thuỷ này
, đang ở giữa gịng th́ 1 tàu tuần của Giang Cảnh chạy ngang .

Thường th́ dù nước lớn hay ṛng , các vật nổi trên mặt nước ( như lục b́nh …) cũng phải trôi xuôi gịng , nhưng chiếc dép cao su có ống thở của 2 tên ĐCT th́ lại ngược gịng .

Thấy việc bất thường nhân viên chiếc Giang Cảnh liền ném xuống 1 , 2 trái lựu đạn chống người nhái làm 1 tên ĐCT chết ngay , 1 tên khác bị thương nặng cố bơi vào bờ .

Có lẻ v́ hoảng hốt thay v́ lặn trở về nơi xuất phát là Cù Lao Rồng , tên này lại bơi vô nghịch hướng và bị bắt ở bờ sông thuộc Công Viên Lạc Hồng .

Hắn được đưa vào Bệnh Viện 3 Dả Chiến để chửa trị , nhưng v́ lục phủ , ngũ tạng bị chấn động quá mạnh nên đă chết trước khi được Nhân Viên T́nh Báo Bạn khai thác .







Tiểu Khu Định Tường thông báo cho chúng tôi tin tức và chúng tôi cũng báo ngay cho các Đơn Vị Bạn .

Chiếc Y Tế Hạm HQ 400 được tin lập tức tách cầu tàu CCHQ/MT chạy một mạch về Sài G̣n .






Không biết họ đă báo cáo thế nào mà Giới chức Cao Cấp ở Bộ Tư Lệnh / Hải Quân ( BTL/HQ) và Bộ Tư Lệnh / Hạm Đội ( BTL/HĐ ) đă khen thưởng và tặng cho chiến hạm này một số tiền khá lớn , trong khi kẻ thực sự có công trong việc này là viên SQ/LLTB đă cung cấp tin chính xác và chiếc Giang Cảnh đă hạ 2 tên Đặc Công Thuỷ VC .

Phương cách làm việc của một số giới chức cao cấp của HQ thật kỳ lạ và điều này lại tái diển sau trận hải chiến Hoàng Sa 19.01.1974 mà tôi sẽ kể ở phần sau."


http://moussaillon17.blogspot.com/


****************

anhhaila 03-05-2025 16:36

HÀNH QUÂN LAM SƠN 719 HẠ LÀO và ĐẠI ĐỘI 5/TĐ2/TQLC.


MX Phạm Văn Tiền


Lời tác giả:

Từ lâu đă có quá nhiều bài viết về cuộc hành quân Lam-sơn 719 tại Hạ Lào. Có nhiều người quá lạc quan cho rằng QLVNCH đă chiến thắng lớn trong cuộc hành quân nầy v́ quân ta đă phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng ṃn Hồ chí minh tại cứ điểm Tchépone. Lại có vài bài viết khác lại nói rằng đây là cuộc hành quân thảm bại nhất, hao tốn nhiều xương máu của anh em binh sĩ mà chẳng có kết quả cụ thể nào. Bao nhiêu quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch. Điều tai hại nhất là làm suy sụp nghiêm trọng đến tinh thần chiến đấu của nguời lính QLVNCH, v́ chẳng có đơn vị nào c̣n nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn, hấp tấp vô cùng mất trật tự chưa từng xảy ra trong quân sử của bất cứ quân đội thiện chiến nào. H́nh ảnh oai hùng của người lính lâm trận cùng đủ loại yểm trợ và các vũ khí vô cùng tối tân đă bị phai nhạt khi người lính trở về trong thất vọng, mất mát, thiểu năo như vừa thoát về từ địa ngục trần gian. Với bản thân ḿnh là Đại úy Đại đội trưởng của một đơn vị tổng trừ bị tham dự trong cuộc hành quân nầy. Tôi xin ghi lại một cách trung thực những ǵ tôi biết, tôi nghe, tôi thấy trong khả năng hiểu biết của ḿnh .Tôi muốn nói lên sự thực, một sự thật vô cùng khổ đau mà người lính QLVNCH phải đương đầu với tất cả sức lực c̣n lại của ḿnh để tồn tại trong cái chết là điều chắc chắn.

Vừa măn khóa 4/70 Đại đội trưởng tại trường Bộ Binh Thủ Đức, hết phép cũng là lúc tiểu đoàn đang nghỉ dưỡng quân sau cuôc hành quân dài 3 tháng tại Đức Dục - Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm đơn vị được ăn Tết tại hậu cứ. Lệnh chuẩn bị hành quân được ban ra trong lúc đa số các anh em binh sĩ c̣n trể phép chưa về tŕnh diện đầy đủ. Tiểu đoàn cấm trại 100% và lệnh cho các ĐĐT bằng mọi cách, gom con cái của ḿnh lại càng nhanh càng tốt. Một số lớn binh sĩ ở trại gia binh được gọi vào để trang bị vũ khí đạn dượt sẵn sàng cho môt cuộc hành quân xa. Đại đội tôi cố gắng lắm cũng đử gần được 100 anh em, số c̣n lại sẽ được chuyển ra trong chuyến liên lạc gần nhất. Đoàn GMC của đại đội vận tải sư đoàn mang chúng tôi từ hậu cứ Tam Hà - Thủ Đức đến phi trường quân sự Biên Ḥa, để từ đây không vận bằng C130 ra Huế. Đến phi trường Phú Bài vào lúc nhá nhem tối, v́ là đơn vị di chuyển sau cùng của tiểu đoàn nên chúng tôi được lệnh đóng quân qua đêm tại công viên bên bờ sông Hương, trước mặt cửa Thượng Tứ; để rồi sáng sớm ngày hôm sau sẽ vào vùng hành quân. Xe qua An Lỗ, cầu Phổ Trạch quận Phong Điền nơi vết tích của cuộc phản kích tuyệt vời thuộc đơn vị tôi vào sáng ngày 29/6/1966. Vị tiểu đoàn trưỡng đă anh dũng hy sinh cùng hàng chục người khác. Rồi Mỹ Chánh, Quảng Trị, Ái Tử, Đông Hà...một thị trấn nhỏ bé nằm cực Bắc đất nước nơi tuyến đầu lửa đạn, vẫn c̣n đây với bao kỷ niệm ôm ấp từ những ngày mới ra trường, thành phố của đủ mọi sắc lính vẫn đi và về trong hối hả vội vàng. Qua Cam Lộ bắt đầu rẽ trái về quốc lộ 9 đường đi Savanakhet Hạ Lào để từ đây vào thẳng vùng đồi núi Khe Sanh, nơi đặt trung tâm hành quân của Quân Đoàn I cho cuộc hành quân sắp tới.


Khe Sanh là một cái tên khá quen thuộc, một vùng đất mầu mỡ nhiều đồn điền càfé thời Pháp thuộc nay đă biến thành một cứ điểm chiến lược vô cùng quan trọng trong cuộc chiến tranh nầy, nơi nổi danh với nhiều trận đánh lẫy lừng đẫm máu nhất giữa quân CSBV và lực lượng đồng minh Hoa Kỳ vào cuối năm 1967 và những tháng đầu năm 1968. Lực lượng địch đă vây hăm Khe Sanh trong ṿng 77 ngày với ư đồ biến nơi đây thành mồ chôn quân Mỹ của một Điện Biên Phủ thứ 2, nhưng rồi đă bị thảm bại tan tác dưới các cơn mưa bom đạn của một quân lực hùng mạnh nhất thế giới, trung b́nh mỗi ngày hơn 45 phi vụ B52 và 300 phi vụ oanh tạc khác yểm trợ chiến thuật. Số bom đạn được ném xuống ở đây c̣n nhiều hơn tổng số mà quân đồng minh đă xử dụng trong trận đại chiến thế giới lần 2 khi đánh bại Đức Quốc Xă.


Lần nầy để yểm trợ cho cuộc hành quân sang lănh thổ bạn, quân lực Hoa Kỳ chịu trách nhiệm khai quang các trục lộ và bảo đảm an ninh từ 2 tháng trước từ Đông Hà đến tận miền biên giới Việt Lào, đường xá và một số cầu cống được tu sửa lại thật hoàn chỉnh, phi trường quân sự Khe Sanh bị hoang phế nhiều năm nay cũng được tu bổ lại sẵn sàng cho các vận tải cơ đáp xuống tiếp tế tản thương theo nhu cầu chiến trường; một số bệnh xá dă chiến cũng được thiết lập để có thể chữa trị thương binh tại chổ. Đây là cuộc hành quân được chuẩn bị một cách khẩn trương, nhộn nhịp đại quy mô gồm nhiều đơn vị tham dự mà chẳng có yếu tố bảo mật chút nào. Xe cộ lui tới thường xuyên, tiếng rú của động cơ máy bay cùng các xe ủi đất vang rền lên xuống ngày đêm, có lẽ từ ngày khởi sự chiến tranh ở miền Nam cho đến lúc nầy chưa có cuộc hành quân nào được chuẩn bị ồn ào như vậy. Các lực lượng tham chiến gồm các trung đoàn của sư đoàn 1BB, các lữ đoàn của sư đoàn Nhảy Dù và TQLC, liên đoàn I/BĐQ và lữ đoàn I/Thiết Giáp. Ngoài các thành phần tham dự kể trên c̣n có các cố vấn Hoa Kỳ bên cạnh các đơn vị, các sĩ quan đại diện Không lực Mỹ về không trợ và không vận.


Kể từ năm 1970, sau kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu giảm bớt quân số tại chiến trường Việt Nam, không c̣n những cuộc hành quân của lực lượng tác chiến mà chỉ xử dụng không quân yểm trợ phối hợp cùng không quân của QLVNCH. Hệ thống cố vấn Mỹ tại các đơn vị tác chiến cũng từ đó giảm bớt và đặc biệt họ không c̣n phải tháp tùng trên bộ cùng chúng ta trong các cuộc hành quân ngoại biên. Sư Đoàn TQLC-VN tham dự cuộc hành quân Lam sơn 719 nầy gồm toàn bộ 3 lữ đoàn. Với nhiệm vụ trừ bị cho quân đoàn I, chỉ nhảy vào vùng chiến ở những giai đoạn quyết định mà thôi. Giai đoạn đầu của cuộc hành quân là dùng trực thăng đổ quân xuống các cao điểm Bắc và Nam quốc lộ 9, giới hạn bởi Bản Đông nằm giữa trục tấn công từ biên giới đến Tchépone, thiết lập các căn cứ hoả lực, yểm trợ cho các cuộc hành quân phân tán lục soát trong tương lai. Xử dụng tối đa không trợ, đặc biệt các pháo đài B52 cầy nát mục tiêu trước khi dùng bộ binh đổ xuống Tchépone.

Cuộc hành quân chính thức bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày 8, tháng 2 năm 1971 qua lời tuyên bố của TT Nguyễn văn Thiệu trên đài phát thanh Sàig̣n: " Cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian và không gian với mục tiêu duy nhất là phá vỡ hệ thống tiếp liệu và xâm nhập của CSBV trên phần đất Ai-Lao mà chúng chiếm đóng và xử dụng trong nhiều năm nay để tấn công vào QLVNCH. Ngoài ra QLVNCH không có tham vọng đất đai nào tại Ai-Lao v́ VNCH luôn luôn tôn trọng nền độc lập và sự an toàn lănh thổ của Vương Quốc Ai-Lao ". Lữ Đoàn I/ND gồm các tiểu đoàn 1 và 8 cùng Lữ Đoàn I/Thiết Giáp đi tiên phong tiến dọc quốc lộ 9 và hướng Bản Đông để thiết lập căn cứ A-Lưới. Đây là căn cứ lớn nhất của cuộc hành quân và cũng là nơi đặt bộ chỉ huy Lữ Đoàn I/ND. Trên mặt Bắc tiểu đoàn 2/ND và các pháo đội cơ hữu đến điểm cao 500m nằm cách quốc lộ 9 và biên giới Việt Lào hơn 8 Km để thiết lập căn cứ 30. Tiểu đoàn 3/ND cũng nhảy trực thăng vào cao điểm 456m lập căn cứ 31 và cũng là nơi đặt BCH Lữ đoàn 3/ND. Xa hơn nữa về mặt Bắc, Liên Đoàn 21/BĐQ gồm 2 tiểu đoàn 21 và 37 được trực thăng vận đến băi đáp Ranger South cách căn cứ hỏa lực 30 khoảng 5 km về phiá Tây Bắc. Ba ngày sau tiểu đoàn 39/BĐQ được nhảy vào căn cứ Ranger North. Hai căn cứ nầy được thiết lập với mục đích quan sát sự chuyển quân của CS đồng thời làm tŕ hoăn các cuộc tấn công địch vào trục tiến quân chính.Trung Đoàn 3/SĐI/BB cũng được nhảy vào vùng tận cùng phiá Nam tại căn cứ Blue và Hotel, trong khi đó Trung Đoàn I/SĐI/BB vào hoạt động xung quanh căn cứ Delta. Mục tiêu 604 tại thị trấn Tchépone đă bị ta oanh tạc thật khủng khiếp và nhờ vậy các cuộc đổ quân của ta vào vùng nầy được hoàn tất mà không gặp được sự kháng cự nào. Địch hầu như biết trước ư định của ta nên đă phân tán mỏng ra xa để tránh thiệt hại, để rồi liền sau đó tập trung nhiều Sư Đoàn thiện chiến nhất để tấn công ta.


Chiến dịch tổng phản công của địch được mở màn ngày 18/2 khi tăng cường áp lực bao vây và tấn công căn cứ Ranger North, trung đoàn 102 thuộc sư đoàn 308/CSBV đă áp đảo được căn cứ nầy. Thời tiết xấu và cường độ pḥng không quá mạnh của CS khiến không quân không thể can thiệp hữu hiệu, đến chiều 19/2 căn cứ Ranger North bị tràn ngập, vị tiểu đoàn trưởng Vũ Đ́nh Khang TĐ39/BĐQ đă bị bắt sống, bộ phận c̣n lại do tiểu đoàn phó chỉ huy di tản về Ranger South. Căn cứ Ranger North thất thủ, quân CS tiếp tục đánh chiếm căn cứ Ranger South, t́ểu đoàn 21/BĐQ chỉ đủ sức cầm cự được 2 ngày với sự thiệt hại thật nghiêm trọng, sau đó được trực thăng vận bốc về Phú Lộc qua chuyển tiếp căn cứ 30 của Nhảy Dù. Thừa thắng xông lên vào ngày 23/2 địch bắt đầu tấn công thăm ḍ căn cứ 31, để rồi sau đó tung toàn bộ chiến xa tiến chiếm căn cứ nầy. Đại tá Nguyễn Văn Thọ lữ đoàn trưởng cùng một số sĩ quan tham mưu đă bị bắt sống, trong đó có những cái chết thật hào hùng của Thiếu Tá Hiền Tham Mưu Trưởng và Đại Úy Đương pháo đội trưởng đă tự kết liễu đời ḿnh. Đúng 6 giờ 30 sáng ngày 25/2/71, căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào đă hoàn toàn lọt vào tay giặc. Ngày 26/2, CS dùng 2 trung đoàn thuộc SĐ304 tiếp tục tấn công căn cứ 30 cuối cùng căn cứ nầy cũng phải di tản chiến thuật và toàn thể các khẩu pháo cơ hữu của ta bị hư hại hoàn toàn.

Trong khi địch tấn công ồ ạt ở mặt Bắc, th́ tại khu vực Đông Nam các đơn vị của trung đoàn 3/BB cũng đă bị bao vây uy hiếp. Mặc dầu cũng đă được yểm trợ bởi không quân và pháo binh đầy đủ nhưng vẫn cầm cự không nổi, sau cùng cũng phải t́m nơi an toàn để được trực thăng bốc về Khe Sanh. Trước t́nh h́nh diễn biến ác liệt của chiến trường, hết đơn vị nầy đến đơn vị khác của ta chịu trận, không sao tiếp cứu lẫn nhau, dù đă có lần khi đồn 31 bị tấn công, SĐ Dù đă đổ bộ thêm vào trận địa một tiểu đoàn để tiếp sức nhưng không sao đáp xuống bải đáp được v́ hỏa lực vô cùng mănh liệt của địch.

Về phương diện thông tin báo chí, khi các phóng viên đă thổi phồng tin tức biến những cuộc lui binh cuả chúng ta thành thảm kịch trên chiến trường, điều tệ hại nhất là đài BBC đă phóng đại việc quân ta tiến vào Tchépone trong khi cuộc hành quân mới nửa đường tới mục tiêu; chính việc nầy đă gây một sự bất lợi thật quan trọng cho việc hành quân v́ địch quân đă nắm rỏ được ư định của ta nên đă sẵn sàng chuẩn bị nghênh chiến.


Sư đoàn I/BB với trung đoàn 2 c̣n lại bằng mọi gía phải đánh chiếm Tchépone; dù chỉ là một tiểu đoàn được trực thăng vận vào trận địa cũng được, sau khi hoàn tất hoạt động trong thời gian ngắn rồi sẻ rút ra ngay. Trung đoàn I. SĐI/BB được điều quân lên mặt Bắc phía Nam sông Tchépone để tiếp ứng. Địch đă đoán được ư định của ta nên đă bố trí các đơn vị ra xa vùng sát hại dưới những trận mưa bom khủng khiếp của ta. Ngày 6/3, 120 trực thăng chuyên chở hai tiểu đoàn 2 và 4 của trung đoàn 2/SĐI/BB từ Khe Sanh đến bải đáp HOPE, cách Tchépone khoảng 4 km về phía Bắc. Hoả lực khá nặng của CS chỉ bắn rơi một trực thăng trong cuộc trực thăng vận đại qui mô nầy, ngày hôm sau quân đội VNCH tiến vào Tchépone mà không gặp một sự kháng cự nào của địch. T́nh h́nh yên tỉnh cho tới khuya th́ pháo địch bắt đầu tập trung bắn phá và điều động cả sư đoàn dùng chiến thuật biển người tấn công ta, trực thăng ta chỉ đến bốc được vài toán đầu, sau đó đành phải bó tay trước hỏa lực pḥng không dầy đặc của địch, số c̣n lại phải mở đường máu di tản về hướng Nhảy Dù. Căn cứ Lolo tại cao điểm 723 nơi bộ chỉ huy trung đoàn I/BB cũng chịu chung số phận phải di tản sau 10 ngày đêm chiến đấu ṛng ră. Tiểu đoàn 4 trung đoàn I/SĐI/BB là đơn vị ở lại sau cùng để bảo vệ cuộc lui binh, lúc về đến Khe Sanh chỉ c̣n 63 người trong tổng số 432 người, tất cả đều bị tử trận, mất tích hay bị thương. Trung tá Lê Huấn, K18 Đà Lạt, người hùng của trung đoàn I/SĐI/BB đă anh dũng hy sinh trong cuộc lui binh nầy.

Măi cho đến giờ phút nầy cũng chưa có ai có thể giải thích một cách rơ ràng tại sao các nhà lănh đạo quân sự miền Nam đă ném quân sĩ thiện chiến của họ vào mặt trận Hạ Lào, một cuộc hành quân mạo hiểm có tính cách phô trương hơn là mang về một chiến thắng thật sự. Không cần bảo mật mà chẳng có kế hoạch phối hợp rơ ràng, hệ thống chỉ huy điều hành bị bối rối không được thống nhất. Các vị tư lệnh của 2 sư đoàn tổng trừ bị của quân lực VNCH là Trung Tướng Lê Nguyên Khang và Trung Tướng Dư Quốc Đống đă không hiện diện cùng binh sĩ tại mặt trận, mặc dầu đơn vị của họ là những nổ lực chính yếu của chiến trường. Sự thảm hại toàn bộ của các lực lượng tham chiến ở giai đoạn đầu th́ việc đổ thêm quân tiếp vào giai đoạn kế tiếp quả là một điều chẳng nên, chỉ làm hao tốn thêm xương máu của binh sĩ mà thôi. Điều quan trọng nhất là c̣n tinh thần đâu nữa mà chiến đấu. Sư đoàn TQLC cuối cùng rồi cũng phải nhảy vào ṿng chiến và cũng không sao tránh khỏi số phận "tan hàng" đang dành sẵn cho ḿnh. Vào trận với một tâm lư không ổn định chuyện thất bại là điều chắc chắn sẽ xảy ra, chúng tôi như những con thiêu thân đang lao ḿnh vào lửa đỏ.

Mọi chuyện bắt đầu vào những ngày đầu tháng 3 năm 1971. Lữ đoàn 147/TQLC do Đại Tá Hoàng Tích Thông chỉ huy gồm các tiểu đoàn 2, 4 và 7 được nhảy vào căn cứ Delta. Đây là một dăy đồi có thế h́nh yên ngựa ở độ cao 550m gồm 2 mỏn nhỏ, mặt Bắc đặt BCH/LĐ, c̣n phía Nam chỉ có khả năng đủ chổ cho một pháo đội hỗn hợp gồm 2 khẩu 155ly và 4 khẩu 105 ly thuộc tiểu đoàn 2/PB/TQLC. Mặt Tây là một triền dốc đá thẳng đứng dựng, c̣n phía Đông là những rẫy hoang cùng nhiều đường ṃn chi chít.

Lữ Đoàn 258/TQLC được trực thăng vận vào đỉnh KOROC, căn cứ Đông Hà nằm trên ranh giới Lào Việt từ Lao Bảo trải dài xuống phía Nam với các tiểu đoàn 1, 3 và 8 cùng pháo đội của tiểu đoàn 3/PB/TQLC. Nhưng mặt trận chính vẫn là xung quanh vùng hoạt động của Lữ Đoàn 147. Tiểu đoàn 4/TQLC được thả xuống và bung rộng về hướng Đông Bắc, tiểu đoàn 2/TQLC chịu trách nhiệm về mặt Tây Bắc, trong khi đó tiểu đoàn 7/TQLC bảo vệ pháo binh và BCH/LĐ. Đại úy Nguyễn Hoa khoá 20 Đàlạt, trưởng ban 3/TĐ7/TQLC đă bị tử thương cùng nhiều binh sĩ khác trong cuộc pháo kích đầu tiên vào căn cứ hỏa lực. Tiểu đoàn 2/TQLC có 4 ĐĐT th́ 2 đă bị thương loại khỏi ṿng chiến đấu trong tuần lễ ra quân đầu tiên . Trung úy Kiều Công Cự ĐĐT/ĐĐ4, Đ/u Nguyễn Kim Thân ĐĐT/ĐĐ2, Tr/úy Bùi Ngọc Dũng ĐĐP/ĐĐ2, cũng đă bị thương rất nặng cùng Th/úy Trần Văn Loan. Tất cả đă được tải thương kịp thời nhưng Dũng bị chết dọc đường và sau nầy được ghi nhận là mất tích. Tr/úy Nguyễn Dũng Trí ĐĐP/ĐĐ5 được lệnh sang làm ĐĐT/ĐĐ2. Như cục đường bỏ vào hang kiến lửa, địch cứ thế mà bu vào. Sau khi đă rảnh tay ở mặt trận phía Bắc, địch tập trung đủ mọi nổ lực kể cả hệ thống pḥng không pháo binh hầu uy hiếp cô lập căn cứ. Hai trực thăng của QLVNCH đă bị bắn hạ nhưng vẫn cố gắng đáp xuống được ngay băi đáp tại BCH/LĐ, phi hành đoàn an toàn. Đó là phi vụ cố gắng cuối cùng trong chuyến liên lạc với BCH/LĐ.

Sau đó việc tiếp tế, tản thương coi như hoàn toàn bế tắc. Chỉ mới vỏn vẹn có một tuần mà bao nhiêu điều bế tắc đă xảy ra, binh sĩ bị thương mỗi ngày một nhiều không được tải thương, đạn dược lương thực bị hao hụt dần, đa số binh sĩ hoang mang giao động không c̣n tinh thần chiến đấu. Pháo binh cơ hữu của ta bị kiệt quệ hoàn toàn, mọi sự yểm trợ nhờ vào LĐ/258 tại KOROC và các phi vụ oanh tạc của không quân Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2/TQLC bị địch chận đánh khi hoạt động cách căn cứ khoảng 4-5 km, trong một phi vụ yểm trợ một quả bom đă lạc và nổ ngay vị trí của ĐĐ5 làm tổn thương thêm một số binh sĩ, tiểu đoàn được nhận lệnh dừng ngay tại chổ chờ lệnh. Về phiá TĐ4/TQLC cũng không có ǵ sáng sủa hơn, vẫn bị địch cầm chân và quân số mỗi ngày thêm hao hụt. Chẳng có một kho tàng nào của địch bị ta phá hủy trong giai đoạn nầy, trước t́nh thế đó, BCH/LĐ điều động TĐ2 và TĐ4 về hoạt động chung quanh căn cứ để sẳn sàng cho một cuộc rút quân trong tương lai. Biết được ư định đó nên địch càng bám theo ta rất sát, ĐĐ5/TĐ2/TQLC là ĐĐ tiền đồn ở mặt Bắc căn cứ hầu như ngày nào cũng bị địch tấn công, trong khi tất cả lực lượng của TĐ4/TQLC đă rút qua mặt về phía trong BCH/LĐ. Th/tá Nguyễn Xuân Phúc tiểu đoàn trưởng cùng Đ/úy Trần Văn Hợp tiểu đoàn phó TĐ2/TQLC cũng được điều động về nằm chung với BCH/LĐ. Một biến cố đă xảy ra thật quan trọng là một trung đội đặc công VC đă xâm nhập và chiếm được một số vị trí của đơn vị pḥng thủ, với ư địch cắt đứt mọi tiếp viện từ ngoài vào để tung quân tràn ngập BCH/LĐ. Tuy nhiên, địch cũng đă bị chận lại và sau đó một đại đội TĐ7/TQLC tới giải tỏa, địch tử thương một số, phần c̣n lại đầu hàng. Tất cả chúng thuộc SĐ/324B có nhiệm vụ tiến đánh LĐ147. Lữ Đoàn đă có lệnh di tản chiến thuật từ quân đoàn nhưng lệnh nầy chỉ phổ biến đến cấp tiểu đoàn trưởng mà thôi. Lư do thật giản dị là cố gắng duy tŕ tinh thần chiến đấu của các đơn vị hầu đủ thời gian sắp xếp cho một kế hoạch rút lui. Đại đội A Viễn Thám của Đ/úy Hiền đă được lệnh lên đường t́m hiểu t́nh h́nh địch nhưng tất cả lọt vào ṿng vây địch, một số bị bắt trong đó có ĐĐT nên Lữ Đoàn không nhận được một tin tức nào cả. Theo kế hoạch B52 sẽ thả bom trước ở 2 mặt phía Nam Bắc và Lữ Đoàn sẽ bắt đầu di chuyển ra khỏi căn cứ lúc 08 giờ tối, theo thứ tự TĐ4, TĐ7, BCH/LĐ và pháo binh, TĐ2 đi đoạn hậu. Tất cả khẩu pháo binh cùng đạn dược và lương thực dự trử bỏ tại chổ. Trong đó có gần 60 thương bệnh binh cùng nhiều tử thi đă bị thối rữa trong nhiều ngày. Một số tù binh CS cũng bị ta c̣ng tay nhốt trong các hầm trú ẩn gần đó. Trước giờ ấn định t́nh h́nh đă biến đổi khác thường một cách thật nhanh chóng. ĐĐ5/TĐ2/TQLC do tôi chỉ huy đă bị cô lập tại chổ trong mấy ngày liền không được tải thương và tiếp tế. Tất cả điểm có nước dưới chân đồi đều bị bao vây chế ngự. Trời tháng 3 với những cơn gió nắng rát miền Hạ lào cùng những đợt tấn công pháo kích liên tiếp của địch đă không làm nản đi ư chí quyết sống của chúng tôi, v́ chẳng ai c̣n cách nào chọn lựa khác hơn là "PHẢI SỐNG" để được trở về bằng chính sức lực của ḿnh. Đó là vào những ngày cuối của cuộc hành quân 21, 22/3/1971. Chúng tôi được lệnh lui binh về gần BCH hơn ...để tránh thiệt hại. Th/úy Kim trung đội trưởng vũ khí nặng cùng hạ sỉ Nghạch đă bị tử thương sau một loạt pháo kích bằng súng cối 82 ly của địch vào vị trí. Trong khi có tiếng chiến xa địch từ xa, bắt đầu mon men vào tuyến. Đó là lúc 5 giờ chiều ngày 22/3/71 và BCH/LĐ đă rút lui trước sớm hơn dự định. Đại đội tôi được lệnh di tản sau đó một tiếng đồng hồ khi chiếc T54 đầu tiên của CS bị hạ bằng khẩu SKZ 57 ly từ tay Tr/sĩ I Nguyễn Tế. Giọng Th/tá Phúc vang lên trong máy ra lệnh cho tôi '"anh phải cho con cái move down south gấp ".
Bật chạy ra khỏi hầm trú ẩn. Tôi hô to "Đ/úy Tiền ĐĐT/ĐĐ5/TĐ2/TQLC đây, các anh hăy theo tôi", vẫn cứ thế tôi măi lải nhải vào tận phía trong. BCH/LĐ trống vắng, mùi thúi rữa của tử thi nơi những chiếc poncho bọc kín không được tải thương trong nhiều ngày, vài chục người trong toán lính bị thương c̣n lại đang hờn trách cấp chỉ huy, tôi vẫn hô to "Đ/úy Tiền đây, các anh hảy theo tôi" giọng Hạ sĩ Báu người lính gan dạ của đại đội tôi bị thương vào chân hôm qua khóc to nhất "chân em bị găy làm sao chạy được ông thầy". Nước mắt tôi tuông chảy, miệng lẩm bẩm "đành chịu vậy thôi! chứ biết làm sao bây giờ" trong khi đèn chiến xa địch bắt đầu soi sáng và bắn nả theo lên đồi căn cứ.

Không thể chần chờ được nữa, có tiếng hô to của giặc phía sau "Hàng sống chống chết", tôi và 2 hiệu thính viên: Đặng Phước Thành và Nguyễn Văn Chúc cùng nắm giây leo trên đỉnh dốc đá thẳng đứng "một, hai, ba, ̣ e con ve đánh đu, tarzan nhảy dù", chiếc dây qúa tải bị đứt nửa chừng thầy tṛ rớt chồng lên nhau trên mặt đất.Tay ṃ mẫm khắp nơi trên cơ thể, đứng lên ngồi xuống, mới yên tâm là ḿnh c̣n đủ sức để mưu sinh thoát hiểm.Chúc nhe hàm răng vàng óng ánh "Có ông bà độ đó ông thầy". Tôi tập hợp tại chổ được vài ba chục mạng người, gồm nhiều đơn vị khác nhau. Tôi ra lệnh là muốn sống phải theo tôi và tuyệt đối giữ kỷ luật khi di chuyển. Th/tá Phúc (TĐT) và Đ/úy Hợp (TĐP) vẫn lên máy điều động và hướng dẫn chúng tôi theo nhiều trái sáng liên tiếp được bắn lên từ KOROC. Không cần xử dụng bản đồ và địa bàn, chúng tôi cứ nhắm hướng có trái sáng mà đi tới. Khoảng hơn nửa đêm về sáng, chúng tôi lọt ngay vào ṿng địch có tiếng hô to của người lính gác: "các đồng chí đi đâu về khuya thế.?". Toán đi đầu hốt hoảng dội ra, nhanh ư tôi điều động anh em đi hướng khác. Sáng hôm sau, trời nắng đẹp bầu trời xanh thẫm, ra khỏi khu rừng rậm là những dăy đồi tranh đầy cỏ dại loang lỗ nhiều hố bom chạy dài xa tít. Hạ sĩ Thất vẫn c̣n mang chiếc máy truyền tin trên lưng chạy đến t́m tôi khóc mếu máo: "Đại bàng ơi.! Th/úy em chết rồi ". Đinh Hồng Lạc là sĩ quan trẻ thâm niên nhất trong đại đội tôi, đẹp trai với làn da trắng mịn như con gái, người Cần Thơ và rất mùi với 6 câu vọng cổ.Chính mắt tôi thấy anh ngă gục khi có lệnh của tôi, vừa vọt ra khỏi miệng hầm, một viên đạn thượng liên trên pháo tháp xe địch đă xuyên qua màng tang. Xác anh nằm vắt ngang bên vệ đường. Chiếc đầm già L19 xuất hiện quan sát bao vùng cùng vài chiếc trực thăng vơ trang của Mỹ đă làm chúng tôi an tâm hơn. Trái khói vẫn tiếp tục bắn chỉ điểm nơi điểm hẹn. TĐ3/TQLC Sói biển được điều động từ KOROC tới để cứu nguy cho chúng tôi. Địch tốc tới, tiếp tục tấn công vào bải bốc tại điểm tập trung nầy, phi cơ Mỹ chỉ có thể tản thương được một vài đợt đầu tiên, sau đó với sự chiến đấu gan dạ của TĐ3 chúng tôi tiếp tục di chuyển tiếp đến một địa điểm an toàn khác.

Tập họp lại khi về đến Khe Sanh đại đội tôi chỉ vỏn vẹn c̣n vài chục chục thầy tṛ, phải mất gần 1 tuần lễ sau, những toán thất lạc lần lượt được các trực thăng Mỹ chở về. Đại đội tôi mất đi gần phân nửa, một hao hụt qúa lớn lao. Bộ tư lệnh QUÂN ĐOÀN I đă vinh danh chiến thắng HẠ LÀO bằng một cuộc diễn binh rầm rộ tại PHÚ VĂN LÂU, nhiều huy chương và thăng cấp cho các quân nhân tham dự. Trong đó có các đơn vị trưởng tại chiến trường. Th/tá Phúc và Đ/úy Hợp của TĐ2/TQLC cũng không ra ngoài ngoại lệ đó. C̣n tôi và Đ/úy Lâm Tài Thạnh ĐĐT/ĐĐI mỗi người một Đệ Ngũ Bảo Quốc Quân Chương với nhành dương liễu.

Ngày nay khi ngồi hồi tưởng lại mặt trận Hạ Lào, bao h́nh ảnh thân thương của những người lính trong đơn vị như c̣n lảng vảng đâu đây. Th/úy Nguyễn Kim đă chết bất ngờ trong giờ phút cuối khi chỉ mơ ước về đúng lúc ngày đứa con đầu ḷng được chào đời. Th/úy Đinh Hồng Lạc không c̣n nữa để nàng con gái Kim Oanh bên ḍng sông Kiên Long ṃn mỏi chờ đợi. Chuẩn úy Lê Văn Quế và Tr/sĩ I Tế đă lạc lỏng đâu đó trong rừng Hạ Lào không có mặt khi về lại Khe Sanh. Hạ sỉ Báo, Tr/sĩ Được, binh nh́ Ngô Văn Lẹ và bao nhiêu người thương binh khác đă ra sao.? Khi những trận bom liên tiếp dội xuống căn cứ Delta sau khi đoàn quân ta đă di tản. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă chiến thắng tại các chiến trường Kampuchia, An Lộc, Quảng Trị nhưng rơ ràng chúng ta không thắng tại Hạ Lào.

Ai chiến thắng mà không hề chiến bại,
Ai nên khôn mà chẳng dại một... đôi lần

Đă đến lúc chúng ta hảy trả lại SỰ THỰC cho LỊCH SỬ, mặc dầu đó là một sự thực đau ḷng. Tôi xin ghi lại câu nói "để đời" của Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm, người chịu trách nhiệm chỉ huy tổng quát của cuộc hành quân nầy với Đại Tá Hoàng Tích Thông LĐT/LĐ147/TQLC:
"Sao Thủy Quân Lục Chiến, nó về được nhiều thế nhỉ.!."

ARLINGTON, tháng 10-2003
MX Phạm văn Tiền.

* tài liệu tham khảo:
-Chiến sử TQLC/VN.
-Chiến tranh toàn tập của tiến sĩ NGUYỄN ĐỨC PHƯƠNG - England.




Hồi Kư
Tiến tŕnh thành lập và phát triển BC TQLC
Chiến sử TQLC
Binh Chủng TQLC
Sơ lược về BC TQLC
Trung Tá Lê Quang Trọng - Chỉ Huy Trưởng TQLCVN đầu tiên
Đại Úy Bùi Phó Chí vị Tiểu Đoàn Trưởng TQLC đầu tiên
Trung Tá Lê Nhữ Hùng - người đă góp công nhiều cho sự hùng mạnh của Đoàn Quân Mũ Xanh
Tiến tŕnh thành lập Chiến Đoàn & Lữ Đoàn
Lữ Đoàn 258
Lữ Đoàn 369
Tiểu Đoàn 1 - Quái Điểu
Tiểu Đoàn 1 PB - Lôi Hỏa
Tiểu Đoàn 2 - Trâu Điên
Tiểu Đoàn 3 - Sói Biển
Tiểu Đoàn 4 - Ḱnh Ngư
Tiểu Đoàn 5 - Hắc Long
Tiểu Đoàn 6 - Thần Ưng
Tiểu Đoàn 7 - Hùm Xám
Tiểu Đoàn 8 - Ó Biển
Tiểu Đoàn 9 - Mănh Hổ
Tiểu Đoàn Tổng Hành Dinh
Tiểu Đoàn Truyền Tin
Pháo Binh TQLC
Viết cho những người pháo thủ Mũ Xanh
Một đoạn đường trong cuộc đời Y Sĩ TQLC

1963 - 1967
Mật khu Đỗ Xá
Chiến dịch Sống T́nh Thương
Hành quân Hội Đồng Sẩm
Tiểu Đoàn 2 - Trận An Qúi
Tiểu Đoàn 2 - Trận chiến Tam Quan
Tiểu Đoàn 3 - Trận Bàng Long, Cay Lậy
Tiểu Đoàn 4 - Trận B́nh Giả lúc khởi đầu
Tiểu Đoàn 4 - B́nh Giả ơi! C̣n nhớ măi
Tiểu Đoàn 5 - Trận Mộ Đức
Tiểu Đoàn 5 - Trận Mộ Đức & Cái chết của vị TĐT
Chiến Đoàn A - Trận Phụng Dư
Chiến Đoàn A - Trận Đức Cơ
Chiến Đoàn B và TĐ-5 Dù Truy Kích CQ ở Ba Gia
Chiến Đoàn B - Cuộc hành quân đổ bộ Deckhouse V Sóng Thần

1968 - Mậu Thân
Tiểu Đoàn 6 - Trận Mậu Thân
TQLC Trong Tết Mậu Thân
Chiến Đoàn A - Trận Mậu Thân
H́nh Ảnh T/T Nguyễn Văn Thiệu thăm TĐ2/TQLC

1969 - 1970
Cuộc hành quân qua Cambodia
Tiểu Đoàn 4 - Hành quân Cambodia
Tiểu Đoàn 7 - Những ngày đầu
Tiểu Đoàn 8 - Trận Cam-Bốt
Lữ Đoàn B - Vượt biên qua Kampuchia

1971 - Hạ Lào
Hành quân Lam Sơn 719
Tiểu Đoàn 1 PB - Lôi Hỏa sang Lào
Tiểu Đoàn 2 - Hành quan Lam Sơn 719
Tiểu Đoàn 3 PB - Căn cứ hỏa lực Hồng Hà
Tiểu Đoàn 4 - Đêm Hạ Lào sao dài quá!
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến Ba Ḷng
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến Động Cù Mông
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào

1972 - Mùa hè đỏ lửa
TQLC/VN và cuộc tấn công của csBV tại Vùng I
Tiểu Đoàn 3 - Tại Đông Hà
Tiểu Đoàn 3 PB - Tay đôi với tụi nó...
Tiểu Đoàn 4 - Mùa hè đỏ lửa
Tiểu Đoàn 5 - Những ngày đầu
Tiểu Đoàn 6 - Thần Ưng trong mùa hè đỏ lửa
Tiểu Đoàn 6 - Xé xác tăng địch
Tiểu Đoàn 7 - Ngày đầu cuộc chiến
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Lữ Đoàn 258 - Chiến thắng Quảng Trị tháng 4, 1972
Công sản BV bị TQLC đánh bại tại Đông Hà
Hành lang máu
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến cầu Bến Đá
Tiểu Đoàn 9 - Rừng núi Barbara
Lữ Đoàn 369 - Trân sông Mỹ Chánh
Tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 19-6-1972
Tiểu Đoàn 1 - Thử lửa đầu tiên
Tiểu Đoàn 1 - Nhảy vào Triệu Phong
Tiểu Đoàn 1 - Đổ bộ trong ḷng địch
Tiểu Đoàn 1 PB - 20,000 đạn đại bác mỗi ngày
Tiểu Đoàn 2 - Cuộc chiến Cổ Thành Quảng Trị
Tiểu Đoàn 2 - Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Tr/Đ Tăng-Thiết Giáp 202
Tiểu Đoàn 2 - Tái chiếm Dinh Tỉnh Trưởng & Toà Hành Chánh Quảng Trị
Tiểu Đoàn 3 & 6 - Tiến về Quảng Trị
Tiểu Đoàn 3 - Dựng cờ
Tiểu Đoàn 5 - Hắc Long dậy sóng
Tiểu Đoàn 5 - Đánh trên đầu địch
Người Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Pháo Binh TQLC và trận Quảng Trị
Cờ bay trên Cổ Thành Quảng Trị

1973 - 1974
Tiểu Đoàn 2 - Cửa Việt, một chiến thắng vẻ vang và ngậm ngùi
Tiểu Đoàn 3 PB - Trước khi ngưng bắn
Tiểu Đoàn 4 - Hành quân Cửa Việt
Lữ Đoàn 258 - Chiến tích sau cùng

1975
Hương lộ 555 lẻ loi
Tiểu Đoàn 7 và Lữ Đoàn 147
Lữ Đoàn 147 - Di tản chiến thuật
Tiểu Đoàn 4 - Trận đánh cuối cùng
Tiểu Đoàn 9 - Trận đánh cuối cùng
Băi biển Non Nước: Một kết thúc tức tưởi, oan nghiệt
Vị TĐT cuối cùng của Tiều Đoàn 1 Quái Điểu

Y Sĩ TQLC: Những người không thích sống lâu

anhhaila 03-05-2025 16:56

Sư Đoàn 1 BB Trên Chiến Trường Phía Nam Bến Hải, khu Trị-thiên.


04/05/1999

Vương Hồng Anh.

Thể theo yêu cầu của đông đảo bạn đọc, nhất là các cựu quân nhân VNCH, muốn có những thông tin, tài liệu về chiến sử của các đại đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trong suốt hơn 20 năm bảo vệ miền Nam thân yêu, Việt Báo đă khởi sự biên soạn loạt bài “Đơn vị và Chiến trường”, giới thiệu các đơn vị tinh nhuệ, những câu chuyện về chiến trường và người lính anh hùng của 11 Sư đoàn Bộ binh, hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến, các binh đoàn thiện chiến của các binh chủng: Biệt động quân, Thiết giáp, Lực lượng Đặc biệt, Pháo binh, Công binh chiến đấu... một số đơn vị của hai quân chủng Không quân, Hải quân, của lực lượng an ninh diện địa Địa phương quân, Nghĩa quân và Cảnh sát Quốc gia.
Để mở đầu loạt bài này, VB trân trọng giới thiệu chiến sử của đại đơn vị đầu ḷng Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa: Sư đoàn 1 Bộ Binh, một trong những Sư đoàn thiện chiện nhất, đă cùng với lực lượng Tổng trừ bị giữ vững pḥng tuyến phía Nam Bến Hải, và cụm tuyến phía Tây hai tỉnh Trị Thiên trong 16 năm dài từ 1955-1971, bảo vệ vững vàng Tây Nam Huế trong suốt cuộc chiến Mùa Hè 1972, chận đứng các cuộc xâm nhập của Cộng quân sau khi Hiệp định Paris kư kết (27/1/1973) cho đến ngày được lệnh triệt thoái khỏi chiến trường Trị Thiên vào những ngày cuối tháng 3/1975. Trước khi tŕnh bày chi tiết về một số trận đánh lịch sử và một số câu chuyện về những nhân vật chiến trường của Sư đoàn anh hùng này, qua bài viết đầu, chúng tôi xin lược tŕnh chiến sử của Sư đoàn 1 Bộ binh:
* Từ Sư đoàn Dă chiến số 21 đến Sư đoàn 1 Bộ binh: 2 lần đổi danh hiệu; 14 lần thay đổi tư lệnh; 20 năm chiến đấu trên chiến trường Trị Thiên:
Là đại đơn vị đầu ḷng của Quân lực VNCH, Sư đoàn 1 Bộ binh được chính thức thành lập ngày 1 tháng 1/1955, với đơn vị ṇng cốt là liên đoàn 21 Bộ binh lưu động được thành lập từ ngày 1/9/1953. Đây chính là binh đoàn tiền thân của Sư đoàn.
Được h́nh thành theo kế hoạch phát triển Quân đội Quốc gia Việt Nam, trong giai đoạn đầu,đại đơn vị này được mang danh hiệu Sư đoàn Dă chiến số 21, gồm 3 trung đoàn: trung đoàn Bộ binh số 21 (gồm 3 tiểu đoàn 8, 28 và 56), trung đoàn Bộ binh số 22 (gồm 3 tiểu đoàn 23, 27 và 30), trung đoàn Bộ binh số 23 (gồm 3 tiểu đoàn: 7, 12 và 24), tiểu đoàn Pháo binh số 2.
* 14 vị tư lệnh của Sư đoàn 1 Bộ binh, có một vị 2 lần giữ chức tư lệnh Sư đoàn này, cách nhau 5 năm; tư lệnh đầu tiên: đại tá Lê Văn Nghiêm; tư lệnh cuối cùng: chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm.
Vị tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn là đại tá Lê Văn Nghiêm. Khi c̣n ở cấp trung tá, ông là một trong 4 liên đoàn trưởng Bộ binh lưu động đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam vào năm 1953, (3 liên đoàn trưởng khác là: trung tá Nguyễn Quang Hoành- đầu năm 1955 là đại tá tư lệnh Đệ nhị Quân khu; trung tá Nguyễn Khánh-năm 1964 là đại tướng; trung tá Tôn Thất Đính, năm 1963 là trung tướng). Đại tá Nghiêm người Thừa Thiên, tiến tŕnh binh nghiệp của ông từ 1950 đến đầu năm 1955, được ghi nhận như sau: thăng cấp đại úy vào năm 1950; thăng thiếu tá: 1952, tiểu đoàn trưởng đầu tiên của tiểu đoàn 30; thăng trung tá: 1953, giữ chức vụ liên đoàn trưởng liên đoàn 21 Bộ binh lưu động; thăng đại tá đầu năm 1955, giữ chức tư lệnh Sư đoàn Dă chiến số 21 (Sư đoàn 1 Bộ binh), giữa năm 1955, kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh Đệ nhị Quân khu (sau này là Vùng 1), thăng thiếu tướng tháng 11/1955 cùng lần với đại tá Dương Văn Minh, sau đó lần lượt giữ các chức vụ: chỉ huy trưởng Liên trường Vơ Khoa Thủ Đức (1956 đến 1960), tư lệnh Quân đoàn 3 và Vùng 3 Chiến thuật (1961-1962), tư lệnh Quân đoàn 1 và Vùng 1 chiến thuật (từ tháng 12/1962 đến tháng 9/1963); thăng trung tướng 2/11/1963 và giữ chức vụ tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tháng 2/1964: chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự; tháng 11/1964, giữ chức giám đốc Nha Động viên Bộ Quốc pḥng. Về hưu đầu năm 1965. Sau đại tá Lê Văn Nghiêm, Sư đoàn 1 Bộ binh đă được chỉ huy bởi các tư lệnh sau đây:
- Từ tháng 1/1956 đến tháng11/1963: 6 vị tư lệnh (sau này đều thăng cấp tướng và giữ chức vụ từ tư lệnh Quân đoàn đến Tổng tư lệnh Quân đội): đại tá Nguyễn Khánh (1956-1957); đại tá Tôn Thất Đính (1957-1958); đại tá Nguyễn Văn Chuân (1958-1959); đại tá Tôn Thất Xứng (1959-1960); đại tá Nguyễn Đức Thắng (1960-1961); đại tá Nguyễn Văn Thiệu (1961-1962); đại tá Đỗ Cao Trí (cuối năm 1962 đến tháng 11/1963), trong thời gian giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, đại tá Trí hai lần thăng cấp: thiếu tướng vào tháng 7/1963 (trước tháng 4/1964, cấp đại tá được thăng thẳng lên thiếu tướng), thăng trung tướng vào ngày 2/11/1963; từ tháng 9/1963 ông kiêm nhiệm chức vụ Quyền tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật thay thiếu tướng Lê Văn Nghiêm.


- Từ tháng 11/1963 đến tháng 3/1975: 8 vị tư lệnh: đại tá Trần Thanh Phong (tháng 11/1963 đến cuối tháng 1/1964), trong cuộc chỉnh lư ngày 31/1/1964 do trung tướng Nguyễn Khánh chỉ huy, ông bị cất chức và bị áp giải vào Sài G̣n v́ tướng Khánh nghi ngờ ông thuộc nhóm trung tướng Trần Văn Đôn, sau một thời gian ngắn, ông được tướng Khánh cho tiếp tục quân vụ tại bộ Tổng tham mưu, và được thăng chuẩn tướng vào ngày 31/10/64 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, thăng thiếu tướng vào 31/10/1967 và lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng như tham mưu trưởng Liên quân, tổng trưởng Xây dựng Nông Thôn, tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, tử nạn v́ báy may rơi vào năm 1972 gần Phú Yên khi ông đi thanh tra với chức vụ phụ tá của trung tướng Cao Hảo Hớn, trung tâm trưởng trung tâm B́nh Định-Phát triển, đặc trách văn pḥng điều hành Chương tŕnh An ninh Thị tứ; thay thế đại tá Phong là đại tá Nguyễn Chánh Thi (từ tháng 2/1964 đến đầu tháng 11/1964), cũng như đại tá Trí, đại tá Thi đă hai lần được thăng cấp khi chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh: thăng chuẩn tướng vào tháng 5/1964, thăng thiếu tướng vào cuối tháng 10/1964 và sau đó được cử giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 Chiến thuật thay thế thiếu tướng Tôn Thất Xứng.
Các tư lệnh kế tiếp là: chuẩn tướng Nguyễn Văn Chuân (tháng 11/1964 đến tháng 3/1966), đây là lần thứ hai chuẩn tướng Chuân chỉ huy Sư đoàn 1 BB, ông được thăng thiếu tướng vào tháng 11/1965, đến ngày 13/3/1966, được cử giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 thay trung tướng Nguyễn Chánh Thi; chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận (tháng 3/1966 đến tháng 6/1966); đại tá Ngô Quang Trưởng (từ tháng 6/1966 đến tháng 8/1970), hai lần thăng cấp trong chức vụ tư lệnh Sư đoàn 1 BB: thăng chuẩn tướng vào tháng 2/1967, thăng thiếu tướng vào tháng 5/1968; chuẩn tướng Phạm Văn Phú (tháng 8/1970 đến tháng 9/1972), thăng thiếu tướng tại mặt trận tháng 3/1971 với chiến công chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh trong cuộc hành quân Hạ Lào, đến tháng 9/1972, nghỉ dưỡng bệnh, đại tá Nguyễn Văn Điềm, tư lệnh phó xử lư thường vụ trong 2 tháng; chuẩn tướng Lê Văn Thân (1/11/1972 đến cuối tháng 10/1973); đại tá Nguyễn Văn Điềm (tháng 11/1973 đến ngày 29/3/1975), đại tá Điềm được thăng chuẩn tướng vào ngày 1/4/1974, bị tử nạn vào ngày 29/3/1975.
* 2 lần thay đổi danh hiệu:
Trở lại với tiến tŕnh hoạt động và phát triển của Sư đoàn này, ngày 17 tháng 9/1955, theo SVVT số 3975/TTM/1/1/SC, Sư đoàn Dă chiến số 21 cải danh thành Sư đoàn Dă chiến số 1, danh hiệu các trung đoàn và các tiểu đoàn cũng được thay đổi: trung đoàn Bộ binh số 21 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 1, các tiểu đoàn 8, 28 và 56 đổi thành tiểu đoàn 1/1, 2/1, 3/1; trung đoàn Bộ binh số 22 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 2, các tiểu đoàn 23, 27 và 30 đổi thành tiểu đoàn 1/2, 2/2 và 3/2; trung đoàn Bộ binh số 23 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 3, các tiểu đoàn 7, 12 và 24 đổi thành 1/3, 2/3 và 3/3; tiểu đoàn Pháo binh số 2 thống thuộc Sư đoàn đổi thành tiểu đoàn Pháo binh số 1. Cuối năm 1958, theo quyết định cải tổ các sư đoàn dă chiến và sư đoàn khinh chiến, Sư đoàn dă chiến số 1 đổi thành Sư đoàn 1 Bộ binh, các trung đoàn Bộ binh số 1, 2 và 3 đổi thành trung đoàn 1, 2 và 3 Bộ binh.
Ngày 1 tháng 6/1965, theo kế hoạch phát triển Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, các trung đoàn Bộ binh có thêm tiểu đoàn thứ 4. Ba năm sau, ngày 1 tháng 6/1968, Sư đoàn 1 Bộ binh thành lập thêm trung đoàn 54 Bộ binh với trung đoàn trưởng đầu tiên là trung tá Ngô Văn Chung (thăng đại tá 1/1/1970, cuối cùng là tư lệnh phó Sư đoàn 3 Bộ binh; tự sát trong lao tù CS sau 1975); cũng trong thời gian này, trung đoàn 2 Bộ binh có thêm tiểu đoàn 5/2. Cuối năm 1968, Sư đoàn 1 Bộ binh có 4 trung đoàn Bộ binh: 1, 2, 3 và 54, 1 thiết đoàn Kỵ Binh (thiết đoàn 7), 3 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 1 tiểu đoàn Pháo binh 155 ly, tiểu đoàn 1 Công Binh. Từ năm 1969, theo tổ chức mới của các sư đoàn Bộ binh, Sư đoàn 1 Bộ binh có thêm 3 tiểu đoàn yểm trợ: tiểu đoàn 1 Truyền tin, tiểu đoàn 1 Tiếp vận, tiểu đoàn 1 Quân Y. Đến tháng 10/1971, trung đoàn 2 Bộ binh được chọn làm trung đoàn ṇng cốt để thành lập Sư đoàn 3 Bộ binh.
Từ ngày thành lập cho đến tháng 3/1975, trong hơn 20 năm, Sư đoàn 1 Bộ binh đă 9 lần được tuyên dương công trạng trước Quân đội. Đầu năm 1969, quân kỳ của Sư đoàn 1 Bộ binh đă được gắn Bảo Quốc Huân Chương, và toàn quân nhân của Sư đoàn 1 được mang giây biểu chương màu tam hợp. Từ năm 1960 đến 1975, trên chiến trường Trị Thiên, Sư đoàn đă lập nhiều chiến công lớn qua các cuộc hành quân mang tên Lam Sơn, những thành tích lẫy lừng nhất là 5 lần đánh bại cuộc tấn công quy mô của sư đoàn 324 B CSBV, lần đầu tiên tại mặt trận phía Nam sông Bến Hải vào tháng 4/1967, lần cuối cùng tại mặt trận Tây Nam Huế trong cuộc chiến Mùa Hè 1972. Riêng trong tháng 2/1971, Sư đoàn 1 Bộ binh đă cùng với Sư đoàn Nhảy Dù, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, Lữ đoàn 1 Kỵ Binh, lực lượng Biệt động quân Quân khu 1 tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào.

anhhaila 03-09-2025 19:58

2 Attachment(s)
Hành quân Lam Sơn 719.



Cuộc hành quân Lam Sơn 719 trên đất Hạ Lào từ ngày 8 tháng 2 đến ngày 25 tháng 3 năm 1971.




Đến tháng 1 năm 1971, lực lượng bộ binh và không quân Hoa Kỳ đă tấn công và ném bom các tuyến tiếp tế của CSBV trong bảy năm nhằm ngăn chặn ḍng tiếp tế hậu cần cho lực lượng Cộng Sản Bắc Việt . Tuy nhiên, tuyến tiếp tế hậu cần chính của CSBV thường được gọi là đường ṃn Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục cung cấp vũ khí, vật tư và quân tiếp viện cho các bộ chỉ huy CSBV hoạt động trong Miền Nam Việt Nam. Đồng thời, cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 1968 và việc đưa ra chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" đối với Việt Nam đă dẫn đến: việc cắt giảm dần dần, mặc dù thận trọng, quân đội chiến đấu của Hoa Kỳ trong nước; tăng cường huấn luyện của Hoa Kỳ cho Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa để có thể độc lập trong tương lai; và chuyển giao các hoạt động an ninh và tấn công lớn cho QLVNCH. Trong nội bộ Miền Nam Việt Nam, cuộc bầu cử mùa thu năm 1971 đang chờ giải quyết đă buộc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải chứng minh được thành công quân sự.

LAM SƠN 719, là một hoạt động quan trọng tại thời điểm quan trọng trong cuộc chiến, phản ảnh mối quan tâm đối với cả các vấn đề quân sự và chính trị. Hoạt động này sẽ là một nỗ lực dứt khoát để đóng con đường ṃn HCM, sẽ ngăn chặn bất kỳ kế hoạch nào của CSBV cho một cuộc tấn công mùa khô năm 1971 thông qua cú sốc tâm lư và phá hủy vật chất, sẽ chứng minh sự thành công của chính sách hiện tại của Hoa Kỳ về việc rút quân và các hoạt động độc lập của QLVNCH, và sẽ khuếch đại tinh thần của Hoa Kỳ và QLVNCH sau những thành công của năm 1970.

Lên kế hoạch: Chiến dịch DEWEY CANYON II và LAM SON 719

Đường ṃn Hồ Chí Minh là một loạt các con đường, đường ṃn và đường ṃn cung cấp hỗ trợ hậu cần cho các hoạt động của CSBV ở Lào, Campuchia và Miền Nam Việt Nam. Mạng lưới phân nhánh của đường ṃn được kết nối với nhau bằng các nút hậu cần trung tâm được t́nh báo quân sự Hoa Kỳ gọi là Khu vực căn cứ (BA). Tchepone một mục tiêu trung tâm của LAM SƠN 719 là trung tâm bị nghi ngờ của CSBV BA 604. BA 604 là căn cứ hậu cần chính cho toàn bộ đường ṃn và là điểm thu thập và phân phối chính cho người và vật tư trên khắp Lào, Campuchia và Miền Nam VN. Do tầm quan trọng của BA 604 trong mạng lưới đường ṃn lớn hơn, người ta đưa ra giả thuyết rằng việc chiếm giữ và phá hủy Tchepone sẽ cắt đứt Đường ṃn tại nút quan trọng nhất của nó và làm tổn hại đến khả năng tiếp tục các hoạt động tấn công của CSBV. Kế hoạch rộng răi đă phác thảo cuộc xâm nhập được đề xuất là một hoạt động kết hợp có mục tiêu hạn chế gồm bốn giai đoạn của Hoa Kỳ và QLVNCH.

Giai Đoạn Một sẽ bao gồm Lữ Đoàn 1 của Hoa Kỳ, Sư Đoàn Bộ Binh Cơ Giới số 5, tái lập Căn cứ chiến đấu Khe Sanh, bị bỏ hoang vào năm 1968 và bảo vệ Tuyến đường 9 từ Đông Hà đến biên giới Lào - Miền Nam VN. Việc tái lập Khe Sanh và mở Đường 9 sẽ cung cấp điểm dàn dựng và điểm xuất phát cho các giai đoạn hoạt động tiếp theo. Việc lập kế hoạch cho giai đoạn hai đă chứng kiến ​​nhiều lần sửa đổi và ngay cả ở trạng thái cuối cùng cũng phải chịu sự thay đổi với sự chấp thuận không chắc chắn của giới lănh đạo. Tổng Thống Nixon đă phê duyệt kế hoạch.

Giai đoạn Hai cuối cùng, theo đó Sư Đoàn 1 Bộ Binh của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa sẽ tấn công về phía tây dọc theo hành lang dài 15 dặm tập trung vào Đường 9. Đồng thời với cuộc tiến công của ḿnh, Sư Đoàn 1 BB sẽ thiết lập các căn cứ hỏa lực ở phía bắc và phía nam thung lũng Sông Xepon để bảo vệ cả hai bên sườn. Khi Sư Đoàn 1 BB đến Mục tiêu A Loui (làng Bản Đông và điểm giữa biên giới Lào-VNCH và Tchepone), Sư Đoàn Nhảy Dù sẽ phát động một cuộc tấn công cơ động bằng đường không của lữ đoàn vào Tchepone. Kế hoạch của QLVNCH đă được ban hành khác rất nhiều so với kế hoạch được Tổng Thống Nixon phê duyệt. Kế hoạch này, vốn quá phức tạp, h́nh dung Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH, Lữ Đoàn 1 Thiết Giáp và Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù tấn công về phía tây dọc theo Đường 9. Các hoạt động hỗ trợ trên không sẽ đưa một tiểu đoàn nhảy dù vào Mục tiêu A Loui, hai tiểu đoàn nhảy dù và ba tiểu đoàn của Nhóm Biệt Kích số 1 vào phía bắc Đường 9, và Trung Đoàn 1 và 3 của Sư Đoàn 1 BB vào phía nam Sông Xepon. Lữ Đoàn Nhảy dù số 2 sẽ tấn công Tchepone bằng trực thăng ngay khi Mục tiêu A Loui được bảo vệ. Pháo binh Hoa Kỳ bắn từ ngay bên trong biên giới RVN sẽ hỗ trợ từ xa nhưng sẽ không mạo hiểm vào bên trong Lào; Lực Lượng Hoa Kỳ bị cấm tham gia hoạt động chiến đấu trên bộ bên trong Lào theo Tu Chính Án Cooper-Church.



Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 BB bên khẩu pháo 12 ly 7 pḥng không tịch thu của CSBV.

Sau khi QLVNCH chiếm được Tchepone, Giai đoạn Ba kêu gọi các hoạt động t́m kiếm và tiêu diệt trong phạm vi BA 604 AO để bảo đảm các tuyến tiếp tế hậu cần của CSBV bị cắt đứt. Giai đoạn bốn, giai đoạn cuối cùng, chỉ đạo Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa rút lui trở lại theo Đường 9 hoặc rút lui dọc theo Đường 914, qua BA 611 (nằm ở phía đông Mường Nông) và A Shau. Việc rút lui qua BA 611 có thể có lợi ích là gây hư hại cho kho phân phối nhiên liệu và tiếp nhiên liệu chính của đường ṃn HCM. Thành phần Hoa Kỳ của hoạt động này được đặt mật danh là DEWEY CANYON II; thành phần Không quân Việt Nam Cộng Ḥa được đặt mật danh là LAM SON 719.

Thực hiện: Chiến dịch DEWEY CANYON II

Việc lập kế hoạch cho DEWEY CANYON II và LAM SƠN 719 không chỉ giới hạn ở các nhân viên Hoa Kỳ và QLVNCH. Bằng chứng cho thấy CSBV đă biết về một cuộc tấn công được lên kế hoạch gần hoặc qua biên giới VNCH-Lào. Để ứng phó với bức tranh t́nh báo tích lũy đang h́nh thành, CSBV đă thành lập Bộ tư lệnh 702 như một đơn vị chỉ huy chung có nhiệm vụ chống lại bất kỳ cuộc tấn công nào của Hoa Kỳ và QLVNCH. Sự tự tin vào đánh giá t́nh báo của họ tăng lên sau khi DEWEY CANYON II được khởi xướng và việc tái chiếm Khe Sanh nhưng không được xác nhận đầy đủ cho đến khi lực lượng RVNAF vượt biên giới vào Lào. Vào thời điểm LAM SƠN 719 được triển khai, Cộng Sản Bắc Việt đă có hơn 33,000 quân ở vùng lân cận Tchepone; lực lượng tăng viện bổ sung sẽ được gửi đến khu vực này, nâng tổng quân số của CSBV lên khoảng từ 36,000 đến 60,000 quân và 170-200 súng pḥng không. Mục tiêu quân sự và chính trị của LAM SƠN 719 là trọng tâm đối với các quyết định tác chiến của CSBV cũng như đối với QLVNCH. Mục tiêu của Bộ tư lệnh 702 và mặt trận Đường 9 Nam Lào, như được tóm tắt trong bản báo cáo của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản gửi đến lực lượng CSBV vào ngày 31 tháng 1 năm 1971, tương đồng với mục tiêu do chính quyền Nixon và Thiệu thiết lập:

“Cuộc giao tranh sắp tới sẽ là một trận chiến quyết định về mặt chiến lược. Chúng ta sẽ chiến đấu không chỉ để giữ quyền kiểm soát hành lang vận tải chiến lược mà c̣n tiêu diệt một số đơn vị lực lượng dự bị chiến lược của địch để có thể gây ra một thất bại đáng kể cho một phần âm mưu ‘Việt Nam hóa’ của chúng, thúc đẩy nỗ lực kháng chiến của chúng ta nhằm giải phóng Nam Việt Nam và bảo vệ Bắc Việt Nam, hoàn thành nghĩa vụ quốc tế một cách vẻ vang và rèn luyện lực lượng chủ lực của chúng ta trong hỏa lực chiến đấu. Quân đội của chúng ta chắc chắn phải giành chiến thắng trong trận chiến này.”

Chiến dịch DEWEY CANYON II bắt đầu lúc 00:00-04:00 giờ (thời gian thay đổi) ngày 30 tháng 1 năm 1971, với Lữ đoàn 1 Hoa Kỳ, Sư Đoàn Bộ Binh Cơ Giới số 5, di chuyển về phía tây từ căn cứ Hỗ Trợ Hỏa Lực (FSB) Vandergrift dọc theo hai trục hội tụ tại Khe Sanh. Khe Sanh đă bị tấn công lúc 08:30 giờ mà không có sự kháng cự nào của đối phương. Sau khi căn cứ chiến đấu Khe Sanh được tái lập, các tiểu đoàn tấn công đă di chuyển đến khu vực hoạt động của họ trong khi các đơn vị pháo binh và hỗ trợ củng cố các vị trí bên trong và xung quanh Khe Sanh. Thương vong của Hoa Kỳ liên quan đến DEWEY CANYON II là nhẹ. Trong số khoảng 9,000 quân Hoa Kỳ tham gia, lực lượng Hoa Kỳ đă chịu 55 tử trận và 431 người bị thương.

Chiến dịch LAM SON 719

Sự nhầm lẫn về các kế hoạch cho LAM SƠN 719 bắt đầu gần như từ các giai đoạn lập kế hoạch ban đầu của chiến dịch và vẫn tiếp diễn trong suốt quá tŕnh thực hiện chiến dịch. Tuy nhiên, những hiểu lầm giữa các đồng minh không phải là trở ngại duy nhất đối với sự hợp tác suôn sẻ giữa Không Quân Hoa Kỳ và Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Làm phức tạp thêm những khó khăn về mặt lập kế hoạch và hoạt động là môi trường vật lư của không phận chiến trường. Trên không, thời tiết và địa h́nh sẽ đóng vai tṛ then chốt trong hành động sắp tới. Mặc dù LAM SƠN 719 được thực hiện trong mùa khô, sương mù dày đặc và mưa đă làm giảm tầm nh́n ở cả khu vực hoạt động và phía đông dăy núi Annamite, nơi có nhiều tài sản không quân hỗ trợ. Tầm nh́n tối đa, khi thời tiết quang đăng, chỉ có từ khoảng trưa cho đến khi mặt trời lặn khoảng sáu giờ sau đó. Ngay cả với những hạn chế về tầm nh́n thường xuyên, các tài sản không quân Hoa Kỳ và Không quân Việt Nam Cộng ḥa vẫn rất quan trọng đối với cuộc ném bom trước khi phóng, hỗ trợ chiến đấu trực tiếp và yểm trợ trên không khi kết thúc chiến dịch. Trực thăng và hỗ trợ trên không tầm gần của Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng tương tự bởi địa h́nh xung quanh Tuyến đường 9 và Tchepone. Địa h́nh gồ ghề với độ cao thay đổi nhanh chóng khiến cho các chuyến bay theo đường đồng mức và bay theo đường đất trở nên cực kỳ khó khăn. Địa h́nh thay đổi buộc các tài sản triển khai và hỗ trợ của Không quân Hoa Kỳ và Không quân Việt Nam Cộng ḥa phải bay ở độ cao cao hơn mong muốn; các đường bay cao hơn và nhất quán hơn lần lượt giúp CSBV dễ dàng nhận dạng, theo dơi và giao tranh hơn. Để chống lại việc CSBV nhắm mục tiêu vào các LZ có khả năng xảy ra, các máy bay C-130 của Không Quân Hoa Kỳ và máy bay tấn công chiến thuật đă phá hủy thêm các LZ khỏi thảm thực vật rậm rạp. Tuy nhiên, khi đến nơi, nhiều LZ bị phát hiện bị các mảnh vỡ của vụ nổ cản trở hoặc nhỏ hơn mức cần thiết. Ngoài ra, việc sử dụng nhiều lần các LZ hiệu quả và việc sử dụng liên tục các phương pháp tiếp cận trên không đến các LZ này đă làm giảm cả yếu tố bất ngờ và tốc độ tiến công đồng thời tăng hiệu quả của pḥng thủ trên không và trên bộ của CSBV. Tổn thất trên không của Không quân Hoa Kỳ và Không quân Việt Nam Cộng ḥa đặc biệt đáng kể trong LAM SƠN 719 do sự kết hợp của các hoạt động cơ động trên không quy mô lớn, hỗ trợ trên không xuyên biên giới và không lư tưởng. Chiến dịch trên bộ phải đối mặt với những khó khăn về địa h́nh của riêng nó. Không chỉ lực lượng chính đang tiến công hoạt động trong lănh thổ do kẻ thù nắm giữ và cải thiện về mặt hậu cần trong nhiều năm mà địa h́nh cục bộ và thảm thực vật rậm rạp khiến việc di chuyển khỏi các mạng lưới vận tải đă thiết lập gần như không thể đối với các lực lượng cơ giới.Tuy nhiên, tốc độ tiến quân đến Mục tiêu A Loui không được duy tŕ. Quy mô của các hoạt động trên không và trên bộ đ̣i hỏi phải huy động một số lượng lớn máy bay để đưa vào, tiếp tế và hỗ trợ trên không. Tuy nhiên, khả năng pḥng thủ kiên quyết của CSBVvà các hoạt động trên không gần như không ngừng nghỉ đă khiến ngày càng nhiều máy bay bị loại khỏi biên chế do mất mát hư hỏng và cần bảo dưỡng.

Tỷ lệ hao hụt của máy bay bay thường ảnh hưởng đến số lượng và loại hoạt động trên không có thể được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các quyết định đồng thời từ giới lănh đạo chính trị và chiến dịch trên bộ đang phát triển đă làm chậm đáng kể bước tiến của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Các lực lượng địch đă lợi dụng sự tiến quân bị đ́nh trệ của Không quân Việt Nam Cộng Ḥa để tạo lợi thế cho ḿnh. Để củng cố các vị trí của ḿnh, CSBV đă nỗ lực cô lập và phá hủy các vị trí chặn phía bắc của QLVNCH như một phần của một phong trào lớn hơn nhằm cắt đứt Tuyến đường 9 như một hành lang tiếp tế và hoạt động tấn công trên bộ của QLVNCH (Sander 2014: 118-119, 123-125, 141-157). Phải mất một tháng giao tranh đẫm máu để QLVNCH tiến chậm chạp đạt được mục tiêu cốt lơi của chiến dịch. Vào ngày 6 tháng 3, các thành phần của QLVNCH cuối cùng đă tấn công bằng đường không vào Tchepone, đầu tiên đổ bộ xuống băi đáp được lên kế hoạch ở cực tây của chiến dịch, LZ Hope. Mặc dù mục tiêu chính của LAM SƠN 719 đă đạt được, nhưng sức kháng cự của CSBV ngày càng mạnh mẽ hơn. CSBV đă tránh chiến thuật đánh và rút được sử dụng để chống lại các cuộc xâm lược của Hoa Kỳ và QLVNCH vào Campuchia, thay vào đó sử dụng các ṿng pháo binh hỏa lực trực tiếp và gián tiếp, thiết giáp do Liên Xô sản xuất và các cuộc tấn công của bộ binh để giảm thiểu một cách có hệ thống các căn cứ hỏa lực trên đỉnh đồi của QLVNCH. Đến thời điểm này, các chiến dịch thông thường của CSBV chống lại các căn cứ hỏa lực và khu vực tập trung quân của QLVNCH đă dẫn đến việc Đường 9 trở thành một tuyến đường di chuyển an toàn; tuyến đường rút lui chính của QLVNCH sẽ là một thử thách của các cuộc phục kích liên tục và tàn khốc. Mười ngày sau khi chiếm được Tchepone và trái với lời khuyên của Tướng Creighton Abrams, khi đó là Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hỗ trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, Tổng Thống Thiệu đă ra lệnh rút quân QLVNCH. Sự thành công của cuộc rút lui QLVNCH phụ thuộc rất nhiều vào kế hoạch, sự phối hợp giữa Hoa Kỳ và QLVNCVH và sự lănh đạo của từng cá nhân. Các vấn đề gây khó khăn cho việc lập kế hoạch và thực hiện hoạt động cũng xuất hiện trong quá tŕnh rút quân. Nhiều đơn vị đă bị loại bỏ hoặc tự loại bỏ khỏi các vị trí chặn trước khi các đơn vị tiền phương khác được rút lui. Việc rút quân sớm có nghĩa là nhiều đơn vị, và thực tế là toàn bộ lực lượng tấn công nếu quan sát từ cấp độ vĩ mô, sẽ phải vật lộn để quay trở lại biên giới trong các cuộc tấn công quấy rối liên tục. Các đơn vị cuối cùng (trừ hai đơn vị trinh sát Thủy Quân Lục Chiến c̣n lại bên kia biên giới làm nhiệm vụ tuần tra cảnh báo sớm cho Khe Sanh) đă đến được vùng đất tương đối an toàn của VNCH vào ngày 25 tháng 3, mười ngày gian khổ và đẫm máu sau khi lệnh rút quân được ban hành lần đầu tiên.

Hiệu ứng của Chiến Dịch.

Đến ngày 6 tháng 4 năm 1971, LAM SƠN 719 đă chấm dứt và kết quả ngay lập tức được ghi nhận: việc chiếm giữ Tchepone, mặc dù thành công, nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn; các kho tiếp tế của địch được phát hiện trong BA 604 AO ít hơn so với đánh giá t́nh báo ước tính (hầu hết vật liệu đều nằm ngoài tầm hoạt động của các cuộc càn quét của QLVNCH xung quanh Tchepone); và tính khả thi của "Việt Nam hóa" như một phương tiện để rút quân Hoa Kỳ thành công ở Đông Nam Á ngày càng bị nghi ngờ. Cả thực tế về việc QLVNCH rút quân và báo chí đưa tin về nó đều làm lu mờ những thành công trong hoạt động mà chính quyền Nixon nêu bật. LAM SƠN 719 đă chỉ ra rằng QLVNCH hoàn toàn phụ thuộc vào các Cố Vấn và vật liệu của Hoa Kỳ để lập kế hoạch, phối hợp và thực hiện các hoạt động tấn công quy mô lớn. Như dự kiến ​​từ hành động lớn hơn của chiến dịch DEWEY CANYON II LAM SƠN 719, thương vong của tất cả các lực lượng tham gia đều cao. Số liệu thống kê thương vong cho LAM SƠN 719 khác nhau, nhưng Trung tâm Lịch Sử Quân Sự của Quân Đội Hoa Kỳ đă cung cấp số liệu thương vong nhất quán nhất. Lực lượng địch được báo cáo là 13,636 tử thương từ ước tính thận trọng là 22,000 chiến binh trong khu vực hoạt động; chỉ có 69 binh lính địch được báo cáo là tù binh chiến tranh. QLVNCH báo cáo là 1,483 tử thương, 5,420 bị thương và 691 mất tích từ lực lượng tham gia chiến đấu khoảng 17,000 người. Lực Lượng Hoa Kỳ phải chịu một số lượng lớn tổn thất về máy bay trực thăng với 108 trực thăng bị phá hủy và 600 trực thăng bị hư hại. Trong số khoảng 10,000 quân nhân Hoa Kỳ tham gia LAM SƠN 719, Hoa Kỳ đă phải chịu 215 tử thương, 1,149 bị thương và 42 mất tích. Việc tính toán tỷ lệ thương vong là 62 phần trăm cho địch, 45 phần trăm cho Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa và 14 phần trăm cho Hoa Kỳ, làm nổi bật hơn nữa quy mô cam kết chính trị mà cả hai bên đă thực hiện đối với hành quân LAM SƠN 719 và mức độ khốc liệt của cuộc chiến đă trải qua.


Từ trang mạng https://dpaa-mil.sites.crmforce.mil/dpaaFamWebInLamSon

yenco88 03-16-2025 15:49

Sống lại những ngày dựa lưng nổi chết Lam Sơn 719.

hoathienly19 03-17-2025 03:07


LỮ ĐOÀN I NHẢY DÙ



Huy hiệu Lữ Đoàn I Nhảy Dù







LĐIND gồm 3 Tiểu đoàn tác chiến :

- TĐ1ND

- TĐ8ND và TĐ9ND

Huy hiệu TĐ1ND – Tiểu Đoàn 1 Nhảy dù có 5 Đại đội.

ĐĐ đầu tiên mang số zero (0) hay ĐĐ10, là ĐĐ chỉ huy có nhiệm vụ bảo vệ Bộ chỉ huy Tiểu đoàn.

ĐĐ10 được trang bị nhiều vũ khí cộng đồng như :

- Đại liên M50ly chống biển người

- Một khẩu Đại bác 90ly không giật

- Một khẩu Đại bác 57ly không giật

- Một khẩu súng cối 81ly

- Bốn khẩu Đại liên 60ly cho 4 Trung đội.

Ngoài ra c̣n có các giàn máy vô tuyến điện, quân xa, v.v.

Bộ chỉ Huy TĐ1ND c̣n có thêm một ban Quân y gồm :

- Một y sĩ Tiểu đoàn và một số y tá.

Các Đại đội tác chiến của TĐ1ND gồm :

- ĐĐ11ND, 12, 15 (x13), & 14, mỗi ĐĐ có :

- 3 Trung đội tác chiến và 1 Trung đội súng nặng.

Mỗi ĐĐ tác chiến của TĐ1ND được trang bị :

- 1 khẩu Đại bác không giật 90ly và 1 khẩu Đại bác không giật 57ly

- Một khẩu súng cối 60ly, 4 khẩu Đại liên M60, 4 khẩu phóng lựu M79, v.v.

Vũ khí cá nhân cho Đại đội phó trở xuống là súng trường M16.

Phương tiện Liên lạc là các máy vô tuyến điện loại PRC–25 chạy pin.

Ban chỉ huy ĐĐ c̣n có một Sĩ quan Đề–lô pháo binh được TĐ1PBND biệt phái để giúp yểm trợ hỏa lực Pháo binh và Phi pháo khi cần.

Dưới đây là Huy hiệu các Đại đội thuộc TĐ1ND. H́nh thức giống nhau nhưng màu sắc khác nhau.

Huy hiệu ĐĐND được đeo trên hai cầu vai của các TTMĐ thuộc TĐ1ND.


Từ trái : Đại Đội 10/Chỉ huy , ĐĐ11 , ĐĐ12 , ĐĐ15 [x13], ĐĐ14
([x13]: TĐ1ND kỵ số 3 và 13 nên chỉ có Trung đội 5 [x3] và Đại đội 15 [x13])






Là hậu thân của Chiến Đoàn I Nhảy Dù được thành lập ngày 15/11/1961 do Thiếu tá Dư Quôc Đống làm Chiến Đoàn Trưởng đầu tiên.


Trung tướng Dư quốc đống





Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn với quân số 49 quân nhân Nhảy Dù có nhiệm vụ :


– Đảm trách việc chỉ huy chiến thuật trong các cuộc hành quân phối hợp từ 2 Tiểu Đoàn Nhảy Dù trở lên.

– Đặt kế hoạch chỉ huy hành quân và yểm trợ cho các Tiểu Đoàn thống thuộc.

– Liên lạc để xin yểm trợ hỏa lực cho các Tiểu Đoàn thống thuộc khi các đơn vị Nhảy Dù được tăng phái cho các Sư Đoàn Bộ Binh hoặc Khu Chiến Thuật hoặc Vùng Chiến Thuật.

Và nhiệm vụ này được chấm dứt khi Chiến Đoàn trở về hậu cứ.








Bản doanh của CĐIND nằm trong căn cứ Hoàng Hoa Thám.

Đến ngày 10 tháng 9/1964
Trung tá Dư Quốc Đống được thăng cấp đại tá và lên làm Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù bàn giao lại cho Trung tá Bùi Kim Kha.

Ngày 2 Tháng 3 năm 1966,
sau trận giải vây quận Thuần Mẫn tại Quân Khu 2, Thiếu tá Hồ Trung Hậu đang là TĐT/TĐ5ND được chỉ định thay thế Trung tá Bùi Kim Kha chỉ huy CĐIND.


Đại tá Hồ Trung Hậu tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù VNCH






Về sau do nhu cầu chiến trường ngày một gia tăng, thêm các Tiểu Đoàn tác chiến và các Tiểu Đoàn Pháo Binh 105ly Nhảy Dù được thành lập, Lữ Đoàn Nhảy Dù được phát triển thành Sư Đoàn Nhảy Dù vào ngày 1 tháng 12 năm 1965.






Do đó cơ cấu tổ chức Sư Đoàn Nhảy Dù được cải tổ, thêm nhiều đơn vị yểm trợ tiếp vận như :

- Truyền Tin, Công Binh, Quân Y... được nâng cấp.






Đến ngày 1/5/1968
Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn I ND được cải danh thành Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Nhảy Dù để chỉ huy chiến thuật các đơn vị thống thuộc và tăng phái theo nhu cầu :

–Chỉ huy các thành phần tác chiến và yểm trợ do SĐND tăng phái khi hành quân.

–Tiếp nhận và xuất phái các thành phần tăng cường mau lẹ khi chiến trường đ̣i hỏi.

–Tổ chức các cuộc hành quân cấp Lữ Đoàn, hoặc hành quân dài hạn.

–Giám sát sự di chuyển về an ninh của các thành phần tăng phái yểm trợ.

–Thiết lập hệ thống liên lạc với các bộ chỉ huy cao cấp và bộ chỉ huy kế cận.

–Giám sát huấn luyện chiến thuật cho các đơn vị cơ hữu.

–Tổ chức hành quân độc lập khi được tăng cường đầy đủ các thành phần yểm trợ.

–Khả năng điều khiển và kiểm soát lối 5 Tiểu Đoàn hành quân.

–Tính cách di động 100%.

Lữ Đoàn Trưởng/LĐIND đầu tiên là Trung tá Hồ Trung Hậu.


Trên phương diện tổ chức, Lữ Đoàn I Nhảy Dù gồm có :


–Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các Ban Tham Mưu 1, 2, 3, 4, 5 và Truyền Tin.

–Đại Đội Chỉ Huy Công Vụ/LĐIND.

–Đại Đội 1 Trinh Sát Nhảy Dù.

–Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.

–3 Tiểu Đoàn tác chiến :
Tiểu Đoàn 1, 8 & 9 Nhảy Dù.

–Trung Đội Truyền Tin/LĐIND với nhiệm vụ thiết lập :

- Hệ thống liên lạc hữu tuyến

- Vô tuyến

- Hỏa bài quân

- Mật mă và điện báo từ BCH/LĐ đến tất cả các đơn vị thống thuộc.





–Trung Đội 1 Truyền Tin do Tiểu Đoàn Truyền Tin/SĐND tăng phái với nhiệm vụ :



- Thiết lập hệ thống liên lạc hữu tuyến, siêu tần số, giải tần đơn, Viễn ấn tự, vô tuyến âm thoại, điện báo, hỏa bài quân và mật mă từ BCH/LĐ đến BTL/SĐND.

– Đại Đội 1 Công Binh do Tiểu Đoàn Công Binh/SĐND tăng phái.

–Đại Đội 1 Quân Y do TĐQY/SĐND tăng phái.

–Phân Đội 1 Tiếp Vận do Tiểu Đoàn Yểm Trợ/SĐND tăng phái.

Về phương diện chiến thuật, khi nhu cầu hành quân đ̣i hỏi, bất cứ Tiểu Đoàn Nhảy Dù tác chiến nào cũng có thể được BTL/SĐND chỉ định để kết hợp thành một lực lượng đáp ứng cho nhu cầu chiến trường của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn ngay cấp thời.





Đến ngày 25/1/1968 Trung tá Hồ Trung Hậu bàn giao chức vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐIND lại cho Thiếu tá Lê Quang Lưỡng.

Sau khi nhận bàn giao LĐIND ngày 27/1/1968 Thiếu tá Lê Quang Lưỡng và BCH LĐIND được điều động ra Huế thay thế BCH/LĐIIND do Trung tá Đào Văn Hùng chỉ huy với 3 Tiểu Đoàn 2, 7 và 9 Nhảy Dù để bảo vệ cho Huế và Quảng Tri tại QKI [Quân Khu I] trong dịp tết Mậu Thân.

Đến ngày 15/7/1972 Đại tá Lê Quang Lưỡng được chỉ định giữ chức vụ Phụ tá HQ cho Tư Lệnh SĐND, ông bàn giao lại cho Trung tá Lê Văn Ngọc chỉ huy LĐ1 Nhảy Dù.

Ngày 24/7/1974, Đại tá Lê Văn Ngọc thuyên chuyển về đặt dưới quyền sử dụng của Bộ Nội Vụ, ông bàn giao LĐIND lại cho Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy LĐIND cho đến tháng 4/1975.

Các Vị Chỉ Huy Liên Tiếp:

1. Thiếu tá Dư Quốc Đống(15/11/1961–10/09/1964)

2. Thiếu tá Bùi Kim Kha(11/09/1964–01/03/1966)

3. Thiếu tá Hồ Trung Hậu(02/03/1966–25/01/1968)

4. Thiếu tá Lê Quang Lưỡng(26/01/1968–15/07/1972)

5. Trung tá Lê Văn Ngọc(16/07/1972–24/07/1974)

6. Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh(25/07/1974–30/04/1975)





*************

hoathienly19 03-17-2025 09:39


CÁC CUỘC HÀNH QUÂN THAM DỰ :


–Hành quân tảo thanh tại Kiến Hoà (QK4)

–Hành quân giải vây đồn Bỏ Túc (QK3)

–Hành quân giải phóng xóm Bà Đa (QK3)

–Hành quân tảo thanh Phan Thiết (QK3)

–Hành quân tảo thanh Phước Ḥa (QK3)

–Hành quân Ấp Bắc 2 tại Mỹ Tho QK4 vào ngày 03/01/1965.

Giao tranh ác liệt giữa TĐ5ND và một Trung Đoàn VC.

Các sĩ quan Nhảy Dù chỉ huy chiến Trường có :


- Trung tá Hồ Tiêu TĐT/TĐ5ND

- Đại úy Ngô quang Trưởng TĐP kiêm SQ Ban 3

- Đại úy Đoàn văn Nu TĐT/TĐ1ND

- Thiếu tá Trương Quang Ân Tham mưu Trưởng LĐIND






–Hành quân Lam Sơn 11 (QK1)

–Hành quân Phi Điểu 1 (QK4)

–Hành quân Thăng Long 11 (QK4)

–Hành quân Hùng Vương 2 đến 5 (QK3)

–Hành quân Quyết thắng 141 An Khê (QK2)

–Hành quân Quyết Thắng 147 (QK2)

–Hành quân Dân Tiến 107 Cheo Reo (QK2)

–Hành quân Thần Phong 3 (QK2)

–Hành quân Đại Bàng 3 QL 21 (QK2)

–Hành quân Thần Phong 7 Bồng Sơn (QK2)

–Hành quân Thần Phong 2 Tam Quan (QK2)



https://www.youtube.com/watch?v=_kZfHB-18Fo



–Hành quân Thành Công 1 (BKTD) (QK3)

–Hành quân Tái lập an ninh Đà Nẵng (QK1)

–Hành quân B́nh Phú 9 và 10 (QK2)

–Hành quân B́nh Phú 18 (QK2)

–Hành quân Lam Sơn 318/2 Đông Hà (QK1)

–Hành quân Lam Sơn 329 (QK1)

–Hành quân Xây Dựng 69/SĐ (QK3)

–Hành quân Lam Sơn XDNT/10 Quảng Trị (QK1)

–Hành quân Lam Sơn Đông Hà (QK1)



https://www.youtube.com/watch?v=j8jSKZr2_8w



–Hành quân Long Phi 999/J/M (QK4)

–Hành quân Khamjei 164 (QK2)

–Hành quân Khamjei 169 (QK2)

–Hành quân Trương Công Định Cần Thơ (QK4)

–Hành quân Toàn Thắng 199/667–676–693–698 Tây Ninh (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng 199/1280–1451 Tây Ninh (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng 199/1922 Tây Ninh (QK3)



https://www.youtube.com/watch?v=Uzz1Vm1PlKE




–Hành quân Toàn Thắng Đại Bàng 2/69 (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng 81/DB 2/70 (QK3)

–Hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào (QK1)

–Hành quân Quang Trung 22/2 (QK2)

–Hành quân Toàn Thắng 72 C–D (QK3)

–Hành quân Đại Bàng 72/A–B–C–H–E–M (QK1)

–Hành quân Sao Mai Tây Ninh (QK3)

–Hành quân Phi Hoà 2 (QK3)






–Hành quân Đức Thắng 62 đến 64 (QK4)

–Hành quân B́nh định Long An (QK4)

–Hành quân Thăng Long 19 (QK4)

–Hành quân Nguyễn Văn Nho (QK3)

–Hành quân Dân Tiến 102 (QK2)

–Hành quân Dân Tiến 103 Lê Thanh (QK3)

–Hành quân Thần Phong 1 và 2 (QK2)

–Hành quân Toàn Thắng 17 (QK2)

–Hành quân Đại Bàng 8 Bồng Sơn (QK2)

–Hành quân Jefferson Tuy Hoà (QK2)

–Hành quân Liên Kết 26 Quảng Ngăi (QK1)

–Hành quân An Dân 79/66 (QK3)



https://www.youtube.com/watch?v=_kZfHB-18Fo




–Hành quân B́nh Phú 6 Phù Cát (QK2)

–Hành quân B́nh Phú 20 Qui Nhơn (QK2)

–Hành quân Lam Sơn 325/1 và 2 QT (QK1)

–Hành quân Dân Chí 270 Chương Thiện (QK4)

–Hành quân Tảo Thanh Đông Hà (QK1)

–Hành quân Liên Kết 81 Quảng Ngăi (QK1)






–Hành quân Lam Sơn 131 (QK1)

–Hành quân Dân Thắng Dakto (QK2)

–Hành quân Kamjei 167 Dakseang (QK2)

–Hành quân Lam Sơn 183 Giải toả Huế trong trận Tết Mậu Thân 1968 (QK1)

–Hành quân Chiến Dịch Toàn Thắng (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng 12/68–20/68 (QK3)

–Hành quân Dân Chí 6–7 (QK3)

–Hành quân Ven Đô (QK3)





–Hành quân Toàn Thắng 43/ĐB 1/70 (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng Đại Bàng 2/70 (QK3) (Kampuchia)

–Hành quân Toàn Thắng 1/71 –2/71 (QK3)

–Hành quân Lam Sơn Đại Bàng 72 (QK1)

–Hành quân Đại Bàng 18 A–B (QK1)


TUYÊN DƯƠNG CÔNG TRẠNG :


Hiệu kỳ Lữ Đoàn I Nhảy Dù được 3 lần tuyên dương công trạng trước Quân Đội, được ân thưởng dây biểu chương màu Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương liễu.

Về huy chương cá nhân, các chiến sĩ Lữ Đoàn I Nhảy Dù đă được ân thưởng :







–7 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu

–18 Huân Công Bội Tinh kèm ADBT/NDL

–142 Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu

–345 Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Vàng

–1001 Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Bạc

–2197 Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng.

Tài liệu tham khảo :


–Insignia of The Republic Of VietNam Airborne Division copyright @ 2002 by Harry F. Pugh.
–Tiểu Sử và Thành Tích của Sư Đoàn Nhảy Dù do BTL/SĐND/Pḥng TLC ấn hành năm 1972.
–Phỏng vấn trực tiếp một số chiến hữu và Niên Trưởng trong SĐND.

Đại úy Vơ Trung Tín – Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714–856–9202

Đại úy Nguyễn Hữu Viên – Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù

Email: pvotin@gmail.com


*********

hoathienly19 03-21-2025 06:17



TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ VNCH
CÀN QUÉT ĐỊCH TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NGĂI


https://www.youtube.com/watch?v=_kZfHB-18Fo

hoathienly19 03-24-2025 09:14



TIỂU ĐOÀN 9 NHẢY DÙ VNCH VÀ NHỮNG TRẬN ĐÁNH ĐI VÀO QUÂN SỬ ử



https://www.youtube.com/watch?v=ZAjkMzCB5Rg



************

hoathienly19 03-26-2025 08:52



TIỂU ĐOÀN 8 NHẢY DÙ VNCH ĐỘT KÍCH CHIẾM LẠI CĂN CỨ BARBARA



Trong trận chiến mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc giữa VNCH và quân đội Bắc Việt, trang sử QLVNCH đă ghi lại nhiều chiến tích hào hùng của tất cả binh chủng tham gia trận đánh này và đặc biệt binh chủng nhảy dù VNCH đă ghi đậm dấu ấn khi đă góp công rất lớn trong chiến thắng chung của Việt Nam Cộng Ḥa trong trận chiến mùa hè đỏ lửa Quảng Trị 1972 .

Dưới đây là chiến tích của tiểu đoàn 8 nhảy dù VNCH chiếm tiến hành cuộc đột kích đêm gây nên bất ngờ lớn của việt cộng để rồi chiếm lại căn cứ này sau đó.

Mời các bạn cùng theo dơi phần tường thuật của mũ đỏ Trần Minh Ngọc



https://www.youtube.com/watch?v=fokes7PMloU



****************

hoathienly19 03-28-2025 12:50



SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH VÀ NHỮNG TRẬN ĐÁNH SAU CÙNG TẠI BAN MÊ THUỘC 1975



https://www.youtube.com/watch?v=PgFmVfYFpUc






*****************

hoathienly19 04-04-2025 15:31

TRẬN SÂN BAY PHỤNG DỰC , BAN MÊ THUỘC THÁNG 3 -1975 KHÚC QUANH LỊCH SỬ VNCH
 


TRẬN SÂN BAY PHỤNG DỰC , BAN MÊ THUỘC THÁNG 3 -1975 KHÚC QUANH LỊCH SỬ VNCH



Một đơn vị của Sư Đoàn 23 Bộ Binh phối hợp với Kỵ Binh lên đường tiếp cứu Ban Mê thuột th́ được lệnh rút lui, Darlac tháng 3-1975





4 giờ sáng ngày 10 tháng 3, 1975.


Sau những trận mưa pháo suốt 2 tiếng đồng hồ, Cộng quân với chiến xa và biển người, tấn chiếm Ban Mê Thuột. Và với một lực lượng [b]đông gấp 10 lần, địch đă làm chủ t́nh h́nh ngay từ phút đầu.

Sự chống trả mảnh liệt của những đơn vị pḥng vệ thị xă cùng với sự yểm trợ hữu hiệu gan dạ của các phi công anh hùng, đă chặn bớt được sức tiến của quân thù.


Nhưng ngày hôm sau,
khi Cộng sản Bắc Việt tung thêm Sư đoàn tổng trừ bị 316 mới ở miền Bắc vào, th́ lực lương hai bên giữa ta và địch quá ư chênh lệch , cả về quân số, chiến xa lẫn vũ khí nặng !





12 giờ trưa ngày 10 tháng 3, 1975 tiểu khu Ban Mê Thuột mất !



https://www.youtube.com/watch?v=CTS6upyb814



8 giờ sáng hôm sau 11 tháng 3, 1975, 10 chiến xa T54 của Cộng sản Bắc Việt bắn trực xạ vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.

Vị Tư lệnh chiến trường chấp nhận rủi ro, nguy hiểm, yêu cầu Không quân đánh bom thẳng vào những xe tăng địch.

Những phản lực cơ A37 lao xuống.

Ba chiếc T54 bốc cháy, nhưng rồi 2 trái bom khác rơi trúng sập một đầu hầm của Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 Bộ binh.

Hệ thống truyền tin giữa Ban Mê Thuột-Pleiku bị hư hại hoàn toàn, mất liên lạc với Tư lệnh Chiến trường và Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột từ đó.






8 giờ sáng ngày 11 tháng 3, 1975,
giờ phút của định mệnh, và cũng là khởi đầu ngày thứ hai trong trận đánh quyết định giữa hai miền Nam-Bắc 1975. Chiến trường Ban Mê Thuột coi như kết thúc với sự tràn ngập của Bắc quân.

Nhưng tại phi trường Phụng Dực ,
cách Ban Mê Thuột khoảng 8 cây số về phía đông, một trung đoàn (-) của Sư đoàn 23, với 2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 53 Bộ binh, một Chi đoàn Thiết vận xa M113, một Pháo đội đại bác 105 ly vẫn tiếp tục chiến đấu thêm một tuần lễ nữa.

Chiến đấu dũng mănh, dai dẳng, phi thường cho đến những người lính cuối cùng và những viên đạn cuối cùng được bắn đi !

Đó là một huyền thoại trong một cuộc chiến đấu chống Cộng thần thánh nhất của quân dân miền Nam Việt Nam.

Đó cũng là biểu tượng tinh thần gang thép, sắt đá của người chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.


3 binh sĩ Sư Đoàn 23 Bộ binh QLVNCH vùng 2 chiến thuật





Trận thử sức ḍ dẫm của 2 trung đoàn Cộng sản Bắc Việt và các lực lượng pḥng thủ mặt trận phi trường Phụng Dực đầu tiên xảy ra lúc 14 giờ trưa ngày 10 tháng 3, 1975, với kết quả địch bỏ lại chiến trường trên 200 xác chết !







Nhưng chưa đầy một ngày sau, 5 giờ sáng 11 tháng 3, 1975 khi những chiến xa T54 Bắc Việt nghiền nát những đường phố Ban Mê Thuột, tiến thẳng vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cũng là lúc địch quân rửa hận cho đồng bọn chúng tại mặt trận phi trường Phụng Dực.

Sư đoàn 316 tổng trừ bị của Cộng sản Bắc Việt lần đầu tiên được sử dụng trên Chiến trường Cao nguyên và miền Nam Việt Nam.

Từ xa lộ đất Hồ Chí Minh, sư đoàn này bất chấp mọi thiệt hại, di chuyển ngày đêm để tới trận địa đêm 10 tháng 3, 1975.

Và ngay sáng hôm sau, dốc toàn lực lượng tấn công Trung đoàn 53 Bộ binh





45 phút khởi đầu là những cơn mưa đạn đại bác khiến chiến sĩ ta ch́m ngập trong giao thông hào.

Sau đó, Bắc quân với những tên lính trẻ xuất trận lần đầu, hung hăng, ḥ hét … xung phong. Từng lớp, từng lớp gục xuống, nhưng chúng vẫn hô, vẫn tiến.

Trận thư hùng thứ hai ngày 11 tháng 3, 1975 này kéo dài 2 giờ 40 phút. Gần 200 người anh hùng của chiến trường miền núi vĩnh viễn buông súng, ở lại Cao nguyên Việt Nam !

Nhưng những người c̣n lại vẫn tiếp tục chiến đấu. Chiến đấu không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương, không tăm gội, 24 giờ trên 24 giờ ngoài chiến hào pḥng thủ !





Quá nửa lực lượng bị thiệt hại từ khi ở mặt trận Quảng Đức rút về. Trung đoàn 53 Bộ binh hiện c̣n hơn một tiểu đoàn với khoảng 500 tay súng.

Và họ đă chiến đấu đơn độc sang ngày thứ ba 12 tháng 3, ngày thứ tư 13 tháng 3, ngày thứ năm 14 tháng 3, ngày thứ sáu 15 tháng 3, ngày thứ bảy 16 tháng 3.

Và hôm nay, ngày thứ tám 17 thang 3, 1975 !

Thật anh hùng ! Thật vĩ đại ! Thật phi thường !

Không c̣n từ ngữ nào khác hơn để ca ngợi, vinh danh họ. Và đó cũng là một huyền thoại độc đáo nhất của chiến tranh Viêt Nam trong trận đánh sau cùng trên Chiến trường Cao nguyên !


https://www.youtube.com/watch?v=u9ULPWMzVRw



**********

hoathienly19 04-05-2025 13:28


Thiếu Tướng Phạm văn Phú VNNCH



https://www.youtube.com/watch?v=YgZyaAj654I



Bay trên đầu những người anh hùng của mặt trận phi trường Phụng Dực trưa ngày 12 tháng 3, 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Chiến trường Cao nguyên đă nói chuyện với 2 người quân nhân lớn nhất và nhỏ nhất của Trung đoàn 53 Bộ binh.

“Người anh hùng Vơ Ân”, Trung tá Trung đoàn trưởng :


– Tŕnh Mặt Trời, lực lượng địch quá mạnh. (Mặt Trời là danh hiệu ngày hôm nay của Tướng Phú, Tư lệnh Quân đoàn II).

– Chú mày chịu nổi không ? Tinh thần anh em ra sao ?

– Bị sứt mẻ kha khá ngày hôm qua, nhưng chưa sao. Mặt Trời yên tâm !

– Chú mày muốn ǵ đặc biệt không ?

– Dạ không ! Nhưng sao Mặt Trời không bay trực thăng hôm nay?

– Tại qua muốn ở chơi với chú mày và những anh em khác lâu lâu một chút. Mà tại sao chú mày hỏi như vậ y?

– Tại v́ tôi muốn Mặt Trời đáp xuống coi kho vũ khí Việt cộng ở pḥng danh dự phi cảng cho anh em lên tinh thần.

Tướng Phú cười :

– Ư kiến hay đấy! Thôi … để lần sau vậy !

– …

“Người anh hùng Nguyễn Văn Bảy”, Binh nh́ xạ thủ súng cối 81 ly :


– Em tên ǵ ? Bao nhiêu tuổi ?

– Dạ … Binh nh́ Nguyễn Văn Bảy, 18 tuổi !

– Em thấy Việt cộng chết nhiều không ?

– Nhiều, nhiều lắm … Thiếu tướng !

– Em muốn xin Thiếu tướng ǵ nào ?

– Xin thuốc hút và … lựu đạn.

– Ǵ nữa ?

– Thôi !

– Thiếu tướng thăng cấp cho em lên Binh nhất ! Chịu không ?

– …

Một giọng cười khúc khích trong máy :

– Ông Thầy ! Ông Tướng tặng tôi cái “cánh gà” chiên bơ !

– Không được … tao phản đối !

– …

Cái “cánh gà” , chữ V, là h́nh dáng của chiếc lon Binh Nhất.

Ông Thầy là tiếng gọi thân mật vị Trung tá Trung đoàn trưởng mà người “Binh Nhất vừa được tân thăng” Nguyễn Văn Bảy thường hay sử dụng.

Mẫu đối thoại trên cho thấy t́nh chiến hữu, anh em của những người lính Trung đoàn 53 Bộ binh.

Đó cũng là một cách để chứng minh, tại sao trong những ngày cuối cùng họ vẫn sống chết bên nhau ? Họ đă chia nhau từng viên đạn, từng dúm gạo sấy, từng hớp nước, từng hơi thuốc …

Theo thời gian, 7 ngày đêm chiến đấu dài hơn 7 năm tại mặt trận phi trường Phụng Dực.

Đă ba ngày rồi, từ khi lệnh triệt thoái cao nguyên được ban hành, Trung đoàn 53 không c̣n nhận được bất cứ một tiếp tế, liên lạc nào với Quân đoàn.

Họ đă phải sử dụng cả súng đạn tịch thu được của quân thù trong trận đánh đầu tiên, để bắn lại chúng !






Nhưng hôm nay, ngày 17 tháng 3, 1975
là ngày dài nhất trong cuộc đời lính chiến của họ !

7 giờ 40 phút sáng,
khi rừng núi cao nguyên vẫn c̣n ngủ yên với những lớp sương mù phủ kín, hàng trăm hàng ngàn viện đại bác Bắc quân nă vào những chiến hào của Trung đoàn 53 Bộ binh .

Cỏ cây rạp xuống . Những cột đất đỏ từng cụm, từng khóm tung cao !

Trận địa pháo kéo dài một tiếng đồng hồ. Tiếp theo sau là tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Tiếng ḥ reo “sóng vỡ” của biển người.

Và rồi tiếng gầm thét của hàng đoàn chiến xa T54 trên khắp ngả tiến vào, cầy nát phi đạo phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột !

Hôm nay là ngày đầu của cuộc rút quân của Quân đoàn II. Sư đoàn 316 Cộng sản Bắc Việt quyết khai tử Trung đoàn 53 Bộ binh, quyết nhổ đi “cái gai” cuối cùng của mặt trận Ban Mê Thuột, của Chiến trường Cao nguyên để tiến về duyên hải.


https://www.youtube.com/watch?v=0OuBitPdaVs



8 giờ 30 sáng,
Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, vị Tướng lớn nhất của Quân đội gọi yêu cầu được tường tŕnh đặc biệt về mặt trận phi trường Phụng Dực và các chiến sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh.

Đây cũng là một vinh dự, một hănh diện cuối cùng dành cho những dũng sĩ tại mặt trận này !



https://www.youtube.com/watch?v=qlDzPUM68x4


Trong chuyến đi t́m mộ của Chú đă ngă xuống năm 1969 tại Buôn Mê Thuột, Tôi đă gặp nhiều khó khăn, nhưng cuối cũng được đền đáp.

Chú và tất cả các đồng đội của chú nằm nơi hoang lạnh, không hương khói, nó như không c̣n là nghĩa trang mà là nương rẫy của người. Tôi thấy xót thương vô cùng, cảm thấy đau buồn thay cho các chú.

Từ đau xót đó, từ khó khăn trong việc t́m kiếm đó, nên tôi quyết định ghi h́nh lại và nói rơ địa điểm cho bà con nhân thân sắp xếp thời gian đưa người nhà của ḿnh trở về càng sớm càng tốt.

Ngày nay, nơi này là trung tâm thành phố, một vùng đất đắc địa, chắc chắn họ sẽ giải tỏa di dời. V́ vậy mọi người tranh thủ đưa các chú trở về với gia đ́nh

Địa điểm định vị : 17A Hà Huy Tập, TP BMT, Đắk Lắk ( cây cảnh Hiếu
hoặc gần nhà thờ Chính Tâm

*****************

hoathienly19 04-08-2025 12:01



https://www.youtube.com/watch?v=fKbBhYF3INc



Nhưng Đại tướng Viên chỉ được báo cáo
qua nguồn tin không chính xác (!) của bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 hành quân ở Phước An :

Trung đoàn 53 Bộ binh đang bị đánh rất nặng, Bắc quân đă tràn ngập vị trí pḥng thủ !

Đạn hết, lương thực hết, không c̣n cấp chỉ huy, không c̣n được yểm trợ, không c̣n máy móc liên lạc để … kêu cứu.

Những chiến sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh gục ngă từng người, từng tổ, từng … tiểu đội … trong những chiến hào …


11 giờ 30 sáng, tiếng súng im bặt. Bắc quân cắm ngọn cờ đỏ trên đài kiểm soát của phi trường Phụng Dực, và thu dọn chiến trường.





Không có tù binh, không có cả những người lính bị thương. Những dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh không c̣n chiến đấu nữa.

Họ đă tan ra, đă nát ra … từng mảnh vụn, và lẫn trong đất đỏ của miền cao nguyên hùng vĩ !


Ngày 17 tháng 3, 1975 Trung đoàn 53 Bộ binh bị Bắc quân xóa tên.

Đó cũng là một ngày đau buồn ! Lần đầu tiên trong 21 năm chiến đấu chống cộng, giữ nước, bộ Tư lệnh Quân đoàn II triệt thoái khỏi cao nguyên !


https://www.youtube.com/watch?v=tA2J9S0NZrQ



Nhưng không, đó vẫn chưa phải là những ḍng chữ cuối cùng viết về các dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh !

Bởi v́ … vẫn c̣n những anh hùng của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa mang phù hiệu của Trung đoàn 53 … trên vai áo.


Huy Hiệu Trung Đoàn 53, Sư Đoàn 23 BB QLVNCH






Hai ngày sau, khi Bắc quân tràn ngập phi trường Phụng Dực, Ban Mê Thuột, một nhóm 16 quân nhân của đơn vị này đă về được Phước An và tiếp tục chiến đấu tại mặt trận Quốc lộ 21.





Một tuần lễ sau nữa, ngày 24 tháng 3, 1975 ba người anh hùng khác, sau 7 ngày 7 đêm, đi trên mấy chục cây số đường rừng núi, sống với cỏ cây thiên nhiên, từ Ban Mê Thuột đă lên tới buôn Thượng Dam Rong, Đà Lạt !






Họ là những quân nhân bất tử của Trung đoàn 53 Bộ binh ! Họ thật vĩ đại, thật phi thường !


Và đó cũng là một huyền thoại của chiến tranh Việt Nam trong trận chiến Nam-Bắc sau cùng 1975.

Phạm Huấn

Mặt Trận Ban Mê Thuột


************

hoathienly19 04-14-2025 21:58




NHẢY DÙ VÀ TRẬN KHÁNH DƯƠNG 1975

TẬP 1 : MỘT ĐI KHÔNG TRỞ LẠI



https://www.youtube.com/watch?v=46TV7-dHVsE




**************

hoathienly19 04-15-2025 18:28




NHẢY DÙ VÀ TRẬN KHÁNH DƯƠNG 1975

TẬP 2 : KHÁNH DƯƠNG BỊ CÔ LẬP , NHẢY DÙ TỬ THỦ


https://www.youtube.com/watch?v=CshOmGwC6Pg



TẬP 3 : QUI NHƠN , NGÀY TẢN CUỘC CHIẾN



https://www.youtube.com/watch?v=vV1dY4WQeq0






*************

hoathienly19 04-17-2025 08:03

ĐÀ NẴNG GIỜ HẤP HỐI !
 


ĐÀ NẴNG GIỜ HẤP HỐI !




https://www.youtube.com/watch?v=vncigXOgBSM



Trời đất ! Một cảnh hoang tàn, hỗn độn diễn ra ngay trước mắt tôi :

Bao nhiêu hồ sơ, giấy tờ cuả văn pḥng, cộng thêm cái đống sách 501 cuốn cuả tôi sưu tầm, góp nhặt cả 2 chục năm nay nằm lung tung, bừa băi, ngổn ngang như một đống rác.

Đă xót xa cho vận nước, tôi càng thêm xót xa cho cái cảnh này.

Chán quá, tôi quay ra xe quên cả lượm lại mấy cuốn Tự Điển Việt, Pháp, Mỹ, Anh dày cộm... là những thứ cộng sản có thấy tôi giữ, tôi cũng chẳng sợ ǵ.



******************

hoathienly19 04-18-2025 05:22

TIỂU ĐOÀN 96 BIỆT ĐỘNG QUÂN VÀ TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG
 


TIỂU ĐOÀN 96 BIỆT ĐỘNG QUÂN VÀ TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG




https://www.youtube.com/watch?v=q4yQ4P-tdRc



- Giao em xử nó cho ông thầy.

- Nhắm làm được không đó.

- Bảo đảm, không đẹp không lấy tiền.

- Ra phía trước nằm đi, khi nào tôi cho lịnh khai hỏa mới được bắn.

- Cám ơn ông thầy.

- Nhớ không được bắn bậy khi chưa có lệnh đó.

- Nhận rơ, ông thầy. Chơi 2 trái liên tiếp là bà nội mẹ nó



*************

hoathienly19 04-19-2025 19:47

CUỘC TRIỆT THOÁI BI THẢM CỦA QLVNCH KHỎI CAO NGUYÊN NĂM 1975
 


CUỘC TRIỆT THOÁI BI THẢM CỦA QLVNCH KHỎI CAO NGUYÊN NĂM 1975






Kể từ khi Tiểu Khu Phước Long bị các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đánh chiếm hồi Tháng Giêng, 1975, tiến tŕnh sụp đổ của chính quyền và quân đội miền Nam Việt Nam có thể nói là đă khởi đầu bằng cuộc triệt thoái bi thảm khỏi Cao Nguyên của Quân Đoàn 2 Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa hồi Tháng Ba và kết thúc với việc Sài G̣n sụp đổ vào ngày 30 Tháng Tư, 1975.

Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ vào tay Cộng Quân vào ngày 12 Tháng Ba, 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 dưới quyền Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, vào chiều ngày 14 Tháng Ba, triệu tập các sĩ quan cao cấp để thông báo quyết định rút bỏ Cao Nguyên do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra .







Thiếu Tướng Phú ra lệnh cho Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh rút từ đèo Mang Yang về tăng phái cho Liên Đoàn 23 Biệt Động Quân để lữ đoàn này cùng Công Binh sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên liên tỉnh lộ 7B mà theo kế hoạch th́ sẽ được dùng làm con đường rút lui chính của các lực lượng Quân Đoàn 2 tử Pleiku về Tuy Ḥa.

Liên tỉnh lộ 7B từ ngă ba Mỹ Thạnh tới Tuy Ḥa trước đây là một con đường trải đá, có ba cây cầu chính là Phú Thiện (dài 50 mét), Le Bac (dài 600 mét), và Cà Lúi (dài 40 mét).






Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Vùng 2 Chiến Thuật, được chỉ định làm chỉ huy trưởng tổng quát cuộc rút quân.

Liên tỉnh lộ 7B trên bản đồ.
(H́nh : Tài liệu)






DIỄN TIẾN CUỘC TRIỆT THOÁI


Ngày 16 Tháng Ba,
đoàn quân xa vận chuyển vũ khí và quân dụng di tản bắt đầu rời thị xă Pleiku.

Đoàn xe được chia ra thành bốn phần, mỗi phần có khoảng 300 quân xa đủ loại và các xe dân sự.

Ngày đầu tiên, đoàn xe di chuyển êm xuôi v́ có yếu tố bất ngờ.

Nhưng đến ngày 17 Tháng Ba
, có thêm nhiều dân chúng lũ lượt kéo theo nên cuộc di tản trở nên hỗn loạn và phức tạp.





Ngày 18 Tháng Ba,
trong khi Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân đang cùng với thiết giáp mở đường đánh dẹp các chốt của Cộng Quân th́ bị Không Quân VNCH oanh tạc lầm , làm nhiều binh sĩ thương vong.

Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân được lệnh cho Tiểu Đoàn 51 Biệt Động Quân tiến nhanh và chiếm lĩnh cây cầu Phú Túc để Công Binh tiến hành sửa chữa.

Trong khi chờ đợi, Tướng Phú ra lệnh tạm ngưng lui binh và lập pḥng tuyến tại thị xă Hậu Bổn.

Tuy nhiên quân dân tại tỉnh Phú Bổn, bị ảnh hưởng dây chuyền, cũng hoảng hốt gia nhập cuộc di tản. Tối đến, các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt lại pháo kích vào thị xă làm cho nhiều thường dân vô tội bị chết oan.


Ngày 21 tháng 3 năm 1975 nguyên gia đ́nh bị cọng sản bắn chết ở quốc lộ 1, gần đèo Hải Vân đang trên đường di tản






Cũng trong ngày 18 Tháng Ba,
Sư Đoàn 320 Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc truy kích các lực lượng Quân Đoàn 2 đang rút lui, đuổi theo đánh phá đoàn xe triệt thoái ở Phú Bổn, rồi sau đó tiếp tục tấn công xuống Củng Sơn.

Nhận được báo cáo, Tướng Phú ra lệnh cho Tướng Tất rút bỏ Hậu Bổn để về Tuy Ḥa.

Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân được điều động phản công cầm chân địch.
Kịch chiến diễn ra suốt đêm và kéo dài tới sáng hôm sau, lúc đó đoàn quân và dân mới tiếp tục di chuyển được.

Tuy nhiên, một đơn vị Cộng Sản Bắc Việt khác đă tràn chiếm quận Phú Túc ở phía Nam Hậu Bổn. Đoàn xe di chuyển đến nhánh sông Ba phía Nam Củng Sơn th́ bị cát lún, phải chờ trực thăng chở vĩ sắt đến cho Công Binh thực hiện việc lót đường.

Các đơn vị Cộng Quân từ Thuần Mẫn, Phú Bổn, đổ xuống đă tiếp tục thiết lập các chốt cản đường. Một tiểu đoàn Địa Phương Quân và một tiểu đoàn Biệt Động Quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt.

Ngày 22 Tháng Ba, hai tiểu đoàn Biệt Động Quân ở lại đoạn hậu đă đánh tan một trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt, gây thiệt hại nặng cho đối phương.



https://www.youtube.com/watch?v=IjwFBLcM18w



Tuy nhiên, lúc đó, các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt từ Ban Mê Thuột lại được lệnh di chuyển gấp theo tỉnh lộ 287 để đổ xuống liên tỉnh lộ 7B mà chận cắt đoàn xe.

Ngày 26 Tháng Ba,
đoàn xe di tản vẫn c̣n bị kẹt lại gần Phú Thứ (trên đường từ Củng Sơn về Tuy Ḥa) v́ có các chốt chận của Cộng Quân.

Tính đến ngày này, theo báo cáo của Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, toàn bộ chiến xa M-48 và M-41 đều bị bỏ lại trên lộ tŕnh hoặc bị phá hủy v́ trúng đạn pháo địch, ngoại trừ một chi đoàn thiết vận xa M-113 chạy thoát về Tuy Ḥa.


Người mẹ khóc con chết v́ trúng đạn pháo kích của cộng sản trên đường di tản ở quốc lộ 1




Tướng Phú ra lệnh cho Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, tư lệnh phó Quân Đoàn 2 đặc trách hành quân kiêm tư lệnh tiền phương Quân Đoàn 2-Quân Khu 2, bay chỉ huy lực lượng xung kích phối hợp với các phi đội trực thăng để giải tỏa áp lực địch.

Tướng Phú cũng ra lệnh cho Chuẩn Tướng Tất điều động chi đoàn thiết vận xa M-113 trở lại Phú Thứ đặng phối hợp cùng với Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân triệt hạ các chốt chận của Cộng Quân.

Với sự yểm trợ của các thiết vận xa M-113, lực lượng Biệt Động Quân đă dần dần dọn sạch các chốt chận.
Sau khi Tiểu Đoàn 34 Biệt Động Quân đă thanh toán các chốt sau cùng tại xă Mỹ Thạnh Ṭng để khai thông con đường di tản, đoàn xe đầu tiên của quân và dân Quân Khu 2 đă về được tới Tuy Ḥa vào ngày 25 Tháng Ba.



https://www.youtube.com/watch?v=yg7FmVAwIlw




Tổng kết,
trong số 1,200 xe quân sự vào lúc khởi sự cuộc di tản từ Pleiku th́ khi đến Tuy Ḥa chỉ c̣n lại 300 chiếc mà thôi.





**********


All times are GMT. The time now is 11:48.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.22204 seconds with 9 queries